Nghĩa biểu trưng của thành tố cơm trong thành ngữ tiếng Việt

TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN  
Soá 20 - Thaùng 4/2014  
NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA THÀNH TỐ CƠM  
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT  
TRẦN THỊ HỒNG (*)  
TÓM TẮT  
Bài viết chỉ ra các nghĩa biểu trưng của thành tố “cơm” trong thành ngữ tiếng Việt.  
Kết quả phân tích nghĩa của yếu tố này trong thành ngữ góp phần cho thấy nghĩa biểu  
trưng của các thành tố trong thành ngữ là cơ sở để tạo nên nghĩa khái quát hoá, biểu  
trưng hoá của thành ngữ.  
Từ khoá: nghĩa biểu trưng, thành ngữ, nghĩa khái quát  
ABSTRACT  
In this article the symbolic meaning of the component "rice" in Vietnamese idiomatic  
expressions is analyzed. The results of this analysis contribute to the realization of the  
symbolic meaning of the component in idiomatic expressions that are considered as the  
foundation to create the generalization and symbolic meaning of idioms.  
Keywords: symbolic meaning, idioms, generalized meaning  
1. SƠ LƯỢC VỀ BIỂU TRƯNG VÀ  
NGHĨA BIỂU TRƯNG TRONG  
THÀNH NGỮ*  
chỉnh thể, từ nghĩa của các thành tố tham  
gia. Do vậy, nghiên cứu nghĩa biểu trưng  
của thành ngữ, không thể không nghiên  
cứu nghĩa của các thành tố trong thành  
ngữ. Các thành tố tham gia cấu tạo thành  
ngữ là tên gọi các sự vật, hiện tượng, hoạt  
động, v.v. trong thực tế rất phong phú  
nhưng lâu nay, nghĩa của các yếu tố này  
trong thành ngữ còn ít được chú ý. Bài viết  
của chúng tôi khảo sát nghĩa của thành tố  
“cơm” trong thành ngữ tiếng Việt, một  
cách nghiên cứu nghĩa biểu trưng của  
thành ngữ bắt đầu từ việc nghiên cứu nghĩa  
của các thành tố.  
“Biểu trưng” (symbolism) là một khái  
niệm đã được xác đ nh và vận dụng trong  
nhiều công trình ngôn ngữ học, văn hoá  
học, văn học, v.v. “Biểu trưng” có thể được  
dùng để chỉ một vật, một hình ảnh khi  
chúng tượng trưng, ước lệ, biểu tượng cho  
một cái gì đó ngoài nó có tính chất trừu  
tượng (ví dụ: con cò trong ca dao Việt Nam  
1.1. Sơ lược về biểu trưng  
Trong Việt ngữ học, từ lâu, thành ngữ  
đã được nghiên cứu trên các phương diện  
khác nhau. Tuy vậy, nhiều phương diện cụ  
thể, như vấn đề nghĩa biểu trưng của thành  
ngữ còn chưa được nghiên cứu sâu. Về đặc  
điểm nghĩa của nghĩa biểu trưng, ở bình  
diện nghiên cứu chung, nhiều tác giả như  
Bùi Khắc Việt (1978) [8], Đỗ Hữu Châu  
(1981) [2], Nguyễn Đức Dân (1986)[3],  
Nguyễn Văn Mệnh (1987)[5], Hoàng Văn  
Hành (1991) [4],... đã khẳng đ nh nghĩa  
thành ngữ mang tính chất biểu trưng. Song  
vấn đề đặt ra là, các thành tố trong thành  
ngữ có mang nghĩa biểu trưng hay không,  
điều này chưa được nghiên cứu. Như ta  
biết, nghĩa của thành ngữ được toát lên từ  
(*) ThS, Trường Đại học Sài Gòn.  
95  
biểu trưng cho hình ảnh người nông dân  
suốt đời làm việc thầm lặng, lam lũ; chim  
bồ câu là biểu tượng của hòa bình). Trong  
ngôn ngữ học, “biểu trưng” được dùng để  
chỉ một loại nghĩa trong sự phân biệt với  
nghĩa đen, nghĩa bóng.  
Nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ học  
cho rằng biểu trưng là thuộc bình diện nghĩa  
học, song giữa các tác giả còn có nhiều cách  
lí giải khác nhau về loại nghĩa này.  
Theo Nguyễn Đức Tồn, biểu trưng là  
“cách lấy một sự vật, hiện tượng nào đó để  
biểu hiện có tính chất tượng trưng, ước lệ  
một cái gì đó khác mang tính trừu tượng...  
Một sự vật, hiện tượng có giá tr  biểu trưng  
thì nó (kèm theo là tên gọi của nó) sẽ gợi  
lên trong ý thức người bản ngữ sự liên  
tưởng khá bền vững... Nghĩa biểu trưng có  
thể được hình thành dựa trên những đặc  
điểm tồn tại khách quan ở đối tượng, đồng  
thời còn có thể có được dựa trên cả sự “gán  
ghép” theo chủ quan của con người”  
[7, tr.387].  
Về cơ sở tạo nghĩa biểu trưng, theo Từ  
điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,  
“nghĩa biểu trưng là nghĩa bắt nguồn từ  
nghĩa đen, hoặc một nghĩa bóng khác nhờ  
kết quả của việc sử dụng từ có ý thức trong  
lời nói để biểu th  sự vật, không phải nhờ  
vào quy chiếu tự nhiên, thường xuyên. Một  
từ có được nghĩa bóng khi nó đ nh danh sự  
vật không phải trực tiếp mà là qua một sự  
vật khác theo phép ẩn dụ, hoán dụ, chơi  
chữ” [10, tr.144].  
Nghĩa biểu trưng gắn liền với nghĩa  
gốc của các từ. Những từ có nghĩa chỉ đặc  
điểm, thuộc tính nổi trội của sự vật và có  
khả năng chuyển nghĩa hoặc mang tính quy  
ước của cộng đồng, được cộng đồng thừa  
nhận thì mới có thể mang nghĩa biểu trưng.  
1.2. Nghĩa biểu trưng trong thành ngữ  
Thành ngữ, cũng như từ, là đơn v  có  
sẵn, là đơn v  mang nghĩa. Nhưng do tính  
chất đặc biệt về cấu tạo và sự hình thành,  
nghĩa của thành ngữ có những điểm khác  
biệt so với từ, đó là nghĩa biểu trưng.  
Tuy thừa nhận loại nghĩa biểu trưng  
của thành ngữ nhưng vẫn có một số tác giả  
cho rằng không phải mọi thành ngữ đều  
mang nghĩa biểu trưng… Chỉ nên coi  
những trường hợp sử dụng có tính chất ước  
lệ, biểu vật của từ là có tính tượng trưng  
[4]. Phần đông các nhà nghiên cứu như Đổ  
Hữu Châu [2], Hoàng Văn Hành [4],  
Nguyễn Đức Dân [3], Bùi Khắc Việt [8]…  
coi nghĩa biểu trưng là ngữ nghĩa số một  
của thành ngữ. Theo Bùi Khắc Việt trong  
bài viết Về tính biểu trưng của thành ngữ  
trong tiếng việt (1987) [8], muốn xác đ nh,  
lí giải nghĩa biểu trưng thì phải xem xét  
mối quan hệ giữa sự vật hoặc hình ảnh với  
ý nghĩa biểu trưng trong thành ngữ, và chia  
nghĩa biểu trưng của thành ngữ làm hai  
loại: thành ngữ biểu trưng hoá toàn bộ và  
thành ngữ biểu trưng hoá bộ phận. Thực tế  
cho thấy quá trình liên tưởng dẫn đến các  
nghĩa bóng, nghĩa chuyển thông qua các  
phương thức ẩn dụ, hoán dụ cũng là quá  
trình hình thành nghĩa biểu trưng.  
Như vậy nghĩa biểu trưng gắn với sự  
vật, hình ảnh mà nó gọi tên và là nghĩa  
không chỉ được hình thành trên cơ sở quan  
hệ tương đồng hay tương cận của chính sự  
vật, hiện tượng đó tồn tại trong thực tế  
khách quan mà còn mang tính chủ quan,  
phản ánh tư duy, sự tri nhận, phân cắt,  
tưởng tượng của con người.  
Khi ta tiếp cận ngữ nghĩa thành ngữ là  
ta đang tìm hiểu thành ngữ trên hai phương  
diện. Phương diện tiếp xúc trực tiếp trên  
câu chữ theo kết hợp từ, theo các hình ảnh  
trong thành ngữ cho ta nghĩa gốc (còn gọi  
là nghĩa biểu hiện, nghĩa đ nh danh sự vật);  
và phương diện tiếp nhận: lớp nghĩa ẩn sau  
96  
các từ ngữ, hình ảnh chính là nghĩa hàm ẩn  
(nghĩa biểu trưng) – ý nghĩa quan trọng  
nhất mà người nghe cần lĩnh hội được.  
Ví dụ: thành ngữ như hạn mong mưa.  
Nghĩa gốc ban đầu chỉ thời tiết (hạn: hiện  
tượng nắng lâu ngày, không có mưa, đất  
đai khô nẻ / mưa: nước trên trời đổ xuống).  
Nghĩa này sau trở thành nghĩa bóng thông  
qua hiện tượng nhân hoá (hạn mong mưa).  
Nghĩa bóng đó là cơ sở tạo ra nghĩa biểu  
trưng. Khi nghe thành ngữ này, người ta  
không chỉ hiểu nghĩa là thành ngữ biểu th  
hiện tượng trời nắng lâu ngày dẫn đến hạn  
hán, vạn vật đều héo úa, khô cằn cần có  
mưa, mong mỏi có trận mưa để tìm lại sự  
sống, mà thành ngữ này còn gợi ra những  
liên tưởng nhiều hơn thế. Chẳng hạn dùng  
để chỉ sự mòn mỏi, khát khao chờ đợi,  
mong mỏi gặp lại, v.v.  
Cũng về cơ cấu hình thành nghĩa biểu  
trưng của thành ngữ, ở một khía cạnh khác,  
xét mối quan hệ nghĩa giữa các thành tố  
cấu thành và chỉnh thể thành ngữ, chúng ta  
còn thấy, nghĩa biểu trưng của thành ngữ  
được hình thành trên cơ sở sự khái quát  
hoá nghĩa biểu trưng của các thành tố - các  
hình ảnh biểu trưng trong thành ngữ. Ví dụ,  
thành ngữ lên voi xuống chó mang nghĩa  
biểu trưng chỉ sự thay đổi về đ a v , khi cao  
sang khi thấp hèn, khi vinh khi nhục.  
Nghĩa này được khái quát hoá từ nghĩa  
biểu trưng của hai thành tố - hai hình ảnh  
chủ yếu trong thành ngữ, voi – biểu trưng  
cho đ a v  cao sang, chó biểu trưng cho đ a  
v  thấp hèn.  
nghĩa đen là cơ sở để tạo nên nghĩa bóng,  
nghĩa biểu trưng. Muốn lí giải nghĩa biểu  
trưng phải xuất phát từ nghĩa gốc ban đầu,  
ngược lại, nghĩa gốc là cơ sở để tạo nên các  
liên tưởng, tạo thành nghĩa biểu trưng.  
Nghĩa biểu trưng của thành ngữ là sự khái  
quát hoá từ nghĩa biểu trưng của các thành  
tố trong thành ngữ.  
Đề tài của chúng tôi khảo sát nghĩa  
biểu trưng của thành tố cơm, gạo, cháo,  
thóc trong thành ngữ nhưng ở đây, do  
khuôn khổ của một bài báo, chúng tôi xin  
chỉ đề cập tới nghĩa của thành tố cơm, yếu  
tố được dùng nhiều nhất trong loạt các  
thành tố trên.  
2. BIỂUHIỆNNGHĨACATHÀNHTCƠM  
TRONGTHÀNHNGỮ  
2.1. Nghĩa của từ cơm trong tiếng Việt  
Theo Từ điển tiếng Việt, cơm có các  
nghĩa sau đây:  
(1). Cơm là “gạo đem nấu chín, ráo  
nước, dùng làm món chính trong bữa ăn  
hàng ngày”. Ví dụ: nấu một nồi cơm đầy,  
xới cơm ra bát.  
(2). Cơm là “những thức làm thành một  
bữa ăn (nói tổng quát)”. Ví dụ: bữa cơm, ăn  
cơm, làm vài mâm cơm thết bạn bè.  
(3). Cơm là “cùi của một số quả cây”.  
Ví dụ: nhãn dày cơm, cạo cơm dừa.  
(4). Cơm là “thứ quả có v  nhạt, không  
chua hoặc chỉ hơi ngọt”. Ví dụ: khế cơm.  
[6, 293]…  
Trong bài viết này, thành tố cơm mà  
chúng tôi khảo sát trong thành ngữ tiếng  
Việt có nghĩa gốc trùng với nghĩa (1) và  
nghĩa (2) của từ cơm như đ nh nghĩa của  
Từ điển tiếng Việt.  
2.2. Các nghĩa biểu trưng của  
thành tố cơm trong thành ngữ  
Để có hình dung chung về sự hiện diện  
của thành tố cơm trong thành ngữ, trước  
hết chúng tôi xin nêu kết quả khảo sát  
Từ sự phân tích trên, ta có thể khái  
quát, nghĩa biểu trưng của thành ngữ là  
toàn bộ ý nghĩa, ý niệm khái quát suy ra từ  
hình ảnh hoặc sự vật, sự việc cụ thể được  
miêu tả, đề cập, gọi tên trong thành ngữ.  
Nội dung của thành ngữ là sự thống nhất  
của hai ý nghĩa đó, trong đó nghĩa gốc,  
97  
thống kê tần số xuất hiện của cơm so với  
các yếu tố khác trong nhóm (cháo, gạo,  
thóc) có nghĩa liên quan.  
Khảo sát thành ngữ trong hai công trình:  
Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt của  
Viện ngôn ngữ học - Trung tâm Khoa học  
Xã hội và Nhân văn quốc gia và Từ điển  
thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của nhóm  
tác giả Vũ Dung – Vũ Thúy Anh – Vũ  
Quang Hào, tham khảo bổ sung thêm thành  
ngữ từ phần sưu tập và phân loại thành ngữ  
tiếng Việt trong cuốn Thành ngữ học tiếng  
Việt của Hoàng Văn Hành, chúng tôi thu  
được 201 thành ngữ có chứa các thành tố  
cơm, cháo, gạo, thóc. Số lượng và tỉ lệ  
giữa các thành ngữ có chứa từng yếu tố cụ  
thể được khảo sát được biểu hiện qua bảng  
thống kê 3.1. sau.  
Bảng 2.1: Số lượng và tỉ lệ thành ngữ có chứa các thành tố cơm, cháo, gạo, thóc  
Thành ngữ  
Số lượng  
91  
Tỉ lệ %  
45,3  
20,4  
18,9  
31  
Thành ngữ có thành tố Cơm  
Thành ngữ thành tố Cháo  
Thành ngữ thành tố Gạo  
Thành ngữ thành tố Thóc  
Tổng  
41  
38  
31  
201  
100  
Qua bảng thống kê 2.1 trên, có thể  
thấy, so với các thành ngữ có chứa thành tố  
cháo, gạo, thóc, thành ngữ có chứa thành  
tố cơm có số lượng và tỉ lệ cao hơn hẳn  
(91/201 thành ngữ, chiếm 45,3%). Điều đó  
nói lên rằng, cơm, cùng với tên gọi của nó  
là mối quan tâm thường xuyên của người  
Việt, là cơ sở tạo nên sự liên tưởng chuyển  
nghĩa phong phú của từ. Trong 91 thành  
ngữ có chứa thành tố cơm mà chúng tôi  
khảo sát được, có 74 thành ngữ trong đó  
thành tố cơm xuất hiện độc lập như áo ấm  
cơm no, ăn cơm chúa múa tối ngày, cơm  
chấm cơm, cơm lành canh ngọt,…; có 17  
thành ngữ trong đó thành tố cơm xuất hiện  
thành từng cặp với thành tố gạo hoặc thành  
tố cháo, như nên cơm nên cháo, cơm áo  
gạo tiền, cơm sống cháo khê, láo nháo như  
cháo trộn cơm, cơm cao gạo kém,…  
Như chúng ta đã biết, một trong những  
đặc trưng quan trọng nhất của thành ngữ  
chính là nghĩa biểu trưng. Mỗi một từ xuất  
hiện trong thành ngữ không chỉ có chức  
năng đ nh danh một sự vật, một hình  
ảnh,… với ý nghĩa thông thường mà còn có  
thể biểu trưng cho một cái gì đó vượt ra  
ngoài ý nghĩa thông thường mà nó vốn có.  
Ý nghĩa đó có thể được hình thành dựa trên  
những đặc điểm tồn tại khách quan ở đối  
tượng, đồng thời còn có thể có được dựa  
trên cả sự “gán ghép” theo chủ quan của  
con người.  
Trong thành ngữ tiếng Việt, thành tố  
cơm xuất hiện khá nhiều. Cơm, ngoài ý  
nghĩa thông thường là chỉ “gạo đem nấu  
chín, ráo nước, dùng làm món chính trong  
bữa ăn hàng ngày” hay một bữa ăn còn có  
nhiều nghĩa biểu trưng khác, rất đa dạng.  
98  
2.2.1. Cơm biểu trưng cho nguồn sống,  
điều kiện vật chất tối thiểu đảm bảo cho  
cuộc sống của con người  
việc quấy quá, không có trách nhiệm,  
người Việt có thành ngữ ăn cơm chúa, múa  
tối ngày,…  
Đối với người Việt, cơm là thức ăn  
hàng ngày, là thực phẩm không thể thiếu  
trong mỗi bữa ăn. Không phải ngẫu nhiên  
mà người Việt gọi bữa ăn hàng ngày là  
“bữa cơm”, và mặc dù trong bữa cơm có  
rất nhiều món ăn, người Việt cũng chỉ nói  
“ăn cơm” để chỉ hoạt động ăn uống nói  
chung. Cơm vì thế biểu trưng cho nguồn  
sống của con người. Người Việt quan  
niệm: cơm tẻ là mẹ ruột, cơm cháo không  
ăn chẳng mạnh thầy, muốn trắng gắng lấy  
cơm. Coi cơm là nguồn sống nên trong tâm  
thức của người Việt, cơm đã vượt ra khỏi ý  
nghĩa ban đầu là thức ăn hàng ngày để biểu  
trưng cho điều kiện sống tối thiểu, đảm bảo  
cho cuộc sống của con người. Đối với  
người Việt, điều mà họ không thể không  
quan tâm chính là cuộc sống cơm áo gạo  
tiền, điều kiện tối thiểu để đảm bảo cho  
cuộc sống của họ là bát cơm manh áo, là có  
được cơm ăn áo mặc hoặc cơm ba bát áo  
ba manh,…  
2.2.3. Cơm biểu trưng cho hoàn cảnh  
sống của con người  
Nghĩa biểu trưng khái quát này của  
cơm được thể hiện chỉ các mặt, các sắc thái  
khác nhau của hoàn cảnh. Trước hết, cơm  
biểu trưng cho điều kiện vật chất tối thiểu,  
thiết yếu để đảm bảo cuộc sống. Cũng  
chính vì thế, cơm trở thành thước đo để  
đánh giá hoàn cảnh sống (giàu/ nghèo) của  
người Việt. Với người Việt, được sống  
trong cảnh giàu sang, sung sướng chính là  
được tận hưởng cảnh cơm no áo ấm, no  
cơm ấm cật, được ăn cơm hom nằm giường  
hòm, được phục vụ tận tình với cơm bưng  
nước rót, được ăn những bữa ăn th nh soạn  
với cơm gà cá gỏi, cơm ngọc đũa ngà, cơm  
cá chả chim, cơm trắng cá béo,…. Ngược  
lại, sống trong cảnh nghèo khó đồng nghĩa  
với việc phải ch u cảnh cơm khoai áo cụt,  
bữa cơm bữa cháo, đói cơm rách áo, cơm  
hẩm áo manh, cơm tấm áo vá,… phải ăn  
những bữa ăn tạm bợ với cơm sung cháo  
dền. Đôi khi, cơm còn chỉ hoàn cảnh sống  
nghèo khổ, có phần nhục nhã của con  
người: cơm hẩm cà thiu, cơm thừa canh  
cặn, cơm thừa cá gạn,…  
2.2.2. Cơm biểu trưng cho của cải,  
lợi ích vật chất của con người  
Cơm là thức ăn, là thực phẩm không  
thể thiếu để duy trì cuộc sống, thế nhưng  
để làm ra bát cơm, người Việt phải đánh đổ  
rất nhiều mồ hôi, công sức. Cơm đối với họ  
không chỉ đơn thuần là thức ăn mà còn  
biểu trưng cho của cải, cho lợi ích vật chất  
nói chung. Chẳng hạn, để chỉ sự lãng phí  
của cải một cách không cần thiết, người  
Việt có thành ngữ ba cơm bảy mắm. Để chỉ  
những người bôn ba, làm giàu nơi đất  
khách quê người, người Việt có thành ngữ  
kiếm cơm thiên hạ. Để chỉ chút của cải ít ỏi  
nhưng b  người khác cướp mất, người Việt  
có thành ngữ ăn cướp cơm chim. Để chỉ  
những người được trả công nhưng lại làm  
2.2.4. Đặt trong kết cấu song hành với  
canh, cơm biểu trưng cho tình cảm vợ  
chồng, gia đình  
Không chỉ biểu trưng cho thước đo  
hoàn cảnh sống, cơm đặt trong kết cấu  
song hành với canh còn được sử dụng  
trong thành ngữ tiếng Việt với nghĩa biểu  
trưng cho tình cảm vợ chồng, gia đình. Nói  
cơm ngon canh ngọt, cơm lành canh ngọt,  
không chỉ là nói tới một bữa cơm đầy đủ,  
ngon miệng là còn nói lên hoàn cảnh sống  
đầm ấm, hòa thuận, hạnh phúc của một gia  
đình. Ngược lại, nói cơm chẳng lành canh  
99  
chẳng ngọt cũng không chỉ đơn thuần là  
nói tới một bữa ăn không ngon, không hợp  
khẩu v  của người ăn mà còn ám chỉ một  
cuộc sống không yên ấm, đầy mâu thuẫn  
của vợ chồng, gia đình.  
Chẳng hạn, trong tiếng Việt, để đánh  
giá sự khéo léo hoặc vụng về của người  
phụ nữ trong công việc thường ngày, có  
hai thành ngữ: cơm dẻo canh ngọt và cơm  
sống cháo khê. Nếu cơm dẻo canh ngọt là  
sản phẩm của sự khéo léo, đảm đang thì  
ngược lại, cơm sống cháo khê lại là sản  
phẩm của sự vụng về của người phụ nữ.  
Cơm còn biểu trưng cho thước đo để  
đánh giá nhiều kiểu người khác nhau.  
Chẳng hạn, thành ngữ giá áo túi cơm để  
chỉ những người vô tích sự, tựa như chiếc  
giá người ta treo áo, chiếc túi người ta  
đựng cơm; thành ngữ cắn hạt cơm không  
vđể chỉ những kẻ keo kiệt, bủn xỉn, hà  
tiện; thành ngữ ăn cơm nhà vác tù và hàng  
tổng/ ăn cơm nhà vác ngà voi để chỉ những  
người làm việc công ích mà không được  
nhận công, không quyền lợi gì; thành ngữ  
ăn cơm nhà nọ kháo cà nhà kia để chỉ  
những kẻ có thói tọc mạch, ưa kiếm  
chuyện,…  
2.2.5. Cơm biểu trưng cho công lao, ơn  
nghĩa, sự yêu thương, sẻ chia của con người  
với con người trong khó khăn, hoạn nạn.  
Cơm là thực phẩm không thể thiếu  
trong bữa ăn hàng ngày của người Việt, là  
điều kiện để đảm bảo cuộc sống, là thước  
đo hoàn cảnh sống cũng như đời sống tinh  
thần của con người. Người Việt được nuôi  
sống bằng hạt cơm, và vì thế, cơm không  
chỉ đơn thuần là thức ăn mà còn biểu trưng  
cho công lao, ơn nghĩa, sự sẻ chia giữa con  
người với con người trong hoạn nạn, khó  
khăn. Với người Việt, được hưởng bát cơm  
cũng là được hưởng ơn sâu nghĩa nặng: ăn  
bát cơm dẻo nhớ nẻo đường đi. Họ không  
bao giờ quên bát cơm phiếu mẫu, không  
bao giờ quên công ơn cơm nặng áo dày của  
những người đã sinh thành, đã nuôi mình  
khôn lớn. Họ phê phán những kẻ vô ơn,  
bạc nghĩa: ăn cơm nhà Phật đốt râu thầy  
chùa; no xôi thôi cơm,…. Đối với người  
Việt, bát cơm là thứ để đảm bảo cuộc sống,  
và cũng chính là thứ có thể sẻ chia với  
nhau trong những hoàn cảnh khó khăn  
nhất: chia cơm sẻ áo, nhường cơm sẻ áo,  
bát cơm sẻ nửa,…  
2.2.7. Cơm biểu trưng cho kết quả,  
thành quả công việc  
Như chúng ta đã biết, đối với người  
Việt, cơm là thức ăn thiết yếu để duy trì  
cuộc sống. Với họ, mục đích đầu tiên của  
việc lao động đó là kiếm miếng cơm manh  
áo, có được cơm ăn áo mặc, đảm bảo cho  
cuộc sống. Vì thế, cơm trong quan niệm  
của người Việt không đơn thuần là một bữa  
ăn mà còn biểu trưng cho kết quả, thành  
quả lao động. Đối với người Việt, nên cơm  
nên cháo chính là đạt được kết quả như ý  
muốn, ngược lại, chẳng nên cơm cháo gì  
tức là không được việc, không đạt kết quả.  
2.2.8. Cơm biểu trưng cho điều kiện  
thực tế, khả năng thực có  
2.2.6. Cơm biểu trưng cho thước đo  
nhân cách, sự khôn ngoan hoặc vụng dại  
của con người  
Với người Việt, cơm là thức ăn, là điều  
kiện thiết yếu để đảm bảo cuộc sống  
thường ngày. Chính vì vậy, thông qua cách  
nhìn nhận, cách cư xử với miếng cơm,  
người ta cũng có thể đánh giá được nhân  
cách, sự khôn ngoan hoặc vụng dại của con  
người, điều đó cũng được phản ánh vào  
nghĩa từ cơm.  
Như chúng ta đã biết, cơm biểu trưng  
cho điều kiện vật chất tối thiểu để đảm bảo  
cuộc sống. Với người Việt, khi làm bất cứ  
việc gì cũng phải căn cứ vào điều kiện  
100  
cuộc sống thực tế để lo liệu. Chính vì vậy  
cơm còn biểu trưng cho điều kiện thực  
tế, khả năng thực có. Người Việt quan  
niệm liệu cơm gắp mắm, tức là căn cứ vào  
tình hình thực tế, khả năng thực có để làm  
việc cho hiệu quả, tránh tình trạng lãng phí  
ba cơm bảy mắm, gạo thiếu cơm thừa, một  
đồng cơm ba đồng nước mắm,…  
tạo, hoạt động trong thành ngữ không chỉ  
với ý nghĩa đ nh danh thông thường mà  
còn thể hiện nhiều ý nghĩa biểu trưng khác  
nhau. Trong thành ngữ, thành tố cơm có 9  
nghĩa biểu trưng. Nghĩa biểu trưng của  
thành tố cơm trong sự kết hợp với nghĩa  
biểu trưng của các thành tố khác đã tạo nên  
nghĩa khái quát hoá, biểu trưng hoá cho các  
thành ngữ có chứa yếu tố này. Nói cách  
khác, trong thành ngữ, đi kèm với tên gọi  
của nó, cơm còn có sự chuyển nghĩa để  
biểu hiện có tính chất tượng trưng, ước lệ  
một cái gì đó khác mang tính trừu tượng...,  
gợi lên trong ý thức người bản ngữ sự liên  
tưởng và biểu hiện nghĩa hết sức đa dạng  
và phong phú.  
3.3. Nghĩa biểu trưng của thành ngữ  
không chỉ là nghĩa biểu trưng chung của  
thành ngữ mà còn là nghĩa biểu trưng của  
các thành tố làm cơ sở trong cấu trúc nghĩa  
của loại đơn v  này. Một phương diện  
khác, qua sự miêu tả nghĩa biểu trưng của  
từ cơm, chúng ta cũng phần nào thấy được  
sự liên tưởng phong phú của người Việt  
đối với từ ngữ là tên gọi của những hình  
ảnh quen thuộc với đời sống của người  
Việt có nền văn minh nông nghiệp lúa  
nước. Tìm hiểu nghĩa biểu trưng của các  
thành tố ngôn ngữ trong thành ngữ có thể  
xem là một hướng nghiên cứu triển vọng,  
giúp chúng ta nhìn nhận rõ cấu trúc nghĩa  
nghĩa biểu trưng của thành ngữ, vai trò  
nghĩa biểu trưng của các thành tố trong  
việc hình thành nghĩa biểu trưng chung của  
thành ngữ cũng như về mối quan hệ giữa  
ngôn ngữ và tư duy, văn hoá dân tộc.  
2.2.9. Cơm biểu trưng cho địa vị của  
con người trong xã hội  
Đối với người Việt, cơm là nguồn  
sống, là điều kiện để sinh sống, thế nhưng  
không phải ai cũng được ăn bát cơm giống  
nhau. Tùy vào từng loại cơm, cách ăn cơm  
mà người Việt có thể biết được đ a v , v  
thế của từng con người trong xã hội, điều  
này cũng được thể hiện qua nghĩa biểu  
trưng của cơm. Nếu như cơm vua áo chúa,  
cơm bạc đũa ngà là thứ cơm của những  
người quyền quý, có đ a v  cao, được  
hưởng ơn vua lộc chúa thì cơm thầy cơm  
cô, cơm cày cơm cấy, cơm rau áo vải, ăn  
cơm nguội nằm nhà ngoài, cơm thừa canh  
cặn là thứ cơm của những người đi ở,  
những người làm thuê, những người làm lẽ,  
những người có đ a v  thấp trong xã hội.  
3. KẾT LUẬN  
3.1. Đối với người Việt, cơm (cũng  
như cháo, gạo, thóc) là món ăn, nguồn  
lương thực chủ yếu, gắn bó mật thiết với  
họ trong đời sống thường nhật. Chính vì  
thế mà hình ảnh cơm hay bát cơm (bát  
cháo, hạt thóc, hạt gạo) cũng đi vào thành  
ngữ Việt Nam một cách hết sức tự nhiên,  
sinh động với nhiều ý nghĩa.  
3.2. Thành tố cơm khi tham gia cấu  
101  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1.  
Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (2000), Từ điển thành ngữ và tục ngữ  
Việt Nam, Nxb VHTT (Tái bản lần thứ 4).  
2.  
3.  
Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD (Tái bản lần 2).  
Nguyễn Đức Dân (2006), “Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ - sự vận dụng”,  
Ngôn ngữ (3), 1986.  
4.  
5.  
Hoàng Văn Hành (2004), Thành ngữ học tiếng Việt, Nxb KHXH, H.  
Nguyễn Văn Mệnh (1987), “Vài suy nghĩ góp phần xác đ nh khái niệm thành ngữ  
tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 3, tr. 12-18.  
6.  
7.  
Hoàng Phê (chủ biên) (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb KHXH, H.  
Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy,  
Nxb KHXH, Hà Nội.  
8.  
9.  
Bùi Khắc Việt (1978), “Về tính biểu trưng của thành ngữ trong tiếng Việt”,  
Ngôn ngữ, số 1, tr.1-6.  
Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt, Nxb GD.  
10. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2003), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,  
Nxb GD (Tái bản lần 5).  
* Ngày nhận bài: 25/9/2013. Biên tập xong: 16/5/2014. Duyệt đăng: 22/5/2014  
102  
pdf 8 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 640
Bạn đang xem tài liệu "Nghĩa biểu trưng của thành tố cơm trong thành ngữ tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghia_bieu_trung_cua_thanh_to_com_trong_thanh_ngu_tieng_viet.pdf