Định hướng phát triển năng lực thẩm mỹ qua ngữ liệu văn học nhằm bồi dưỡng phẩm chất cho học sinh đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới phổ thông

Kỷ yếu hội thảo khoa học  
113  
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THẨM MỸ QUA NGỮ LIỆU  
VĂN HỌC NHẰM BỒI DƯỠNG PHẨM CHẤT CHO HỌC SINH ĐÁP ỨNG  
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI PHỔ THÔNG  
ThS. Tạ Thị Thanh Hà - ThS. Trần Thị Lệ Dung  
Khoa THCS, Trường CĐSP Nghệ An  
Tóm tắt:  
Trong chương trình GDPT tổng thể, chúng tôi nhận thấy yêu cầu về năng lực thẩm  
mỹ rất sát với những yêu cầu cụ thể về các phẩm chất chủ yếu cần đạt đối với hꢀc sinh  
phổ thông. Vì vậy, bài viết này hướng tới khai thác cách tiếp cận NLTM trong dạy  
hꢀc Ngữ văn nhằm giúp hꢀc sinh hoàn thiện các yêu cầu về phẩm chất mà chương  
trình GDPT đặt ra.  
1. Đặt vấn đề  
Chương trình Giáo dục phổ thông (GDPT) tổng thể [2] xác định rất rõ các biểu  
hiện năng lực của HS, trong đó, có 3 năng lực chung và 7 năng lực chuyên môn. Với  
môn Ngữ văn, 2 năng lực được xem là đặc thù là năng lực ngôn ngữ và năng lực thẩm  
mỹ. Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn [3.3] cũng khẳng định: “Ngữ văn  
là môn hꢀc mang tính công cụ và tính thẩm mỹ- nhân văn; giúp hꢀc sinh có phương  
tiện giao tiếp, làm cơ sở để hꢀc tập tất cả các môn hꢀc và hoạt động giáo dục khác  
trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trꢀng để giáo dục hꢀc sinh những  
giá trị cao đẹp về văn hóa, văn hꢀc và ngôn ngữ dân tộc triển ở hꢀc sinh những cảm  
xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha”. Môn Ngữ văn mang tính  
tổng hợp cao, tích hợp nhiều kiến thức, liên quan đến nhiều môn hꢀc, đồng thời đây  
cũng là môn hꢀc có nhiều liên quan với cuộc sống hàng ngày. Trong chương trình  
GDPT tổng thể, chúng tôi nhận thấy yêu cầu về năng lực thẩm mỹ (NLTM) rất sát với  
những yêu cầu cụ thể về các phẩm chất chủ yếu cần đạt mà chương trình yêu cầu đối  
với hꢀc sinh phổ thông. Vì vậy, bài viết này hướng tới khai thác cách tiếp cận NLTM  
trong dạy hꢀc Ngữ văn nhằm giúp hꢀc sinh hoàn thiện các yêu cầu về phẩm chất mà  
chương trình GDPT đặt ra.  
2. Năng lực thẩm mỹ trong dạy học Ngữ văn và các phẩm chất cần đạt theo  
chương trình GDPT mới.  
2.1. Năng lực thẩm mỹ  
Nói đến NLTM, người ta thường đề cập đến năng lực khám phá cái đẹp và năng  
lực thưởng thức cái đẹp. Qua các tác phẩm văn hꢀc, nghệ thuật, người đꢀc sẽ khám  
phá, cảm nhận cái đẹp của tác phẩm rồi tự nguyện chuyển hóa thành cái đẹp trong  
chính tâm hồn mỗi con người. Môn Ngữ văn chính là cơ hội tốt nhất để phát triển năng  
lực thẩm mỹ khi hꢀc sinh được tiếp xúc với nhiều tác phẩm văn hꢀc của các quốc gia,  
các thời kỳ lịch sử. Thông qua dạy hꢀc các tác phẩm văn hꢀc, giáo viên có thể bồi  
dưỡng cho hꢀc sinh có khả năng phát hiện cái đep, cảm thụ cái đẹp, đánh giá cái đẹp,  
từ đó tự làm đẹp tâm hồn mình.  
Mục tiêu chung của môn Ngữ văn mới cũng nhấn mạnh: Môn Ngữ văn giúp “hình  
Kỷ yếu hội thảo khoa học  
114  
thành và phát triển cho hꢀc sinh những phẩm chất chủ yếu yêu nước, nhân ái, chăm  
chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển  
cá tính. Môn Ngữ văn giúp hꢀc sinh khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu  
hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân  
văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn hꢀc; có ý thức về cội nguồn và bản sắc dân  
tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam, có tinh thần tiếp thu  
tinh hoa văn hóa nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế” [3.5].  
NLTM thể hiện trong các môn hꢀc Âm nhạc, Mỹ thuật và Ngữ văn; trong môn  
Ngữ văn NLTM chính là năng lực văn hꢀc (NLVH).  
Năng lực văn hꢀc là khả năng hiểu một văn bản của người đꢀc trên cơ sở biết rõ  
về sự diễn giải hợp lý hệ thống tín hiệu hoặc “mã” của văn hꢀc. Năng lực văn hꢀc  
được tạo nên bởi các thành tố sau: Kiến thức về văn hꢀc (những hiểu biết về lịch sử  
văn hꢀc, tác phẩm văn hꢀc và lý luận văn hꢀc); kỹ năng về văn hꢀc (kỹ năng đꢀc hiểu  
văn bản, phân tích và đánh giá giá trị văn hꢀc); tình cảm, thái độ đối với tiếp nhận văn  
hꢀc (lòng say mê văn hꢀc, ý thức tìm tòi khám phá các giá trị sâu sắc, độc đáo của tác  
phẩm văn hꢀc trong quá trình tiếp nhận, thưởng thức văn hꢀc).  
Ngữ văn là một môn hꢀc đặc biệt có thể tác động một cách trực tiếp đến cảm xúc,  
tình cảm, tâm hồn người hꢀc. “Thông qua những văn bản ngôn từ và những hình tượng  
nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn hꢀc, bằng hoạt động đꢀc, viết, nói, nghe,  
môn Ngữ văn có vai trò to lớn trong việc giúp hꢀc sinh hình thành và phát triển những  
phẩm hchất tốt đẹp cũng như những năng lực cốt lõi để sống, làm việc hiệu quả, để  
hꢀc suốt đời”[3.3].  
Ở bậc Tiểu hꢀc, NLVH yêu cầu đơn giản là “biết phân biệt văn bản truyện và  
thơ, nhận biết được nội dung văn bản và thái độ, tình cảm của người viết, bước đầu  
hiểu được tác dụng của một số yếu tố hình thức của văn bản văn hꢀc. Biết liên tưởng,  
tưởng tượng và diễn đạt có tính văn hꢀc trong viết và nói” [3.8]. BậcTrung hoc cơ  
sở, yêu cầu về năng lực văn hꢀc là “nhận biết và phân biệt được các loại văn bản văn  
hꢀc: truyện, thơ, kịch, ký và một số thể loại tiêu biểu cho mỗi loại; phân tích được tác  
dụng của một số yếu tố hình thức nghệ thuật thuộc mỗi thể loại văn bản; hiểu được  
nội dung tường minh và hàm ẩn của văn bản văn hꢀc. Trình bày được cảm nhận, suy  
nghĩ về tác phẩm văn hꢀc và tác động của tác phẩm văn hꢀc đối với bản thân; bước  
đầu tạo ra được một số sản phẩm có tính văn hꢀc.”[3.10]. Bậc Trung hꢀc phổ thông,  
NLVH yêu cầu cao hơn, đó là “phân tích và đánh giá văn bản văn hꢀc dựa trên những  
hiểu biết về phong cách nghệ thuật và lịch sử văn hꢀc. Nhận biết được đặc trưng của  
hình tượng văn hꢀc và một số điểm khác biệt giữa hình tượng văn hꢀc và với các loại  
hình tượng nghệ thuât khác, phân tích và đánh giá được nội dung tư tưởng và cách thể  
hiện nội dung tư tưởng trong một văn bản văn hꢀc…Nêu được những nét tổng quát về  
lịch sử văn hꢀc dân tộc và vận dụng vào việc đꢀc tác phẩm văn hꢀc” [3.12]. Như vậy,  
yêu cầu về NLVH đặt ra đối với hꢀc sinh phổ thông chính là ngoài việc hiểu được tác  
phẩm, tác giả văn hꢀc còn phải biết tự cảm nhận, tự trình bày được những cảm xúc,  
rung động mà văn hꢀc đưa lại với bản thân mình; và từ đó chính hꢀ có thể tạo ra những  
Kỷ yếu hội thảo khoa học  
115  
sản phẩm tâm hồn có giá trị.  
2.2. Các phẩm chất chủ yếu cần đạt trong chương trình GDPT  
Mục tiêu xây dựng con người Việt Nam “phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức,  
thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật” trở thành mục tiêu  
quan trꢀng, có ý nghĩa chiến lược trong thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất  
nước.  
Mục tiêu ấy đã được cụ thể hóa trong Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể.  
Chương trình mới đặt ra các yêu cầu về phẩm chất chủ yếu cần đạt cho hꢀc sinh như  
sau: yêu nước; nhân ái (yêu quý mꢀi người, tôn trꢀng sự khác biệt giữa mꢀi người);  
chăm chỉ (ham hꢀc, chăm làm); trung thực; trách nhiệm (có trách nhiệm với bản thân,  
gia đình, với nhà trường và xã hội, với môi trường sống). Với mỗi cấp hꢀc, các phẩm  
chất trên được yêu cầu ở các mức độ khác nhau. Các phẩm chất này chính là hướng  
đến mục tiêu chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam trong thời đại mới.  
Phẩm chất là những yếu tố đạo đức, hành vi ứng xử, niềm tin, tình cảm, giá trị  
cuộc sống; ý thức pháp luật của con người được hình thành sau một quá trình giáo  
dục. Phẩm chất và năng lực là hai thành phần chủ yếu cấu thành nhân cách con người,  
luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau trong sự phát triển nhân cách. Do vậy, có thể  
xem quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người gắn liền với quá trình tích  
tụ, phát triển các yếu tố của phẩm chất và năng lực. Trong quá trình giáo dục, dạy hꢀc  
phát triển phẩm chất, năng lực người hꢀc là một phương pháp dạy hꢀc ưu thế hướng  
người hꢀc tiếp cận gần hơn với phát triển nhân cách của mình. Vì vậy, khi xây dựng  
Chương trình và sách giáo khoa mới, mục tiêu này được xác định rõ: “Đổi mới chương  
trình, sách giáo khoa GDPT nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và  
hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp;  
góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát  
triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa trí, đức, thể, mĩ và phát huy tốt  
nhất tiềm năng của mỗi hꢀc sinh” [1].  
Khi tiếp cận Chương trình GDPT tổng thể và nguồn ngữ liệu được đưa ra trong  
Chương trình chi tiết môn Ngữ văn [3.16,17], chúng tôi nhận thấy giữa yêu cầu về  
NLVH và sự phát triển các phẩm chất theo định hướng phát triển con người toàn diện  
có một mối quan hệ với nhau; nâng cao năng lực văn hꢀc cho hꢀc sinh phổ thông là  
một trong những con đường, cách thức tự nhiên nhất để hꢀc sinh có thể tự mình hoàn  
thiện những phẩm chất theo yêu cầu của chương trình đặt ra, hướng tới mục tiêu phát  
triển toàn diện con người Việt Nam thế hệ mới.  
2.3. Bồi dưỡng, hoàn thiện các phẩm chất cho học sinh phổ thông bằng cách  
nâng cao năng lực thẩm mỹ (NLVH) trong dạy học các tác phẩm văn học thuộc  
chương trình Ngữ văn mới.  
2.3.1. Ngữ văn có vai trò rất quan trꢀng trong việc định hướng, giáo dục những giá  
trị cao đẹp về văn hóa, văn hꢀc và ngôn ngữ dân tộc, từ đó bồi đắp lòng yêu quê hương  
đất nước, lòng tự hào về đất nước Việt Nam. Chương trình có định hướng mở về ngữ  
liệu, đó là sự quy định thống nhất trên toàn quốc những văn bản bắt buộc như: Nam  
Kỷ yếu hội thảo khoa học  
116  
quốc sơn hà (thời Lý), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn  
Trãi), Truyện Kiều (Nguyễn Du), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu),  
Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Những văn bản này đều là những áng thơ văn  
nổi tiếng xuyên suốt chiều dài lịch sử -văn hóa Việt Nam, nối mạch truyền thống yêu  
nước, ý chí độc lập, tự cường của dân tộc. Thông qua những tác phẩm này, hꢀc sinh sẽ  
hiểu hơn về giá trị thiêng liêng của độc lập, tự do, những khát vꢀng mãnh liệt về độc  
lập tự do ngàn đời của ông cha; hiểu hơn về lịch sử hào hùng chống ngoại xâm để bảo  
vệ dân tộc, non sống đất nước; cũng từ đó giáo dục ý thức về độc lập tự do của người  
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay; một tấc đất, một gang sông đều gắn với giá trị của  
lịch sử, văn hóa Việt. Nguồn ngữ liệu trên là những tác phẩm lớn nhất, những bài ca  
ca ngợi ý thức tự tôn dân tộc, cuộc đấu tranh kiên cường, những thắng lợi vẻ vang lừng  
lꢁy của dân tộc; đó cũng là những văn hào lớn nhất mà tên tuổi của hꢀ mãi trường tồn  
trong lịch sử văn hꢀc Việt Nam.  
Tình yêu với tiếng Việt cũng chính là tình yêu quê hương, đất nước, văn hóa Việt  
Nam. Đối với một quốc gia độc lập, ngôn ngữ được xem là một trong ba biểu tượng  
của một quốc gia (cùng với quốc kỳ và quốc ca). Phạm Văn Đồng đã nói: “Tiếng  
Việt ta rất giàu và đẹp… Chính cái giàu đẹp đó đã làm nên cái chất, giá trị, bản sắc,  
tinh hoa của tiếng Việt, kết quả của cả một quá trình và biết bao công sức dồi mài”.  
Nâng cao NLVH qua đꢀc hiểu các tác phẩm văn hꢀc cũng là cách giúp hꢀc sinh thêm  
yêu tiếng Việt, luôn có ý thức giữ gìn trong sáng của tiếng Việt. Tác phẩm kinh điển  
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng là tác phẩm bắt buộc trong chương trình Ngữ văn  
mới. Không thể phủ nhận được rằng tiếng Việt trở nên giàu có, phong phú, tinh túy  
và đặc sắc hơn là nhờ một phần vào Truyện Kiều. Bao nhiêu lời ca ngợi cũng không  
đủ nói hết sự vĩ đại của tác phẩm này. “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”  
(Chế Lan Viên), “Ngôn ngữ Truyện Kiều như được làm bằng ánh sáng vậy” (Nguyễn  
Đình Thi), “Truyện Kiều là tác phẩm được đánh giá cao nâng tầm giá trị ngôn ngữ  
Việt” (Phong Linh)… Dạy hꢀc những tác phẩm lớn này, giáo viên phải làm cho hꢀc  
sinh hiểu được giá trị của tiếng Việt, thêm yêu quý và tự hào về tiếng mẹ đẻ, có nhiệm  
vụ bảo vệ và phát triển tiếng Việt, nhất là trong bối cảnh hòa nhập văn hóa hiện nay,  
tiếng Việt cũng không nằm ngoài sự vận động, phát triển theo hướng hiện đại này.  
2.3.2 Văn hꢀc còn giúp hꢀc sinh phát triển những cảm xúc lành mạnh, tình cảm  
nhân văn, lối sống nhân ái vị tha.  
Giá trị văn hꢀc là sản phẩm kết tinh từ quá trình văn hꢀc, đáp ứng những nhu cầu  
khác nhau của cuộc sống con người, tác động sâu sắc tới con người và cuộc sống. Giá  
trị của văn hꢀc gắn với đặc trưng, bản chất của văn hꢀc. Văn hꢀc có ba giá trị cơ  
bản là nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Văn hꢀc có thể mang tới cho người đꢀc những  
nhận thức mới mẻ và sâu rộng về nhiều mặt của cuộc sống. Văn hꢀc giúp đỡ người  
đꢀc hiểu được bản chất của con người nói chung, đồng thời từ cuộc đời của người khác  
mỗi người có thể liên hệ, so sánh, đối chiếu để hiểu chính bản thân mình hơn với tư  
cách là một con người cá nhân. Đó là quá trình tự nhận thức mà văn hꢀc mang tới cho  
mỗi người. Giá trị nhận thức luôn là tiền đề của giá trị giáo dục, không có nhận thức  
Kỷ yếu hội thảo khoa học  
117  
đúng đắn thì văn hꢀc không thể thực hiện chức năng giáo dục được con người.  
Giá trị giáo dục của văn hꢀc trước hết biểu hiện ở khả năng đem đến cho con  
người những bài hꢀc quý giá về lẽ sống để hꢀ tự rèn luyện bản thân mình ngày một tốt  
đẹp hơn. Văn hꢀc hình thành trong người đꢀc một tư tưởng tiến bộ, giúp hꢀ có thái độ  
và quan điểm đúng đắn về cuộc sống.  
Văn hꢀc làm cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng  
hơn. Văn hꢀc có thể thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng, tình cảm của con người theo  
chiều hướng tích cực, tốt đẹp, tiến bộ, đông thời làm cho con người ngày càng hoàn  
thiện về đạo đức. Tác dụng giáo dục của văn hꢀc với tâm hồn con người dần dần thấm  
sâu, bền lâu. Văn hꢀc không chỉ góp phần hoàn thiện bản thân con người mà còn  
hướng hꢀ tới những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Ngoài ra, con người luôn có nhu  
cầu cảm thụ và thưởng thức cái đẹp, và trong sự tồn tại của mình, con người không  
những muốn cuộc sống tốt hơn mà còn đẹp hơn, do vậy giá trị thẩm mĩ là khả năng  
của văn hꢀc có thể phát hiện và miêu tả nhiều vẻ đẹp của cuộc sống một cách sinh  
động, giúp con người cảm nhận được và biết rung động một cách tinh tế sâu sắc trước  
vẻ đẹp đó.  
Cùng các môn hꢀc khác, văn hꢀc giúp hoàn thiện phẩm chất của con người.  
“Những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha” theo mục  
tiêu đặt ra trong Chương trình Ngữ văn sẽ được hình thành qua hệ thống ngữ liệu là  
những “tác phẩm bắt buộc lựa chꢀn”, được định hướng về chủ đề cụ thể như sau: 4 tác  
phẩm đại diện cho 4 thể loại truyện dân gian; 3 bài ca dao về các chủ đề tình yêu quê  
hướng đấ nước, tình yêu, tình cảm gia đình, con người và xã hội; 1 sử thi, 1 truyện thơ,  
1 kịch bản chèo hoặc tuồng; ngoài ra chương trình còn yêu cầu bắt buộc hꢀc các tác  
phẩm của các tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến,  
Hồ Chí Minh, Nam Cao, Vũ Trꢀng Phụng, Xuân Diệu (trước Cách mạng tháng Tám),  
Tố Hữu, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Quang Vũ; các tác phẩm và tác giả  
văn hꢀc nước ngoài của các nền văn hꢀc lớn như Anh, Pháp, Mỹ, Hy Lạp, Nhật Bản,  
Trung Quốc, Ấn Độ (ít nhất một tác phẩm cho một nền văn hꢀc).  
So với ngữ liệu của chương trình hiện hành thì hệ thống ngữ liệu mới cơ bản không  
thay đổi nhiều nhưng không áp đặt mà yêu cầu mở cho các nhà soạn sách giáo khoa  
và các bộ sách giáo khoa. Nhìn tổng thể, hệ thống ngữ liệu đꢀc hiểu “bắt buộc” và  
“bắt buộc lựa chꢀn” cho môn Ngữ văn cơ bản đáp ứng được yêu cầu “giúp hꢀc sinh  
phát triển những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái vị tha” mà  
mục tiêu chung đưa ra.  
2.3.3 Cùng với các môn hꢀc khác, Ngữ văn giúp hoàn thiện dần những phẩm  
chất tốt đẹp của con người đáp ứng mục tiêu của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn  
mới, đó là “giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất  
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân”. Chương trình GDPT mới còn nhấn  
mạnh mục tiêu phát triển con người năng lực, hài hòa con người xã hội và con người  
cá nhân. Mục tiêu này rất gần với bốn trụ cột giáo dục của thế kỷ XXI mà Unessco  
đưa ra: “Hꢀc để biết; hꢀc để làm; hꢀc để tồn tại và hꢀc để chung sống”. Để đạt được  
Kỷ yếu hội thảo khoa học  
118  
mục tiêu chung, hꢀc sinh phổ thông cần thiết phải trau dồi những phẩm chất cơ bản,  
những phẩm chất ấy chính là điều kiện để tiếp tục phát huy những năng lực của con  
người trong cuộc sống hòa nhập vào thế giới hiện đại. Trong quan điểm tích, hợp với  
các môn hꢀc khác trong chương trình, NLTM trong dạy hꢀc Ngữ văn có một vai trò  
quan trong trong việc hoàn thiện phẩm chất tốt đẹp của hꢀc sinh, phẩm chất ấy được  
hình thành và ổn định trong suốt quá trình dài, ngày một hoàn thiện theo hướng vừa  
có thể tự tin hòa nhập vào thế giới phẳng với “những cảm xúc lành mạnh, tình cảm  
nhân văn, lối sống nhân ái vị tha’ mà vꢁn biết trân trꢀng giá trị cốt lõi của cội nguồn,  
những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn hꢀc và ngôn ngữ dân tộc.  
3. Kết luận  
Nghị quyết 29-NQTƯ 8 (Khoá XI) đặt ra mục tiêu: “Tạo chuyển biến căn bản,  
mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công  
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu hꢀc tập của nhân dân. Giáo dục con người  
Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của  
mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”.  
Những mục tiêu này đã được cụ thể hóa trong những yêu cầu về phẩm chất cần đạt  
trong Chương trình GDPT mới. Để có thể giúp hoàn thiện phẩm chất của mỗi cá nhân  
theo định hướng mục tiêu của giáo dục Việt Nam đề ra, một trong những cách quan  
trꢀng và hiệu quả chính là nâng cao năng lực thẩm mỹ cho hꢀc sinh trong dạy hꢀc các  
tác phẩm văn hꢀc./.  
Tài liệu tham khảo  
1. Quốc hội Việt Nam- Nghị quyết 88/2014/QH13  
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018). Chương trình GDPT tổng thể  
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018). Chương trình GDPT môn Ngữ văn  
4. Nguyễn Quang Cương (2011). Phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn hꢀc  
cho hꢀc sinh phổ thông trước yêu cầu mới. Tạp chí Giáo dục số 266, tháng 7/2011  
pdf 6 trang baolam 12/05/2022 1680
Bạn đang xem tài liệu "Định hướng phát triển năng lực thẩm mỹ qua ngữ liệu văn học nhằm bồi dưỡng phẩm chất cho học sinh đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdinh_huong_phat_trien_nang_luc_tham_my_qua_ngu_lieu_van_hoc.pdf