Lý giải về sự xuất hiện của yếu tố tự sự ở các ngâm khúc trữ tình trong Văn học Việt Nam Trung đại

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN  
Soá 25 - Thaùng 12/2014  
LÝ GIẢI VỀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA YẾU TỐ TỰ SỰ  
Ở CÁC NGÂM KHÚC TRỮ TÌNH TRONG  
VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI  
LƯU THỊ LOAN(*)  
TÓM TẮT  
Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện đóng vai trò chủ đạo, thì ngâm khúc là những tác  
phẩm trữ tình trường thiên diễn tả tâm trạng đau buồn, u uất triền miên của con người. Làm  
thế nào để kéo dài hàng trăm câu thơ chỉ với mục đích phơi bày tâm trạng như thế. Muốn  
gii bày, thổ lộ tình cảm không còn con đường nào khác là kể lại những việc có liên quan  
đến tình cảm ấy. Vì thế trong tác phẩm trữ tình ít nhiều có yếu tố tự sự. Tự sự đã đi vào  
ngâm khúc và xóa đi khoảng cách tưởng chừng như không thể tiệm cận giữa hai thể loại.  
Từ khóa: tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình, ngâm khúc, yếu tố tự sự, tâm trạng, tình  
cảm, thể loại  
ABSTRACT  
While frameworks play an important main part in works of narration, ngam khuc are  
works of lyric which always show people’s melancholic emotion lasting for a long time.  
How we can do to show our mood with hundred lines of poetry. There is no way to express  
our emotion except retell something which relates to that feeling. Therefore, works of lyric  
partly consist of some elements of narration. Narration, which is in ngam khuc, erases the  
distance of two these forms literature.  
Key words: work of narration, work of lyric, ngam khuc, element of narration, mood,  
emotion, forms  
1. MỞ ĐẦU  
hình thức; thứ hai, sáng tác một tác giả,  
mặc dù một tác giả có thể sử dụng nhiều  
thể loại (sáng tác nhiều thể loại) nhưng  
trong quá trình sáng tác đó có thể giữ lại  
những hình thức cảm nhận và miêu tả vững  
bền gắn liền với phong cách cá nhân; thứ  
ba, sáng tác một thời đại, một trào lưu,  
khuynh hướng trong đó ngự trị những  
nguyên tắc cảm nhận và miêu tả thế giới  
bền vững chiếm ưu thế; thứ tư, các thể loại  
văn học với tư cách là kết cấu văn học  
vững bền, có ký ức thể loại.  
(*)Mỗi thể loại văn học đều có một cách  
thức tổ chức, sắp xếp các yếu tố tạo thành  
một chỉnh thể nghệ thuật. Việc nghiên cứu  
thi pháp như một hệ thống các nguyên tắc,  
phương thức, phương tiện thể hiện nghệ  
thuật, đòi hỏi phải xác lập các chỉnh thể  
văn học như là các đơn vị mang thi pháp.  
Cho đến nay, các nhà khoa học thường nói  
đến các chỉnh thể sau: Thứ nhất, tác phẩm  
văn học là một chỉnh thể, bởi đó là đơn vị  
sáng tạo toàn vẹn, có mở đầu, có kết thúc,  
có sự thống nhất hoàn mĩ giữa nội dung và  
Mỗi tác phẩm ngâm khúc là một chỉnh  
thể nghệ thuật bởi nó có sự tổng hợp của  
nhiều yếu tố như: thể loại, nội dung, hình  
(*)ThS, Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam  
125  
thức, phong cách cá nhân, ngôn ngữ đặc  
biệt là có sự kết hợp của hai yếu tố tự sự và  
trữ tình trong nội dung tác phẩm tạo thành  
một chỉnh thể thống nhất.  
tình chỉ là yếu tố điểm qua thì truyện thơ  
xuất hiện.  
Ngâm khúc – loại tác phẩm thường có  
dung lượng lớn, kết cấu theo phương thức  
trữ tình vẫn không thể tách rời các yếu tố  
tự sự: các sự kiện, các chi tiết, nhân vật.  
Chính các sự kiện, chi tiết, nhân vật (kể,  
thuật, tả) đó đã tạo nên yếu tố tự sự trong  
khúc ngâm. Trên đây đã nói đến sự xuất  
hiện của yếu tố tự sự và sự phá vỡ làn ranh  
giới giữa tự sự và trữ tình trong ngâm khúc.  
Tuy nhiên, sự phá vỡ này chưa đi đến mức  
độ xâm lấn và xóa nhòa hoàn toàn cả hai  
yếu tố. Phải thấy rằng, tự sự tuy có đi vào  
phương thức trữ tình trong tác phẩm nhưng  
không vì thế nó thực hiện cuộc soán ngôi,  
đánh tan những phẩm chất trữ tình nhằm  
tạo nên một thể loại mới (thể thơ tự sự).  
Chức năng biểu hiện tình cảm vẫn là chức  
năng chuyên biệt và trung tâm của khúc  
ngâm. Mọi yếu tố tự sự được vận dụng  
trong tác phẩm đều nhằm hướng đến nội  
dung phơi bày tâm trạng và phát huy tối đa  
chức năng đó. Nói đúng ra, tự sự dừng  
chân trong khúc ngâm chỉ như một sự xâm  
nhập của thể loại chứ chưa đến mức xóa  
nhòa ranh giới giữa tự sự và trữ tình. Yếu  
tố trữ tình luôn giữ một vai trò chủ đạo, cơ  
bản trong mỗi khúc ngâm, còn yếu tố tự sự  
chỉ là sơ đẳng. Chính sự kết hợp của hai  
yêu tố này đã tạo nên tính chỉnh thể của  
khúc ngâm.  
2. NỘI DUNG  
Nếu như trong tác phẩm tự sự, cốt  
truyện có vai trò chủ đạo, thì ngâm khúc là  
những tác phẩm thơ trữ tình dài hơi  
(trường thiên) diễn tả những tâm trạng đau  
buồn, u uất triền miên của con người  
thường không có cốt truyện hoặc có cốt  
truyện đơn giản. Vấn đề đặt ra ở đây là làm  
thế nào để tác giả có thể kéo giãn hàng  
trăm câu thơ chỉ với một mục đích là phơi  
bày tâm trạng như thế? Làm thế nào để lôi  
cuốn và khẳng định sức sống của các tác  
phẩm chỉ bằng thế giới tâm trạng tuy có  
phong phú nhưng ít biến chuyển mà phần  
lớn như đúc ra một khuôn tình cảm đau  
khổ, buồn rầu mà nhà nghiên cứu Đặng  
Thai Mai gọi là“sự ngưng đọng trên một  
khối sầu”. Vấn đề sẽ được giải quyết khi  
chúng ta thấy sự xuất hiện của yếu tố tự sự.  
Tự sự đã đi vào ngâm khúc và xóa đi  
khoảng cách tưởng chừng không thể tiệm  
cận giữa hai thể loại.  
Muốn giãi bày, thổ lộ tình cảm không  
còn con đường nào khác là phải kể ra, thuật  
lại những sự việc có liên quan đến tình cảm  
ấy, những “hỉ, nộ, ái, ố” của con người là  
vì đâu, do đâu, hay những hoàn cảnh, trạng  
huống và sự kiện nào làm nảy sinh tâm tình  
ấy? Thật khó hình dung một trạng thái cảm  
xúc, bất định được nói ra một cách vô tận  
mà không có một chỗ neo bám cụ thể nào.  
Vì thế trong tác phẩm trữ tình ít nhiều có  
yếu tố tự sự. Việc đưa yếu tố tự sự vào  
trong thơ cũng là gợi ý để sáng tạo những  
thể loại mới. Khi tự sự và trữ tình có chức  
năng ngang quyền thì thể thơ trường thiên  
ra đời. Khi tự sự đóng vai trò chủ yếu, trữ  
Tự sự là một trong ba phương thức (tự  
sự, trữ tình, kịch) tái hiện đời sống gắn liền  
với các yếu tố quan trọng như: tính khách  
quan, cốt truyện, nhân vật, trần thuật (kể).  
Theo Lại Nguyên Ân “Nét đặc thù của tự  
sự là vai trò tổ chức của trần thuật. Nó  
thông báo về các biến cố, các tình tiết như  
thông báo về một cái gì đó đã xảy ra và  
được nhớ lại, đồng thời mô tả hoàn cảnh,  
hành động và dáng nét các nhân vật, nhiều  
126  
khi còn thêm cả những lời bàn luận” [1,  
359].  
hư huyễn về cuộc đời. Trong lời trữ tình ấy,  
chủ thể trữ tình đóng hai vai, một vai người  
trần thuật (người kể), một vai người trong  
cuộc – người trữ tình” [2, 99].  
Cái vai kép vừa tự sự vừa trữ tình là sự  
mở đầu cho lối tự sự nửa trực tiếp trong  
các khúc ngâm. Chẳng hạn lời giới thiệu,  
mở đầu Chinh phụ ngâm bản dịch của  
Đoàn Thị Điểm:  
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,  
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên?  
Lời than (trữ tình):  
Xanh kia thăm thẳm từng trên  
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này!  
Cung oán ngâm khúc mở đầu với lời  
than, lời trách, lời hỏi:  
Đối với tác phẩm tác phẩm trữ tình,  
nguyên tắc chủ quan đóng vai trò chủ đạo  
trong việc chiếm lĩnh hiện thực, là nhân tố  
quan trọng quy định những điểm cốt yếu  
của tác phẩm. Tác phẩm trữ tình thể hiện  
tâm trạng, do đó thường không có cốt  
truyện hoặc cốt truyện đơn giản. Tuy nhiên  
các sự kiện, chi tiết vẫn giữa một vai trò  
quan trọng đối với loại trữ tình dài hơi như  
ngâm khúc. Ở đây các yếu tố tự sự (sự  
kiện, chi tiết, nhân vật) vẫn giữ một vai trò  
quan trọng.  
Theo Wellec và Warren, vấn đề chủ yếu  
của phương pháp tự sự là cách xử lý mối  
quan hệ giữa người kể chuyện và câu  
chuyện của anh ta, ở cách tổ chức lời văn kể  
chuyện để tạo ra một câu chuyện mới  
[chuyển dẫn từ 4, 195]. Ông cũng cho biết  
thêm: “nói đến nghệ thuật kể chuyện, ngày  
nay người ta không còn giản đơn là nói tới  
cách kể theo ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba  
một cách bề ngoài, mà tìm vào những yếu tố  
bên trong đã chi phối đặc điểm, chất lượng  
của ngôi kể ấy. Ngôi kể ấy vẫn có ý nghĩa  
riêng trong việc tạo thành giọng kể, một  
điều không thể coi nhẹ. Nhưng lý thuyết tự  
sự hiện đại đã nói đến điểm nhìn, tiêu cự,  
tức là nói đến phương pháp cảm nhận nhìn  
thấy con người và sự vật được kể. Phương  
pháp tự sự thực chất là phương pháp nhìn  
thấy sự vật và con người, phương pháp phát  
hiện về con người” [4, 195].  
…Duyên đã may cớ sao lại rủi,  
Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang.  
Vì đâu nên nỗi dở dang,  
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi  
mình.  
Tiếp theo là lời tự sự (kể) tài năng và  
sắc đẹp của mình:  
Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa,  
Vẻ phù dung một đóa khoe tươi,  
Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,  
Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung…  
- Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,  
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.  
- Cầm điếm nguyệt, phỏng tầm Tư Mã,  
Địch lầu thu lạ gã Tiêu lang.  
Dẫu mà miệng hát tay dang,  
Thiên tiên cũng ngảnh, Nghê Thường  
trong trăng.  
Theo Trần Đình Sử: “Điểm quan trọng  
nhất của các khúc ngâm đã tạo thành một  
kiểu trữ tình mới, có tính chất tự sự, có thể  
làm phong phú cho ngôn ngữ tự sự. Đó là  
lối trữ tình nhập vai. Đặng Trần Côn đã  
nhập vai người chinh phụ để viết Chinh phụ  
ngâm khúc, cũng như Nguyễn Gia Thiều đã  
thác lời người cung nữ để nói lên cảm nhận  
Qua khảo sát các ngâm khúc trong văn  
học Việt Nam trung đại, chúng tôi thấy có  
khá nhiều yếu tố tự sự.  
Đó là lời tự sự miêu tả về sắc đẹp của  
người cung phi trong Cung oán ngâm:  
Áng đào kiểm đâm bông não chúng,  
Khóe thu ba gợn sóng khuynh thành.  
Bóng gương lấp ló trong mành,  
127  
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.  
Còn đây là lời tự sự của cung phi trong  
cái đêm đầu tiên được nhà vua ân ái, gây  
cho nàng một cảm giác tuyệt vời, một hy  
vọng được trở thành hậu phi:  
Cái đêm hôm ấy đêm gì,  
Năm ba kẻ thước người hèo,  
Ngõ nhan lôi cái đan biều đập tan.  
Gà eo óc vừa tàn giấc mộng,  
Nhặng vo ve sực nức hồn kinh.  
Cảnh vợ con nheo nhóc:  
Tiểu đồng thổn thức xung quanh,  
Thê nhi lăn lóc bên mình khóc than.  
Cao Bá Nhạ tự nói về bản thân mình:  
Chim hồng mong chấp cánh bay,  
Năm xe kinh sử một tay vẽ vời.  
Và đây là lời tự tình thuật nghẹn trước  
Bóng dương lồng bóng đồ mi trập  
trùng.  
Khoa thược dược mơ mòng thụy vũ,  
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu.  
Cành xuân hoa chúm chím đào,  
Gió đông thôi đã cợt đào, ghẹo mai.  
Đoàn Thị Điểm hóa thân vào người  
chinh phụ để dịch Chinh phụ ngâm. Trong  
Chinh phụ ngâm cũng có khá nhiều lời tự  
sự.  
giờ ly biệt:  
Ngoảnh vào ái ngại thê nhi,  
Ngoảnh ra án cũ cầm thi ngại ngùng.  
Trong Ai tư vãn, chủ thể trữ tình là  
người trong cuộc:  
Đây là lời tự sự miêu tả về chân dung,  
diện mạo, hành động của người chinh phu  
lúc mới xuất chinh:  
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,  
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang  
beo.  
- Trong sáu viện, ố đào, ủ liễu,  
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm ghê.  
- Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ,  
Cất chân tay thương khó xiết chi.  
Đinh Nhật Thận hòa vào tâm trạng  
người “lữ thứ” để tả cảnh:  
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,  
Thơ nhã ái bốn câu lỡ vận,  
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.  
Còn đây là lời tự sự miêu tả cảnh chia  
tay:  
Rượu ly hoài ba chén làm khuây.  
Trước đèn ngồi tựa như trai,  
Não lòng đất khách ngậm ngùi người  
xưa.  
Nhủ rồi tay lại cầm tay,  
Bước đi một bước dây dây lại dừng.  
Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại,  
Ngác Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.  
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,  
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy  
trùng.  
Các yếu tố tự sự trong các tác phẩm  
ngâm khúc như đã nói ở trên, gồm khá  
nhiều yếu tố, tuy nhiên thể hiện rõ nhất là  
một cốt truyện sơ giản.  
Theo Từ điển thuật ngữ văn học coost  
truyện “là hệ thống các sự kiện cụ thể,  
được tổ chức theo yêu cầu và tư tưởng  
nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ  
phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình  
thức động của tác phẩm văn học thuộc các  
loại tự sự và kịch” [4, 99].  
Đây là lời kể, tả về gia cảnh của người  
chinh phu:  
Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương,  
Tóc già phơ phất mái sương,  
Con thơ măng sữa vả dương phù trì.  
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,  
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.  
Trong Tự tình khúc, Cao Bá Nhạ đã kể  
về cảnh sai nha ập vào nhà ông phá phách:  
Cốt truyện là sản phẩm sáng tạo độc  
đáo của nhà văn. Mọi cốt truyện đều trải  
qua một tiến trình vận động có hình thành,  
phát triển và kết thúc.  
128  
Trong Chinh phụ ngâm khúc, người  
đọc nhận ra cáy ý bao trùm lên khúc ngâm  
là tiếng nói tố cáo, phản đối chiến tranh.  
Chiến tranh đã cướp đi tình yêu, hạnh  
phúc, tuổi trẻ của con người. Cốt truyện  
trong Chinh phụ ngâm xoay quanh câu  
chuyện một đôi vợ chồng trẻ đang sống  
yên ấm, hạnh phúc thì chiến tranh nổ ra,  
người chồng vội vã lên đường theo lệnh  
nhà vua:  
Trong Cung oán ngâm khúc, cốt truyện  
xoay quanh việc một cô gái trẻ đẹp và có  
tài, nàng được nhà vua tuyển vào trong  
cung:  
Hương trời đắm nguyệt say hoa,  
Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình.  
Lúc đầu nàng được nhà vua cưng  
chiều, sủng ái, ân ái mặn nồng thắm thiết:  
Mây mưa mấy giọt chung tình,  
Đình trầm hương đóa một cành mẫu đơn.  
Nhưng chẳng bao lâu, nàng đã bị nhà  
vua chán bỏ. Ở trong cung, nàng xót  
thương cho thân phận của mình và oán  
trách nhà vua phụ bạc:  
Trống Tràng Thành lung lay bóng  
nguyệt,  
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.  
Chín lần gươm báu trao tay,  
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất  
chinh.  
Người chinh phụ trở về khuê phòng,  
tưởng tượng về cảnh sống của chồng nơi  
chiến địa. Nàng lo lắng cho chồng ở ngoài  
chiến trường đầy khốc liệt:  
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân  
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.  
Cung nữ muốn “đạp tiêu phòng mà ra”,  
khát khao trở về với cảnh đời “cục mịch  
nhà quê” thuở trước nhưng nàng vẫn tiếp  
tục bị giam cầm trong cung điện vàng son,  
trong nỗi buồn đau, sầu thảm và oán hờn  
chất chứa. Cuối cùng nàng vẫn khát khao  
có được những cuộc ân ái hiếm hoi khi  
xưa:  
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,  
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.  
Chinh phu tử sĩ mấy người,  
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.  
Đoạn tiếp theo của khúc ngâm, chủ yếu  
nói về tâm trạng nhớ thương, mong đợi của  
người chinh phụ trong cảnh cô quạnh.  
Người chồng lần lữa, chín hẹn mười  
thường đơn sai nhưng người vợ ở nhà vẫn  
làm tròn bổn phận của mình: phụng dưỡng  
cha mẹ già và nuôi con nhỏ. Nỗi sầu cứ  
chồng chất, người chinh phụ chán chường  
và tuyệt vọng không thiết tha đến điều gì  
chỉ mong được sống cùng chồng. Kết thúc  
tác phẩm, người chinh phụ hình dung ngày  
chồng nàng trở về trong niềm vui chiến  
thắng khải hoàn, được nhà vua ban thưởng  
và cùng nàng sống hạnh phúc trong thanh  
bình, yên ả:  
Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục,  
Chốn phòng không như giục mây mưa.  
Giấc chiêm bao những đêm xưa,  
Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày.  
Nàng vẫn mong chờ được nhà nhà vua  
đoái hoài đến và lo lắng không giữ được  
sắc đẹp như xưa:  
Phòng khi động đến cửu trùng,  
Giữ sao cho được má hồng như xưa.  
Trong Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ,  
người đọc nhận ra cái ý bao trùm của khúc  
ngâm là cái ý oán hận vì tác giả phải trả cái  
tội mà mình không làm. Đại để đó là sự  
quanh co, bực bội, âu sầu của người tù Cao  
Bá Nhạ. Qua tâm sự ấy, ta nhận thấy trước  
hết là đạo nghĩa rất mạnh của Nho gia. Qua  
tâm sự ấy ta còn nhận thấy một Bá Nhạ  
giàu tình cảm: lòng nhớ quê hương, thương  
Giữ gìn nhau vui thuở thái bình  
Ngân nga xin gửi chữ tình:  
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu.  
129  
cha me, thương vợ con và thương thân trải  
ra trong nhiều câu lâm ly.  
giải về kinh đô (Huế) để xét hỏi. Nhưng  
sau đó ông được tha và trở về quê nhà. Thu  
dạ lữ hoài ngâm được ông làm trong thời  
gian ông bị quản thúc ở Huế. Thu dạ lữ  
hoài ngâm là câu chuyện về nỗi niềm của  
nhà thơ: tình thương nhớ quê hương và gia  
đình, là nỗi buồn đau, xót xa khi bị giam  
cầm ở một nơi lạnh lẽo, xa lạ.  
Theo Phạm Thế Ngũ, tác giả làm ra  
khúc ngâm này chủ ý biện hộ cho mình  
trước “tội lỗi” (theo quan điểm của nhà  
Nguyễn) mà chú ông là Cao Bá Quát gây  
ra (cầm đầu khởi nghĩa Mỹ Lương) và xin  
triều đình ân xá. Tác phẩm gồm 680 câu  
thơ song thất lục bát viết bằng chữ Nôm,  
có thể chia làm 6 phần:  
Còn cốt truyện trong Ai tư vãn thì lại  
xác định theo bố cục sau:  
Mở đầu (8 câu): Sau khoảng tám năm  
lẩn trốn (1854- 1862), tác giả giờ đây bị bắt  
nên làm ra khúc ngâm này để bày tỏ tâm sự  
của mình.  
Giới thiệu về gia thế (từ câu 9 đến câu  
36): Tác giả họ Cao ở làng Phú Thị, đã  
mấy đời khoa bảng, vẫn luôn lấy sự thanh  
liêm cần mẫn làm đầu.  
Từ câu 1 đến câu 20: Kể công đức của  
vua Quang Trung, kể về mối lương duyên  
của bà:  
Từ câu 21 đến câu 28: Kể về tình nghĩa  
vua Quang Trung đối xử với nhà Lê:  
Từ câu 29 đến câu 44: Vua Quang  
Trung nhuốm bệnh rồi mất.  
Từ câu 45 đến 108: Kể về nỗi niềm  
thương xót của bà, bà hồi tưởng lại cảnh  
sum vầy đẹp đẽ.  
Từ câu 109 đến câu 130: Nỗi buồn  
muốn chết theo chồng.  
Từ câu 131 đến câu 144: Thương cho  
cảnh côi cút của các con nhỏ và cảnh lẻ loi  
của người góa bụa ở trong cung.  
Từ câu 145 đến câu 164: Tâm sự đau  
thương của bà.  
Gia biến và lánh nạn (từ câu 37 đến  
câu 188): Vì tội của chú (Cao Bá Quát) mà  
cha tác giả phải tự sát, bản thân phải trốn ở  
nơi hẻo lánh (Mĩ Đức thuộc Hà Đông cũ)  
làm thày đồ tạm quên sầu muộn với sách  
và hoa. Tác giả nói mình đã có vợ con, bấy  
lâu nay chỉ mong được nhà vua ân xá.  
Thuật lại việc bị bắt (từ câu 189 đến  
câu 324): Không ngờ có người tố giác, bị  
quan bao vây, bắt bỏ cũi đưa đi (Hải  
Dương, Bắc Ninh), chịu nhiều khổ sở,  
nhục nhã.  
Kể tâm sự trong ngục (từ câu 325 đến  
câu 572): Tác giả buồn tủi, đau đớn vì bị oan  
ức nhưng vẫn cố gắng giữ lòng ngay thẳng  
và rất nhớ về cha mẹ, vợ con ở quê nhà.  
Kết thúc (từ câu 572 đến 608): Tác giả  
tin vào đạo lý thánh hiền, hy vọng vào  
công lý của trời và phúc đức của nhà mình.  
Cũng giống như hoàn cảnh của Cao Bá  
Nhạ, Đinh Nhật Thận là bạn thân của Cao  
Bá Quát. Khi Cao Bá Quát dấy binh khởi  
nghĩa không thành, Đinh Nhật Thận bị  
nghi ngờ có liên quan nên ông bị bắt và bị  
3. KẾT LUẬN  
Có thể thấy mọi chi tiết tự sự được sử  
dụng đều hướng đến nội dung trữ tình được  
nói đến trong tác phẩm. Và không chỉ đơn  
giản như một yếu tố phụ có vai trò làm  
phông nền cho tâm trạng mà tự sự đóng vai  
trò quan trọng. Không có nó, tâm trạng  
nhân vật sẽ thiếu đi một bệ đỡ, một điểm  
tựa để ra đời và phát triển. Dòng tâm trạng  
của nhân vật cũng vì thế mà không thể trôi  
chảy tự nhiên, thuận lợi và dễ dàng trong  
chiều của tác phẩm. Và một điều quan  
trọng hơn, sự có mặt của yếu tố tự sự sẽ  
giúp tâm trạng nhân vật được “lạ hóa”,  
không gây cảm giác nhàm chán và tẻ nhạt  
130  
cho người tiếp nhận. Vì sao lại nhận định  
như vậy? Có thể thấy, tâm trạng nhân vật  
tuy có rất nhiều sắc thái khác nhau nhưng  
đều đồng quy từ một chữ buồn nên ít nhiều  
nó có sự lặp lại. Tuy rằng sự lặp lại này  
cũng nằm trong dụng ý của khúc ngâm là  
triển khai đến mức tối đa sự trì trệ, ứ đọng,  
không gì giải tỏa và vượt thoát được của  
tình cảm, nhưng nó rất dễ gây mất hứng  
thú cho người đọc. Vì thế việc đưa vào chi  
tiết về việc làm, hành động của nhân vật sẽ  
nhằm đổi khẩu vị thưởng thức cho độc giả,  
khiến họ tưởng chừng như diện kiến một  
gương mặt cảm xúc mới.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,  
Hà Nội.  
2. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật  
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.  
3. Lương Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc (1987), Những ngâm khúc chọn  
lọc, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.  
4. Nguyễn Đăng Điệp (giới thiệu và tuyển chọn) (2004), Trần Đình Sử tuyển tập (tập 1),  
Những công trình thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.  
*Ngày nhận bài: 4/6/2014. Biên tập xong: 1/12/2014. Duyệt đăng: 6/12/2014  
131  
pdf 7 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 600
Bạn đang xem tài liệu "Lý giải về sự xuất hiện của yếu tố tự sự ở các ngâm khúc trữ tình trong Văn học Việt Nam Trung đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfly_giai_ve_su_xuat_hien_cua_yeu_to_tu_su_o_cac_ngam_khuc_tru.pdf