Phương pháp thu phân và khả năng tiêu hóa của cá lóc (Channa striata) với nguồn nguyên liệu Protein khác nhau

Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(81)/2017  
PHƯƠNG PHÁP THU PHÂN VÀ KHẢ NĂNG TIÊU HÓA CỦA CÁ LÓC  
(Channa striata) VỚI NGUỒN NGUYÊN LIỆU PROTEIN KHÁC NHAU  
Ngô Minh Dung1, Trần ị anh Hiền2  
TÓM TẮT  
Nghiên cứu nhằm xác định thời điểm thu phân sau khi cho cá ăn và phương pháp thu phân thích hợp áp dụng  
cho nghiên cứu độ tiêu hóa ở cá lóc (Channa striata). Nghiên cứu gồm 03 thí nghiệm: (i) Xác định thời điểm thu  
phân bằng phương pháp lắng với nhịp thu phân mỗi 2 giờ một lần, bắt đầu thu phân tại thời điểm 2 giờ sau khi cho  
cá ăn và thu liên tục trong 24 giờ; (ii) Xác định phương pháp thu phân thích hợp được so sánh với 03 phương pháp  
khác nhau là phương pháp lắng, mổ và vuốt; (iii) Đánh giá mức độ tiêu hóa (ADC) vật chất khô, ADC protein và  
ADC năng lượng ở cá lóc từ nguồn nguyên liệu cung cấp protein khác nhau bao gồm bột cá, bột đậu nành li trích,  
bột thịt xương và bột huyết. Kết quả đã xác định thời điểm thu phân thích hợp ở cá lóc là 8 giờ sau khi cho cá ăn;  
xác định thu phân bằng phương pháp lắng thích hợp nhất cho đối tượng cá lóc để xác định độ tiêu hóa, trong khi đó  
phương pháp mổ và vuốt thì không phù hợp để áp dụng thu phân; xác định độ tiêu hóa vật chất khô ở cá lóc với các  
nguồn nguyên liệu dao động từ 52,3% - 85,5%. Nguyên liệu bột cá Kiên Giang được cá lóc tiêu hóa tốt nhất (85,8%),  
kế đến bột đậu nành li trích (69,7%), bột huyết (69,0%) và bột thịt xương (52,3%). Độ tiêu hóa protein và năng lượng  
ở cá lóc cũng cho kết quả tương tự.  
Từ khóa: Cá lóc, Channa striata, độ tiêu hóa, phương pháp thu phân  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
nghiệm tìm ra phương pháp thu phân để nghiên cứu  
độ tiêu hóa thức ăn ở cá lóc phù nhất nhằm đạt được  
số liệu chính xác và độ tin cậy cao, từ đó áp dụng  
phương pháp nghiên cứu này để tiếp tục nghiên cứu  
đánh giá khả năng tiêu hóa một số nguồn nguyên  
liệu cung cấp protein chế biến thức ăn viên cho cá  
lóc nhằm phát triển mô hình nuôi cá lóc bền vững  
ở ĐBSCL.  
Cá lóc (C. striata) là đối tượng nuôi phổ biến ở  
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bởi chất lượng  
thịt ngon và giá cả hợp lý. Mô hình nuôi cá lóc đa  
dạng như nuôi ao, nuôi lồng, nuôi vèo, nuôi trong  
bể lót bạt (Lê Xuân Sinh và Đỗ Minh Chung, 2010).  
eo kết quả điều tra mô hình nuôi cá lóc ở ĐBSCL  
của Ngô ị Minh úy và Trương Đông Lộc (2015)  
cho thấy chi phí thức ăn chiếm tỉ trọng lớn nhất  
trong tổng cơ cấu chi phí lên tới 88,4% ở mô hình  
nuôi cá lóc trong ao đất, như vậy có thể chứng minh  
được rằng sự phát triển bền vững và hiệu quả kinh  
tế của mô hình nuôi cá lóc chủ yếu liên quan đến  
chất lượng thức ăn. Một số vấn đề như quản lý tốt  
thức ăn, tăng khả năng hấp thu thức ăn, đa dạng  
nguồn liệu liệu chế biến thức ăn, giá thành thức ăn  
rẻ hơn,… đó là những vấn đề quan trọng cần được  
nghiên cứu sâu và một cách hệ thống để làm cơ sở  
khoa học cho việc thiết lập khẩu phần ăn hợp lý. Đặc  
biệt, cần nghiên cứu về dưỡng chất và khả năng tiêu  
hóa các dưỡng chất từ các nguồn nguyên liệu cung  
cấp protein khác nhau cho nhu cầu dinh dưỡng của  
cá lóc nhằm tối ưu hóa khẩu phần ăn của chúng.  
Đánh giá khả năng tiêu hóa một số nguồn nguyên  
liệu cung cấp protein tùy thuộc vào đối tượng nuôi  
cũng như phương pháp thu phân để nghiên cứu độ  
tiêu hóa. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng kết  
quả nghiên cứu độ tiêu hóa của một số thành phần  
thức ăn tùy thuộc nhiều vào phương pháp thu phân  
(Hien et al., 2010; Allan et al., 1999; Heinitz et al.,  
2016). Như vậy vấn đề đặt ra ở đây cần tiến hành thí  
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
2.1. Vật liệu nghiên cứu  
Nguồn cá lóc thí nghiệm: Cá lóc (C. striata) có  
khối lượng trung bình 120 g/con, chọn cá lóc đồng  
đều kích cỡ, khỏe và được nuôi dưỡng trong bể  
composite 4 m3 bằng thức ăn thí nghiệm một tuần  
trước khi tiến hành thí nghiệm.  
Hệ thống và thức ăn thí nghiệm: Tất cả các thí  
nghiệm đều được tiến hành trên hệ thống thu phân  
lắng (170L/bể) thiết kế chuyên cho nghiên cứu xác  
định độ tiêu hóa theo Hien và cộng tác viên (2010).  
ức ăn sử dụng trong nghiên cứu được dựa theo kết  
quả nghiên cứu của Mohanty và Samantaray (1997);  
thức ăn được trộn với 1% chất đánh dấu chromic  
oxide (Cr2O3).  
2.2. Phương pháp nghiên cứu  
2.2.1. Bố trí thí nghiệm  
a) Thí nghiệm 1: Nghiên cứu xác định thời điểm  
thu phân  
í nghiệm nhằm tìm ra thời điểm thu phân  
1 Nghiên cứu sinh, Khoa ủy sản, Trường Đại học Cần ơ  
2 Khoa ủy sản, Trường Đại học Cần ơ  
114  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(81)/2017  
thích hợp để xác định chính xác độ tiêu hóa thức  
ăn ở cá lóc. Cá lóc được bố trí với mật độ 15 con/  
bể; được cho ăn theo nhu cầu (ăn no đến khi ngừng  
ăn) 1 lần/ngày vào lúc 8 giờ sáng; cá lóc được cho ăn  
7 ngày để quen dần với thức ăn trước khi tiến hành  
thu phân. Nhịp thu mẫu phân để xác định lượng  
phân và xác định độ tiêu hóa thức ăn của cá lóc liên  
tục trong 24 giờ sau khi ngừng cho ăn với mỗi 2 giờ  
(thời điểm thu mẫu sau khi cho cá lóc ngưng ăn: 2;  
4; 6; 8;10; 12; 14; 16; 18; 20; 22 và 24) và bắt đầu  
thu mẫu phân ở ngày nuôi thứ tám. Phân được thu  
vào các ống falcon nhựa qua van xả dưới bình lắng.  
Trong suốt thời gian thu phân, các ống falcon nhựa  
được được giữ lạnh trong hỗn hợp đá muối. Mẫu  
phân được để lắng và sấy khô ở nhiệt độ 60oC trong  
24 h, cân khối lượng. Do lượng phân thu được mỗi 2  
giờ ở 1 bể rất ít nên lượng phân mỗi 4 bể được trộn  
lại để đủ lượng phân phân tích độ tiêu hóa. Giữ mẫu  
âm 20oC cho đến khi phân tích độ tiêu hóa.  
b) í nghiệm 2: Nghiên cứu xác định phương pháp  
thu phân thích hợp  
í nghiệm nhằm tìm ra phương pháp thu phân  
thích hợp cho nghiên cứu tiêu hóa thức ăn của cá  
lóc. í nghiệm gồm 3 nghiệm thức (NT): u phân  
bằng phương pháp lắng; vuốt và mổ, mỗi nghiệm  
thức được lặp lại 3 lần. Cá lóc được bố trí với mật độ  
15 con/bể; được cho ăn theo nhu cầu (ăn no đến khi  
ngừng ăn) 1 lần/ngày vào lúc 8 giờ sáng, cá lóc được  
cho ăn 7 ngày để quen dần với thức ăn trước khi  
tiến hành thu phân. ời gian thí nghiệm kéo dài 14  
ngày. Căn cứ vào kết quả của thí nghiệm 1 xác định  
thời điểm thu phân thích hợp ở cá lóc là 8 giờ sau  
khi cá ăn thì tiến hành thu phân (bảng 1) được mô  
tả như sau: (i) NT1: u phân bằng phương pháp  
lắng tiến hành thu phân trong 7 ngày; (ii) NT2: u  
phân bằng phương pháp vuốt được thực hiện sau  
khi cá ngưng ăn 8 giờ bằng cách vuốt phần bụng cá  
lóc để ép phân từ đoạn ruột cuối ra ngoài; (iii) NT3:  
u phân bằng phương pháp mổ được thực hiện sau  
khi cá ngưng ăn 8 giờ bằng cách mổ toàn bộ để tiến  
hành thu mẫu phân ở đoạn ruột sau.  
Bảng 1. ành phần hóa học nguyên liệu làm thức ăn (% khối lượng khô)  
Độ k Protein Lipid Tro Xơ NFE  
(%) (%) (%) (%) (%) (%)  
Năng lượng  
(KJ/g)  
Nguyên liệu  
Bột cá1  
Bột đậu nành2  
Bột thịt xương3  
Bột huyết4  
85,4  
91,6  
86,8  
92,6  
64,5  
47,2  
50,7  
92,5  
5,42  
2,64  
8,07  
0,56  
23,7  
8,89  
41,7  
2,59  
0,61  
5,39  
3,23  
3,33  
5,86  
35,9  
-
18,5  
19,3  
15,8  
22,9  
1,03  
Ghi chú: Nguồn nguyên liệu: 1Kiên Giang; 2Arhentina; 3Ý; 4Brazil  
c) í nghiệm 3: Nghiên cứu khả năng tiêu hóa các  
nguồn nguyên liệu cung cấp protein khác nhau ở cá lóc  
khô, protein, độ béo, tro, chất xơ được xác định theo  
phương pháp chuẩn mô tả trong AOAC (2000).  
Chỉ tiêu chất đánh dấu (Cr2O3) được xác định theo  
phương pháp của Furukawa và Tsukahara (1966).  
Chỉ tiêu dẫn xuất không đạm (NFE) được xác  
định bằng phương pháp loại trừ: NFE (%) = [100% -  
(% protein + % Lipid + % tro + % xơ)].  
Nghiên cứu nhằm đánh giá khả năng tiêu hóa  
của cá lóc với nguồn protein từ các nguyên liệu khác  
nhau (Bảng 2). í nghiệm gồm 5 NT bao gồm NT  
đối chứng và 4 nghiệm thức thức ăn có tỉ lệ thức ăn  
đối chứng và nguyên liệu là 70:30. NT bột cá KG,  
NT bột đậu nành li trích, NT bột thịt xương và NT  
bột huyết, các nghiệm thức được phối trộn chất  
(Cr2O3) đánh dấu (Bảng 2). ành phần hóa học ở  
các nghiệm thức thức ăn làm thí nghiệm (Bảng 3);  
mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, áp dụng phương  
pháp thu phân lắng được xác định tối ưu từ kết quả  
nghiên cứu ở thí nghiệm 2. ời gian thu phân là  
14 ngày.  
Năng lượng được xác định theo công thức: Năng  
lượng (KJ/g) = [(protein 23,7 + Lipid 39,5 +  
˟
˟
(NFE + Xơ) 17,2)/100]. Độ tiêu hóa dưỡng chất  
˟
của nguyên liệu được xác định theo phương pháp  
được mô tả bởi Bureau và Hua (2006).  
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu  
Các giá trị trung bình được tính trên chương  
trình Microsof Excel 2010. So sánh trung bình giữa  
các nghiệm thức dựa vào one-way ANOVA và phép  
thử Duncan với mức ý nghĩa 0,05 bằng chương trình  
SPSS 21.0.  
2.2.2. Chỉ tiêu phân tích và đánh giá  
Chỉ tiêu phân tích: Phân tích thành phần hóa  
học của nguồn nguyên liệu và thức ăn bao gồm độ  
115  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(81)/2017  
Bảng 2. ành phần nguyên liệu và hóa học của thức ăn thí nghiệm (% khối lượng khô)  
Nghiệm thức  
Bột đậu nành Bột thịt xương  
Nguyên liệu  
Đối chứng  
Bột cá KG  
Bột huyết  
Bột cá  
36,9  
34,3  
18,9  
2,0  
5,9  
1,0  
1,0  
-
25,8  
24,0  
13,3  
1,4  
4,1  
0,7  
0,7  
30,0  
-
25,8  
24,0  
13,3  
1,4  
4,1  
0,7  
0,7  
-
25,8  
24,0  
13,3  
1,4  
4,1  
0,7  
0,7  
-
25,8  
24,0  
13,3  
1,4  
4,1  
0,7  
0,7  
-
Bột đậu nành  
Bột mì  
Premix vitamin1  
Dầu cá2  
CMC3  
Cr2O3  
Bột cá KG  
Bột đậu nành  
Bột thịt xương  
Bột huyết  
Tổng  
-
-
-
30,0  
-
-
-
-
-
-
-
30,0  
-
100  
30,0  
100  
100  
100  
100  
ành phần hóa học của các nghiệm thức thức ăn thí nghiệm (% khối lượng khô)  
Protein (%)  
Lipid (%)  
Khoáng (%)  
Xơ (%)  
NFE (%)  
Năng lượng (KJ/g)  
44,2  
8,98  
13,4  
1,44  
31,9  
19,8  
51,4  
7,85  
17,4  
1,19  
22,1  
19,3  
46,5  
7,02  
12,7  
2,78  
31,0  
19,6  
43,6  
8,64  
22,5  
1,28  
24,1  
18,1  
58,7  
6,40  
11,1  
2,01  
21,8  
20,5  
1
Ghi chú: KG: Kiên Giang; Premix vitamin: vitamin A (400.000 IU), vitamin D3 (80.000 IU), vitamin E (12g),  
vitamin K3 (2,4g), vitamin B1 (1,6g), vitamin B2 (3g), vitamin B6 (1g), niacin (1g), vitamin B9 (0,8g), vitamin B12  
(0,004g), acid folic (0,032g), biotin (0,17g), vitamin C (60g), choline (4,8g), inositol (1,5g), ethoxyquin (20,8g), Cu (10g),  
FeSO4 (20g), Mg (16,6g), Mn (2g), Zn (11g) (IU/ kg; g/kg); 2Dầu cá biển; 3CMC: Carboxylmethyl Cellulose.  
2.3. ời gian và địa điểm nghiên cứu  
hypophthalmus) là 14 giờ sau khi ăn; nghiên cứu  
của nhóm Allan và cộng tác viên (1999) ở cá vược  
(Bidyanus bidyanus) là 18 h sau khi ăn; trong khi  
nghiên cứu của Hernández và cộng tác viên (2015)  
ở cá hồng (Lutjiannus guttatus) là 3 - 4 h sau khi ăn.  
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về thời điểm thu  
phân thích hợp để xác định độ tiêu hóa thức ăn tùy  
thuộc lớn vào loài cá thí nghiệm. Kết quả nghiên  
cứu này đã khẳng định được rằng thời gian thu phân  
thích hợp cho nghiên cứu về độ tiêu hóa ở cá lóc là  
8 giờ sau khi cá ăn.  
í nghiệm được thực hiện từ tháng 8 - tháng 12  
năm 2012 tại Trại thực nghiệm, Bộ môn Dinh dưỡng  
và Chế biến ủy sản, Khoa ủy sản, Trường Đại  
học Cần ơ.  
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN  
3.1. Kết quả xác định thời điểm thu phân  
Lượng phân của cá lóc thu được sau 2 h cho ăn  
(0,15 g/bể) tăng dần đến 10 h sau cho ăn (0,76 g/bể),  
sau đó giảm dần sau 12 h cho ăn (0,56 g/bể) giảm  
đến sau 24 h cho ăn (0,14 g/bể) . Lượng phân thu  
được nhiều nhất thời điểm 6 - 16 h sau khi cá ăn dao  
động từ 0,63 - 0,76 g/bể. Độ tiêu hóa vật chất khô thu  
được cao nhất tại thời điểm 8 h sau khi cho ăn, thấp  
nhất 70% ở thời điểm 2 h sau khi cá ăn (Hình 1).  
Tuy nhiên, độ tiêu hóa vật chất khô ở cá lóc tại các  
thời điểm khác nhau trong 24 h khác biệt không có ý  
nghĩa thống kê (p>0,05) và dao động từ 70 - 73,2%.  
Một số nghiên chứng minh rằng thời điểm thu mẫu  
phân tùy thuộc vào loài cá khác nhau, kết quả nghiên  
cứu của Hien và cộng tác viên (2010) cho thấy lượng  
phân thu được nhiều nhất ở cá tra (Pangasinodon  
Hình 1. Khối lượng phân và độ tiêu hóa thức ăn  
của cá lóc tại các thời điểm khác nhau  
(ADC: Apparent Digestibility Coefficients)  
116  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(81)/2017  
3.2. Nghiên cứu xác định phương pháp thu phân  
thích hợp  
với phương pháp mổ. Điều này còn được chứng minh  
qua nghiên cứu của Allan và cộng tác viên (1999)  
trên cá vược (Bidyanus bidyanus); Storebakken và  
cộng tác viên (1998) trên cá hồi (Salmom salar) thì  
phương pháp thu phân lắng là thích hợp nhất. Tuy  
nhiên, theo nghiên cứu của Hemre và cộng tác viên  
(2003) trên cá tuyết (Gadus morhua) thì phương  
pháp thu phân vuốt và mổ được sử dụng phổ biến  
nhất và ADC thu được khác biệt không có ý nghĩa  
thống kê. Tương tự, Glencross và cộng tác viên  
(2005) thí nghiệm so sánh phương pháp thu phân  
lắng và vuốt trên cá hồi (Oncorhynchus mykiss) với  
nhóm nguyên liệu khác nhau, kết quả cho thấy thu  
phân bằng phương pháp vuốt cho kết quả ADC  
cao hơn so với phương pháp lắng. Nghiên cứu áp  
dụng phương pháp thu phân vuốt và mổ trên cá tầm  
(Acipenser oxyrinchus desotoi), cho kết quả ADC vật  
chất khô, năng lượng và đạm thô của phương pháp  
vuốt lần lượt là 58%, 69% và 85%, cao hơn so với  
phương pháp mổ lần lượt là 54%, 64%, và 78% và  
phương pháp vuốt là phương pháp được lựa chọn  
cho loài cá này (Veneroa et al., 2006).  
Độ tiêu hóa thức ăn ở cá lóc bằng 3 phương pháp  
thu phân khác nhau được trình bày ở (Bảng 3).  
Lượng phân thu được bằng phương pháp vuốt rất  
ít, không đủ lượng phân để phân tích độ tiêu hóa,  
do cấu trúc ống tiêu hóa cá lóc gấp khúc, vách ruột  
dày nên khó vuốt phân. Phương pháp mổ thu được  
phân ít do ruột cá nhỏ, ngắn, thành ruột dầy, dễ lẫn  
thức ăn chưa tiêu hóa hoàn toàn, máu... Vì vậy, kết  
quả thu được độ tiêu hóa vật chất khô và protein  
ở phương pháp thu phân mổ lần lượt là 21,0% và  
41,1% thấp hơn rất nhiều và khác biệt có ý nghĩa  
thống kê (p<0,05) so với phương pháp thu mẫu phân  
bằng phương pháp lắng lần lượt là 70,8% và 89,9%.  
Bảng 3. Độ tiêu hóa thức ăn ở cá lóc  
với 3 phương pháp thu phân khác nhau  
Độ tiêu hóa  
Vật chất khô Protein thô  
Nghiệm thức  
(%)  
(%)  
Phương pháp lắng  
Phương pháp mổ  
Phương pháp vuốt  
70,8 1,81a  
21,0 1,29b  
89,8 0,96a  
41,1 1,43b  
Như vậy, phương pháp thu phân tối ưu sẽ khác  
nhau tùy theo mỗi loài (dạng phân, cấu trúc cơ thể).  
Như từ kết quả của thí nghiệm này cho thấy thu  
phân bằng phương pháp vuốt và mổ không thể thực  
hiện được trên đối tượng cá lóc (C. striata), như vậy  
ở cá lóc (C. striata) thì phương pháp thu phân thích  
hợp nhất là phương pháp lắng.  
*
*
-
-
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột mang cùng chữ  
cái thì khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05). Giá trị thể  
*
hiện là giá trị trung bình độ lệch chuẩn; Lượng phân  
thu được ít, không đáp ứng lượng để phân tích.  
Phương pháp thu phân tùy thuộc vào loài cá,  
nghiên cứu của Hien và cộng tác viên (2010) chứng  
minh rằng ở cá tra (P. hypophthalmus) phương pháp  
thu phân lắng hoặc phương pháp mổ là thích hợp,  
phương pháp vuốt không thực hiện được trên cá Tra  
do thành bụng dày, ruột gấp khúc. ADC vật chất khô,  
protein và năng lượng cao hơn có ý nghĩa thống kê so  
3.3. Khả năng tiêu hóa các nguồn nguyên liệu cung  
cấp protein khác nhau ở cá lóc  
Kết quả độ tiêu hóa vật chất khô, protein, lipid  
và năng lượng của cá lóc (C. striata) từ các nguồn  
nguyên liệu thí nghiệm được thể hiện ở bảng 4.  
Bảng 4. Độ tiêu hóa vật chất khô, protein, lipid và năng lượng của nguyên liệu cung cấp protein  
Độ tiêu hóa (%)  
Nguyên liệu  
Vật chất khô  
85,8 5,50a  
69,7 2,56b  
52,3 5,17c  
69,0 7,42b  
Protein  
Lipid  
Năng lượng  
86,9 4,16a  
82,5 0,65ab  
67,8 3,83c  
78,4 5,58b  
Bột cá  
96,7 1,87a  
90,4 2,29b  
85,3 1,42c  
90,8 1,57b  
86,2 1,56a  
76,7 3,54b  
77,4 3,68b  
79,1 3,39b  
Bột đậu nành  
Bột thịt xương  
Bột huyết  
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột mang cùng chữ cái thì khác biệt khác không có ý nghĩa (p>0,05). Giá trị thể  
hiện là giá trị trung bình độ lệch chuẩn.  
Khả năng tiêu hóa vật chất khô của cá lóc  
(C. striata) đối với nguyên liệu bột cá (85,8%) là cao  
nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với  
các nguyên liệu còn lại. ADC vật chất khô của bột  
đậu nành li trích (69,7%) và bột huyết (69%) khác  
biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), độ tiêu hóa  
vật chất khô thấp nhất ở nguyên liệu bột thịt xương  
(52,3%) và thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các  
117  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(81)/2017  
nguyên liệu còn lại. Trong bột cá hàm lượng của  
acid amin thiết yếu như lysine, methionine, leucine  
khá cao, trong khi các amino acid này thường thiếu  
trong thức ăn thực vật, bột cá là nguồn nguyên liệu  
bắt buộc của hầu hết các loại thức ăn, đồng thời với  
hàm lượng cao của phospholipid và các acid béo  
giúp thúc đẩy vật nuôi tăng trưởng nhanh (Hall,  
1992; FAO, 2001; Balios, 2003; Miles and Chapman,  
2006). Hàm lượng xơ trong thức ăn có ảnh hưởng  
đến độ tiêu hóa của động vật thủy sản, chất xơ có tác  
dụng gia tăng tốc độ thức ăn đi qua đường tiêu hóa  
nên nó tác dụng làm tăng lượng thức ăn động vật  
thủy sản ăn vào, tuy nhiên hàm lượng xơ trong thức  
ăn cao sẽ làm giảm độ tiêu hóa thức ăn, động vật  
thủy sản sinh trưởng chậm (Lê anh Hùng, 2008;  
Trần ị anh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).  
Ở thí nghiệm này, hàm lượng xơ trong nguyên liệu  
bột cá (0,61%) thấp hơn nhiều so với hàm lượng xơ  
trong các nguồn nguyên liệu bột đậu nành li trích  
(5,39%), bột thịt xương (3,23%) và bột huyết (3,33%)  
nên độ tiêu hóa của cá đối với bột cá cao hơn 3 loại  
nguyên liệu còn lại. Do vậy, động vật thủy sản nói  
chung hay cá nói riêng, có khả năng sử dụng nguồn  
nguyên liệu bột cá tốt hơn so với nguồn nguyên liệu  
khác. Kết quả của thí nghiệm cũng chứng minh  
nhận định trên, ADC vật chất khô của cá lóc đối với  
bột cá cao hơn so với các nguyên liệu còn lại. Kết  
quả thí nghiệm cũng tương tự nghiên cứu trên cá  
lóc giống (Ophiocephalus argus) khi so sánh ADC  
vật chất khô của bột cá Peru, bột đậu nành li trích và  
bột thịt xương cũng có ADC vật chất khô cao nhất  
ở bột cá Peru (81,5%) và thấp nhất ở bột thịt xương  
(61,9%) (Yu et al., 2013). Nghiên cứu trên cá kèo  
(Pseudapocryptes Elongatus) cũng cho thấy ADC  
vật chất khô của bột cá (70,1%) cao hơn so với bột  
thịt xương (65,3%), bột canola (59,9%) và bột đậu  
nành li trích (56,2%) (Trần ị Bé và Trần ị anh  
Hiền, 2014). Hernández và cộng tác viên (2015)  
nghiên cứu khả năng sử dụng một số nguồn nguyên  
liệu (bột cá, bột đậu nành, Canola, bột phụ phẩm cá  
ngừ, bột gia cầm) của cá hồng (Lutjanus guttatus)  
cũng cho kết quả bột cá là loại nguyên liệu có ADC  
tốt nhất. Đối với cá Pseudobagrus ussuriensis, ADC  
vật chất khô của bột cá Peru cao hơn và khác biệt có  
ý nghĩa so với các nguồn nguyên liệu còn lại (bột thịt  
xương, bột Daphnia, bột đậu nành, bột đậu nành  
nguyên béo, bột hạt cải, bột hạt bông, bột ngô) (Che  
et al., 2017).  
tiêu hóa protein từ các nguồn nguyên liệu của cá  
lóc khá cao, dao động từ 85,3 - 96,7% cho thấy khả  
năng sử dụng protein từ nguyên liệu của cá lóc (C.  
striata) khá tốt. ADC protein từ bột cá cao nhất  
(96,7%) và cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các  
nguyên liệu còn lại (p<0,05). Độ tiêu hóa protein của  
bột thịt xương thấp nhất (85,3%) và khác biệt có ý  
nghĩa so với 3 nguồn nguyên liệu thí nghiệm còn lại  
(p<0,05). Trong khi đó, độ tiêu hóa protein của bột  
đậu nành li trích (90,4%) và bột huyết (90,8%) khác  
biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Mặc dù  
hàm lượng protein trong bột huyết (92,5%) cao hơn  
nhiều so với bột cá (64,5%) nhưng ADC protein của  
bột huyết lại thấp hơn ADC protein của bột cá điều  
này là do chất lượng protein của bột huyết không  
tốt bằng chất lượng protein của bột cá do bột huyết  
thiếu Isoleusine và Methionine, protein và acid amin  
trong bột huyết dễ bị phân hủy trong quá trình chế  
biến điều này dẫn đến khả năng tiêu hóa bột huyết  
của động vật thuỷ sản thấp (Trần ị anh Hiền và  
Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Kết quả thí nghiệm tương  
tự với nghiên cứu trên cá lóc (Ophiocephalus argus)  
giống, ADC protein của bột cá cao nhất (92,8%) và  
thấp nhất ở bột thị xương (77,4%). Tuy nhiên, ADC  
protein của bột cá, bột đậu nành, bột thịt xương và  
bột huyết của cá lóc (C. striata) trong thí nghiệm (lần  
lượt là 96,7% ; 90,4% ; 85,3% và 90,8%) đều cao hơn  
ADC protein của cá lóc (O. argus) giống Yu và cộng  
tác viên (2013) cho thấy khả năng sử dụng protein  
từ nguyên liệu của C. striata tốt hơn so với O. argus.  
Đồng thời khả năng tiêu hóa protein từ nguyên  
liệu bột cá của cá lóc (C. striata) cũng cao hơn so  
với một số loài cá khác như: cá hồng (Lutjanus  
guttatus) là 84,3% (Hernández et al., 2015), cá trôi  
giống là 80,2% (Hussain et al., 2011), cá Misgurnus  
anguillicaudatus là 66,9% (Chu et al., 2015) và cá  
Pseudobagrus ussuriensis là 87,1% (Che et al., 2017).  
Điều này cho thấy cá lóc (C. striata) sử dụng hiệu  
quả protein từ nguồn nguyên liệu bột cá.  
Khả năng tiêu hóa lipid thô của cá lóc (C. striata)  
dao động từ 76,7% đến 86,2%. Trong đó, ADC lipid  
từ bột cá (86,2%) là cao nhất và khác biệt có ý nghĩa  
(p<0,05) so với các nguyên liệu còn lại. ADC lipid  
từ các nguyên liệu này của cá lóc (C. striata) thấp  
hơn so với ADC lipid của cá lóc (O. argus) giống  
(Yu et al., 2013). Độ tiêu hóa năng lượng từ nguồn  
nguyên liệu bột cá của cá lóc là tốt nhất (86,9%) và  
khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nguyên liệu  
còn lại (p<0,05). ADC năng lượng bột đậu nành li  
trích (82,5%) và bột huyết (78,4%) của cá lóc khác  
biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) nhưng cao  
Độ tiêu hóa protein từ các nguồn nguyên liệu  
giàu protein thường dao động từ 75 - 95% (NRC,  
2011). Kết quả ADC protein ở bảng 4 cho thấy độ  
118  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(81)/2017  
Allan, G.L., S.J. Rowland, S. Parkinson, D.A.J. Stone  
and W. Jantrarotai, 1999. Nutrient digestibility  
for juvenile silver perch (Bidyanus bidyanus):  
development of methods. Aquaculture, 170: 131-145.  
AOAC, 2000. Official Methods of Analysis. Association  
of Official Analytical Chemists Arlington, Virginia.  
USA.  
Balios, J., 2003. Nutritional value of fish by-product  
and their utilization as fish silage in the nutrition  
of poultry. In Proceedings of the 8th International  
Conference on Environmental Science and Technology,  
Lemnos Island, Greece, 8-10 September 2003. Full  
paper Vol. B, pp. 70-76 130.  
Bureau, D.P. and K. Hua, 2006. Letter to the Editor of  
Aquaculture. Aquaculture, 252: 103-105.  
Che, J., B. Su, B. Tang, X. Bu, J. Li, Y. Lin, Y. Yang,  
X. Ge, 2017. Apparent digestibility coefficients  
of animal and plant feed ingredients for juvenile  
(Pseudobagrus ussuriensis). Aquaculture Nutrition,  
1-8.  
so với ADC năng lượng của bột thịt xương (67,8%).  
Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy ADC năng lượng  
từ nguyên liệu bột cá của cá lóc (C. striata) cũng  
tương đương với ADC năng lượng từ bột cá của cá  
lóc giống (Ophiocephalus argus) là 86,3% (Yu et al.,  
2013), cao hơn so với cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon  
idella) là 83,4%, (Hertrampf and Piedad-Pascual,  
2000). Tuy nhiên lại thấp hơn ADC năng lượng từ  
bột cá của cá kèo (Pseudapocryptes Elongatus) là  
91,8% (Trần ị Bé và Trần ị anh Hiền, 2014),  
cá tra (Pangasinondon hypophthalmus) là 93,9%  
(Hien et al., 2010) và cá (Pseudobagrus ussuriensis) là  
90,09% (Che et al., 2017). Tóm lại, khả năng tiêu hóa  
vật chất khô và các thành phần dinh dưỡng protein  
và năng lượng của cá lóc (C. striata) đối với bột cá  
cao hơn so với các loại nguyên liệu còn lại, thấp nhất  
là bột thịt xương. Điều này phù hợp với đặc tính ăn  
thiên về động vật của loài.  
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ  
Chu, Z.J., D.H. Yu, Y.C. Yuan, Y.C. Yuan, Y. Qiao,  
W.J. Cai, H. Shu and Y.C. Lin, 2015. Apparent  
digestibility coefficient of selected protein feed  
ingredients for loach (Misgurnus anguillicaudatus).  
Aquaculture Nutrition, 21: 425-432.  
FAO, 2001. By M.L. Windsor. Fishmeal. Department  
of trade and industry, Torry Research Station.  
Torry advisory note No.49 (FAO in partnership with  
Support unit for International Fisheries and Aquatic  
Research, SIFAR, 2001).  
4.1. Kết luận  
ời điểm thu phân sau 8 giờ cho cá ăn và  
phương pháp thu phân lắng là thích hợp nhất cho  
nghiên cứu độ tiêu hóa ở cá lóc. Khả năng tiêu hóa  
bột cá ở cá lóc là tốt nhất (85,8%), kế đến là bột đậu  
nành li trích (69,7%), bột huyết (69,0%) và thấp nhất  
là bột thịt xương (53,3%).  
4.2. Đề nghị  
Nghiên cứu khả năng tiêu hóa của cá lóc  
(C. striata) đối với các nguồn nguyên liệu cung cấp  
năng lượng làm cơ sở phát triển công thức thức ăn.  
Furukawa and Tsukahara, 1966. Chromium oxidate  
determination. Bull.Japan. Socicial scientific Fishies,  
32: 502-506.  
Glencross, B.D., W.E. Hawkins, D. Evans, P.  
McCafferty, K. Dods, R. Maas and S. Sipsas, 2005.  
Evaluation of the digestible value of lupin and  
soybean protein concentrates and isolates when fed  
to rainbow trout (Oncorhynchus mykiss) using either  
stripping or settlement fecal collection methods.  
Aquaculture, 245: 211-220.  
Hall, G.M., 1992. Fish processing technology. In  
Ockerman, H.W. ed. Fishery by products, pp. 155-  
192. New York: VCH publishers.  
Heinitz, M.C., A. Lemme and C. Schulz, 2016.  
Measurement of digestibility in agastric fish  
based on stripping method - apparent nutrient,  
energy and amino acid digestibilities of common  
feed ingredients for carp diets (Cyprinus carpio).  
Aquaculture nutrition, 22: 1065-1078.  
Hemre, G.I., Ø. Karlsen, A.M. Jensen and G.  
Rosenlund, 2003. Digestibility of dry matter, protein,  
starch, and lipid by cod, Gadus morhua: comparison  
of sampling methods. Aquaculture, 225: 225-232.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Trần ị Bé và Trần ị anh Hiền, 2014. Đánh giá  
khả năng tiêu hóa một số nguồn nguyên liệu làm  
thức ăn cho cá kèo (Pseudapocryptes Elongatus). Tạp  
chí Khoa học, Trường Đại học Cần ơ, 30: 72-80.  
Trần ị anh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009. Giáo  
trình Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Khoa ủy  
sản, Trường Đại học Cần ơ.  
Lê anh Hùng, 2008. ức ăn và dinh dưỡng thủy sản.  
NXB Nông nghiệp, 299 pp.  
Lê Xuân Sinh và Đỗ Minh Chung, 2010. Hiện trạng  
và những thách thức cho nghề nuôi cá lóc ở Đồng  
Bằng Sông Cửu Long. Tạp chí Nông nghiệp & PTNT,  
2: 56-63.  
Ngô ị Minh úy và Trương Đông Lộc, 2015. Phân  
tích hiệu quả tài chính của mô hình nuôi cá lóc đen  
và nhận thức của người nuôi ở Đồng bằng sông Cửu  
Long. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần ơ, 36:  
108-115.  
119  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 8(81)/2017  
Hernández, C., R.W. Hardy, D.G. Márquez-Martínez,  
P.V. Domínguez-Jimenez and B. González-  
Rodríguez, 2015. Evaluation of apparent digestibility  
coefficient of individual feed ingredient in spotted  
rose snapper (Lutjanus guttatus). Aquaculture  
Nutrition, 21: 835-842.  
Mohanty, S.S. and K. Samantaray, 1997. Interactions  
of dietary levels of protein and energy on fingerling  
snakehead (Channa striata). Aquaculture, 156: 241-249.  
NRC (National Research Council), 2011. Nutrient  
Requirements of Fish. National Academy Press,  
Washington, D.C., USA.69 pp.  
Hertrampf, J.W. and F. Piedad-Pascual, 2000.  
Handbook on ingredients for aquaculture feeds.  
Kluwer academic publishers Dordrecht/Boston/  
London, e Netherlands. 573pp.  
Hien, T.T.T., N.T. Phuong, T.L.C. Tu and B. Glencross,  
2010. Assessment of method for the determination  
of the digestibilities of feed ingredient for Tra  
catfish (Pangasianodon hypothalamus). Aquacutlture  
nutrient, 16: 351-358.  
Hussain, S.M., M. Afzal, M. Salim, A. Javid, T.A.A.  
Khichi, M. Hussain and S.A. Raza, 2011. Apparent  
digestibility of fish meal, blood meal and meat meal  
for Labeo Rohita fingerling. e Journal of Animal &  
Plant Sciences, 21(4): 807-811.  
Miles, R.D. and F.A. Chapman, 2006. e benefits of  
fish meal in aquaculture diets. University of Florida  
Extension.  
Storebakken, T., I.S. Kvien, K.D. Shearer, B.G.  
Helland, S.J. Helland and G.M. Berge, 1998. e  
apparent digestibility of diets containing fish meal,  
soyabean meal or bacterial meal fed to Atlantic  
salmon (Salmo salar): evaluation of different faecal  
collection methods. Aquaculture, 169: 195-210.  
Veneroa, J.A., R.D. Milesb & F.A. Chapmana,  
2006. Validation of a Fecal Collection Method for  
Determination of Apparent Digestibility Coefficients  
of Diets in Gulf of Mexico Sturgeon. Aquaculture  
Nutrition, 90-94.  
Yu, H.R., Q. Zhang, H. Cao, X.Z. Wang, G.Q. Huang,  
B.R. Zhang, J.J. Fan, S.W. Liu, W.Z. Li and Y.  
Cui, 2013. Apparent digestibility coefficient of  
selected feed ingredients for juvenile snakehead  
(Ophiocephalus argus). Aquaculture Nutrition, 19:  
139-147.  
Assessment of faecal collection methods for determination of digestibilities  
of snakehead fish (Channa striata) with protein feed ingredients sources  
Ngo Minh Dung and Tran i anh Hien  
Abstract  
is study was conducted to determine suitable faecal collection methods applied for digestibility studies of different  
protein ingredients for snakehead fish (Channa striata). e study included three experiments: in the first experiment,  
faecal collection was done every 2 hours within 24-hour period by settling technique; in the second experiment,  
diferent feces collection were applied such as settling, stripping and dissection; and in the last experiment, ADC of  
dry matter, protein, and energy of fish meal, soy bean meal, meat bone meal, and blood meal was evaluated as feed  
ingredients for snakehead. e results showed the suitable time for collecting snakehead feces was 8 hours; faecal  
collection by settlement method was more suitable than dissection and stripping methods for snakehead digestibility  
study; and the best ADC of dry mater was found in fish meal (85.8%), then deffated soybean meal (69.7%), blood  
meal (69.0%) and meat bone meal (52.3%). Similar results on ADC protein and ADC energy of these ingredient used  
as feed for snakehead were confirmed.  
Key words: Snakehead, Channa striata, apparent digestibility coefficients, faecal collection methods  
Ngày nhận bài: 26/7/2017  
Ngày phản biện: 10/8/2017  
Người phản biện: TS. Lê Quốc Việt  
Ngày duyệt đăng: 25/8/2017  
120  
pdf 7 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 460
Bạn đang xem tài liệu "Phương pháp thu phân và khả năng tiêu hóa của cá lóc (Channa striata) với nguồn nguyên liệu Protein khác nhau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfphuong_phap_thu_phan_va_kha_nang_tieu_hoa_cua_ca_loc_channa.pdf