Một số biểu hiện của lí thuyết nghiệm thân trong miền ý niệm vật dụng tiếng Việt

TP CHÍ KHOA HC  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HCHÍ MINH  
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION  
JOURNAL OF SCIENCE  
Tp 18, S4 (2021): 604-613  
Vol. 18, No. 4 (2021): 604-613  
ISSN:  
2734-9918  
Bài báo nghiên cứu*  
MỘT SỐ BIỂU HIỆN CỦA LÍ THUYẾT NGHIỆM THÂN  
TRONG MIỀN Ý NIỆM VẬT DỤNG TIẾNG VIỆT  
Nguyễn Đình Việt  
Trường Khoa hc Xã hội và Nhân văn, Đại hc Quc gia Thành phHChí Minh, Vit Nam  
Tác giliên h: Nguyễn Đình Việt – Email: viet.guitarlead@gmail.com  
Ngày nhn bài: 27-12-2020; ngày nhn bài sa: 03-3-2021; ngày duyệt đăng: 20-3-2021  
TÓM TT  
Bài viết này vn dng mt sbiu hiện cơ bản, dhình dung ca lí thuyết nghim thân vào  
thc tin tiếng Vit, cthqua cấu trúc từ chỉ bộ phận cơ thể người + từ chỉ vật dụngvà một số  
hoán dụ, ẩn dụ ý niệm quen thuộc trong min ý nim vt dụng để chra những nét độc đáo, thú vị  
trong cách tư duy của người Vit. Rõ ràng, nhng hình dung của người Vit vvt dụng đều liên  
quan cht chẽ đến kinh nghim nghim nghiệm thân mà trước tiên và dhình dung nht là tri  
nghim vi chính thân thể, sau đó với đến tri nghim vi tự nhiên và văn hóa – xã hi. Bài viết cũng  
nhn mnh thêm rng, nghim thân là mt hiện tượng phổ quát, tuy nhiên, khi đi vào từng ngôn ngữ  
scó những đặc thù phn ánh stri nhn riêng ca tng cộng đồng din ngôn.  
Tkhóa: miền ý niệm; tri nhận; nghiệm thân; vật dụng  
1.  
Đặt vấn đề  
Ngôn ngữ học tri nhận là một trường phái mới của Ngôn ngữ học hiện đại, tiến hành  
nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự tri giác của con người về thế giới  
khách quan cũng như cái cách thức mà con người ý niệm hóa và phạm trù hóa các sự vật và  
sự tình của thế giới khách quan đó (Ly, 2009, p.12-13). Rõ ràng, nền tảng lí thuyết trung  
tâm của Ngôn ngữ học tri nhận là dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm (cùng với trí não) là  
cơ sở để con người ý niệm hóa thế giới thông qua sự trải nghiệm, tương tác và lí giải của  
chính mình.  
Đường hướng kinh nghiệm (experiental view) được xem là cách hình dung đơn giản  
về nghiệm thân (embodiment) (Trinh, 2019, p.24). Nó chú ý đến sự tương tác giữa cơ thể với  
môi trường (bao gồm cả tự nhiên và xã hội) để hình thành nên những kinh nghiệm trong tư duy,  
nhận thức và được thể hiện thông qua ngôn ngữ bằng các mô hình tri nhận khác nhau.  
Việc vận dụng đường hướng kinh nghiệm, nghiệm thân vào thực tiễn nghiên cứu tiếng  
Việt đã đem lại một số kết quả giá trị trong việc kiến giải ngôn ngữ tư duy văn hóa Việt.  
Trịnh Sâm đã phân loại và miêu tả ba loại nghiệm thân: nghiệm thân sinh lí, nghiệm thân tự  
nhiên và nghiệm thân xã hội (Trinh, 2019, p.25) để lí giải một số hiện tượng tri nhận trong tiếng  
Cite this article as: Nguyen Dinh Viet (2021). Some expressions of the embodiment theory in Vietnamese  
conceptual metaphors of utensils. Ho Chi Minh City University of Education Journal of Science, 18(4), 604-613.  
604  
 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Đình Việt  
Việttrên cơ sở đó, bài viết này tiếp tục vận dụng lí thuyết nghiệm thân để tìm hiểu một số  
biểu hiện của nghiệm thân trong miền ý niệm vật dụng tiếng Việt qua kết cấu định danh “từ chỉ  
bộ phận cơ thể người + từ chỉ vật dụng” (sau đây, “bộ phận cơ thể người” viết tắt là “BPCTN”)  
và một số cấu trúc hoán dụ, ẩn dụ ý niệm.  
2.  
Nội dung  
2.1. Vài nét về lí thuyết nghiệm thân và mối liên hệ với quá trình ý niệm hóa  
Chúng tôi nhấn mạnh rằng, các quan điểm như Dĩ nhân vi trung (lấy con người làm  
trung tâm) hay Cận thử chư thân, viễn thử chư vật (gần thì lấy thân thể, xa thì lấy các vật để  
tham chiếu) đã tồn tại trong văn hóa phương Đông và phương Tây từ rất lâu (xem thêm Tran,  
2007, p.72-76). Theo đó, con người được xem là trung tâm của tất cả ý chí và hành động, là  
mục đích tối cao của tạo hóa. Đời sống tinh thần của con người, hệ thống tri giác và thuyết  
giải tất cả những gì xung quanh, động cơ hành động trong hoạt động thực tiễn cũng như  
hoạt động tinh thần tất cả đều dựa trên cơ sở “dĩ nhân vi trung” (Tran, 2007, p.73). Tuy  
nhiên, thuật ngữ nghiệm thân (embodiment) mới chỉ được Lakoff và Johnson chính thức đề  
cập vào năm 1999, trong công trình Philosophy in the flesh (Triết học trong thân xác). Lakoff  
và Johnson phát biểu: ý niệm của con người không phải chỉ là một phản ánh của thực tại bên  
ngoài mà chúng còn được tạo thành hình dạng quan trọng bởi cơ thể và bộ não của chúng ta,  
đặc biệt là bởi hệ thống thần kinh của chúng ta. (Lakoff, & Johnson, 1999, p.22). Điều đó có  
nghĩa là cơ thể con người và cấu trúc các cơ quan tri nhận bẩm sinh là yếu tố ảnh hưởng trực  
tiếp và trước nhất đến kinh nghiệm cũng như cách lí giải của con người về thế giới.  
Sau sự xác lập của Lakoff và Johnson, lí thuyết nghiệm thân đã được phát triển, mở rộng  
với rất nhiều cách tiếp cận, vận dụng và đã trở thành lí thuyết trung tâm của Ngôn ngữ học tri  
nhận. Đến năm 2007, Tim Rohrer trong bài viết Embodiment and Experientialism đã tổng  
kết 12 cách biện giải khác nhau về nghiệm thân, trong đó có hai cách hiểu được dùng phổ  
biến nhất: nghiệm thân như là sự trải nghiệm chung (embodiment as broadly experiential)  
và nghiệm thân như là sự trải nghiệm lấy cơ thể làm nền tảng (embodiment as the bodily  
substrate) (xem Geeraerts & Cuyckens, 2007, p.25-47). Tim Rohrer cũng khẳng định: theo  
cách hiểu rộng nhất, giả thuyết nghiệm thân cho rằng sự trải nghiệm về thân thể, về nhận  
thức và về xã hội của con người là cơ sở cho hệ thống ý niệm và hệ thống ngôn ngữ của  
chúng ta (Geeraerts, & Cuyckens, 2007, p.27).  
Nghiệm thân có mối liên hệ chặt chẽ với quá trình ý niệm hóa để hình thành nên hệ  
thống ý niệm của con người (tiêu biểu là ẩn dụ ý niệm). Theo Mark Johnson, ẩn dụ là một  
cấu trúc của sự hiểu biết của con người và lĩnh vực nguồn của các ẩn dụ xuất phát từ sự trải  
nghiệm cơ thể của con người mà trở thành cơ sở cho sự ý niệm hóa trừu tượng và lí luận  
(Johnson, 2008, p.45), Như vậy, sự trải nghiệm từ chính cơ thể một biểu hiện của tính  
nghiệm thân là nguồn gốc hình thành nên hệ thống ý niệm. Để làm sáng tỏ hơn điều này,  
chúng tôi sẽ dẫn ra một số biểu hiện cụ thể của nghiệm thân trong kết cấu định danh, một số  
cấu trúc hoán dụ và ẩn dụ ý niệm miền vật dụng tiếng Việt.  
605  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 18, Số 4 (2021): 604-613  
2.2. Nghiệm thân trong miền ý niệm vật dụng tiếng Việt  
Vật dụng là một trong những miền ý niệm cơ bản trong tri nhận của con người (bên cạnh  
các miền ý niệm khác như: đồ ăn, sông nước, hiện tượng thời tiết…) bởi chính sự gần gũi, quen  
thuộc của nó trong trải nghiệm hàng ngày. Chính kinh nghiệm trong quá trình sáng tạo, sử dụng  
cũng như trong những quan niệm khác nhau về vật dụng (do sự chi phối của môi trường tự nhiên,  
văn hóa, xã hội) sẽ phản ánh rõ nét những cách hình dung, cách thức tri nhận độc đáo của  
từng cồng đồng diễn ngôn. Chẳng hạn, với văn hóa ăn uống chuyên dùng bát cho món chính  
là “cơm” của người Việt (khác hẳn với văn hóa ăn uống của người Âu Mĩ chuyên dùng  
dĩa/ đĩa cho món chính) nên bát (hay chén, đọi) đi vào lời ăn tiếng nói hàng ngày của người  
Việt một cách rất tự nhiên như: Ăn bát mẻ, nằm chiếu manh; Ăn cháo, đá bát; Tham một  
bát, bỏ một mâm; Thí một chén nước, phước chất bằng non; Ăn nên đọi, nói nên lời; Lời  
nói, đọi máu… (xem Nguyen, 2020, p.577-578); một ví dụ khác là váy yếm trong trang phục  
truyền thống của người Việt: váy “Đồ mặc PHÍA DƯỚI tiêu biểu và ổn định hơn cả của phụ  
nữ qua các thời đại là cái váy”, “Là thứ đồ mặc phía dưới đặc thù của phương Nam nóng  
bức, chiếc váy khác hẳn với chiếc quần có nguồn gốc từ Trung Á (Chesnov, 1976) là nơi có  
khí hậu giá lạnh và công việc chủ yếu là chăn nuôi, cưỡi ngựa.” (Tran, 2011, p.203); yếm –  
“Đồ mặc PHÍA TRÊN của phụ nữ ổn định nhất qua các thời đại là cái yếm. Yếm là đồ mặc  
đặc thù của người Việt, thường do phụ nữ tự cắt – may – nhuộm lấy” và “Để ứng phó với  
khí hậu nóng bức, phụ nữ khi làm lụng, nhất là trong bóng râm, dù là vào thời Hùng Vương  
hay là đầu thế kỉ XX, vẫn thường mặc váy yếm với hai tay và lưng để trần.” (Tran, 2011,  
p.205)… Những ví dụ này nhấn mạnh đến sự tương tác của người Việt với môi trường văn  
hóa – xã hội (văn hóa ăn uống chuyên dùng bát), với môi trường tự nhiên xã hội (váy, yếm  
là những trang phục đặc trưng cho việc đối phó với thời tiết nóng bức của phương Nam)…  
Có thể thấy rằng, những vật dụng quen thuộc như bát (chén, đọi) hay váy yếm… cũng  
như nhiều vật dụng khác mà chúng tôi sẽ tiếp tục minh họa và phân tích dưới đây đều được  
người Việt tri nhận dựa trên sự kinh nghiệm nghiệm thân của chính mình, đặt trong sự tương  
tác giữa con người với môi trường tự nhiên, văn hóa xã hội.  
Theo Từ điển tiếng Việt, Vật dụng là “Đồ dùng thường ngày” (nói khái quát) (Hoang  
Phe, 2016, p.1404). Rõ ràng vật dụng là một miền ý niệm lớn, đa dạng, nó bao gồm tất cả những  
gì con người sử dụng hằng ngày tùy theo thói quen, tập quán sinh hoạt, nghề nghiệpvà thậm  
chí tùy theo từng thời đại, từng dân tộc. Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi không đi  
sâu thống kê hay phân loại miền ý niệm vật dụng mà chỉ tập trung xác lập và biện giải một số  
biểu hiện cụ thể của lí thuyết nghiệm thân qua một số ý niệm thuộc miền ý niệm vật dụng tiếng  
Việt, từ đó, phân tích một số nét độc đáo trong cách hình dung của người Việt về vật dụng.  
2.2.1. Nghiệm thân trong kết cấu định danh từ chỉ BPCTN + từ chỉ vật dụng  
Như đã trình bày ở trên, một trong những cách hình dung đơn giản về nghiệm thân đó  
là quá trình con người lấy các bộ phận cơ thể người (BPCTN) cũng như sự trải nghiệm của  
thân xác để định hình hệ thống ý niệm và tư duy. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng từ chỉ  
BPCTN thường được dùng để định danh các sự vật, hiện tượng thuộc tự nhiên và xã hội. Dễ  
606  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Đình Việt  
thấy trong tiếng Việt, nhiều BPCTN như đầu, mặt, mũi, tay, chân, mắt, lòng… được sử dụng  
định danh các sự vật, hiện tượng tự nhiên như: Đầu sông, đầu sóng, đầu nguồn, đầu ngọn  
cây… Mặt đất, mặt trời, mặt nước, mặt biển… Mũi kim, mũi chỉ, mũi dùi, mũi giày, mũi kéo,  
mũi dao, mũi đất… Chân trời, chân núi, chân mây… mắt bão, mắt lưới, mắt tre… lòng sông,  
lòng giếng, lòng biển, lòng đất… tác giả Trịnh Sâm cũng từng nhấn mạnh rằng: trải nghiệm  
của người Việt còn thông qua một số hoạt động của giác quan như trường thị giác, hoạt  
động của tay, chân, sự đa nghĩa hệ thống của các động từ thấy, nghe, nhìn… sự đánh giá  
thông qua kinh nghiệm thưởng thức món ăn (vị giác) (Trinh, 2019, p.29), ví dụ như: đắng  
lòng, tình yêu ngọt ngào/ nụ cười chua chát, nóng/ bỏng mắt...  
Những kiểu định danh như trên thể hiện rõ nét tính nghiệm thân (cụ thể là nghiệm thân  
sinh lí) khi đã huy động chính trải nghiệm của con người về các bộ phận thuộc thân thể để  
gọi tên cho các bộ phận của sự vật, hiện tượng xung quanh, trong đó có các bộ phận của vật  
dụng. Kết cấu định danh này xuất hiện trong nhiều ngôn ngữ nhưng mỗi tộc người lại có  
những nét tri nhận khác nhau, chẳng hạn, cũng với mũi bộ phận nhô lên ở giữa mặt  
người, và động vật có xương sống, là cơ quan dùng để thở và ngửi (Hoang Phe, 2016, p.822).  
Từ nghĩa gốc này, mũi được chuyển di sang nghĩa chỉ một bộ phận của vật dụng có đầu nhọn  
nhô ra phía trước như: mũi thuyền, mũi kim. Tuy nhiên, người Hán lại hình dung bộ phận có  
đầu nhọn nhô ra phía trước của thuyền kim tương tự như đầu () nên đã gọi là đầu  
thuyền (), đầu kim (针头)...  
Tìm hiểu sâu hơn, chúng ta có thể thấy rằng, các BPCTN còn được ý niệm hóa để tạo  
thành hàng loạt mô hình hoán dụ, ẩn dụ hoặc ẩn hoán dụ để biểu đạt cho các phạm trù trừu  
tượng thuộc tinh thần, nhận thức, hoạt động… cụ thể như: BPCTN là tình cảm/ vật chứa tình  
cảm; BPCTN là nhận thức/ lí tríNhững dẫn chứng này đều ghi nhận con người/ BPCTN  
là miền nguồn phóng chiếu lên các miền đích khác nhau để giúp con người nhận thức thế  
giới một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp con người/ BPCTN trở  
thành miền đích và được phóng chiếu theo chiều ngược lại, kiểu như lá gan, lá lách, quả  
tim, quả thận, tóc mây, tóc rễ tre, mắt bồ câu, lông mày lá liễu, da trắng như trứng gà bóc,  
mặt trái xoan, mặt thớt, đít lồng bàn… Thậm chí, có những trường hợp phức tạp hơn: lòng  
– là bụng của con người, coi là biểu tượng của mặt tâm lí, tình cảm, ý chí, tinh thần (Hoang  
Phe, 2016, p.730), được phóng chiếu (lần 1) đến miền vật dụng, ví dụ như lòng chảo, sau đó  
lại tiếp tục phóng chiếu (lần 2) đến miền tự nhiên và trở thành vùng lòng chảo địa hình  
trũng ở miền núi, dạng tròn hoặc bầu dục, thường có núi bọc kín hoặc gần kín xung quanh  
(Hoang Phe, 2016, p.731), xem mô hình minh họa dưới đây:  
607  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 18, Số 4 (2021): 604-613  
Những ví dụ trên cho thấy rằng nghiệm thân là một quá trình phức tạp mang tính hệ  
thống với sự kết hợp của não bộ, các cơ quan cảm giác và hệ thống thần kinh điều hành các  
vận động của cơ thể trong cả ý thức lẫn vô thức kết hợp với sự tương tác với môi trường tự  
nhiên và xã hội của chính chủ thể tri nhận. Nghiệm thân là cơ sở đầu tiên để tạo ra hệ thống  
ý niệm của con người, đúng như nhận định của Lakoff: “Hệ thống ý niệm của con người là  
sản phẩm của sự trải nghiệm của con người và sự trải nghiệm đó xuất phát từ cơ thể của con  
người. Không có sự kết nối trực tiếp nào giữa con người và thế giới khi nó tồn tại bên ngoài  
của sự trải nghiệm của con người. Ngôn ngữ của con người dựa trên các ý niệm của con  
người, và đến lượt nó lại được thúc đẩy bởi chính kinh nghiệm của con người.” (Lakoff,  
1987, p.206).  
Chúng tôi chỉ dẫn thêm một vài ví dụ cụ thể để miêu tả, phân tích một số biểu hiện, tồn tại  
của tính nghiệm thân với cách hình dung tự nhiên, gần gũi trong tiếng Việt qua việc xác lập mô  
hình kết cấu định danh: từ chỉ BPCTN + từ chỉ vật dụng. Qua tìm hiểu, chúng tôi bước đầu nhận  
thấy trong tiếng Việt có khá nhiều từ từ chỉ BPCTN kết hợp dễ dàng với từ chỉ vật dụng, chẳng  
hạn: Đầu + giường, búa, cần câu, đinh, gánh, chổi, chỉ, dây, tăm, đũa, chàyMặt + thớt, dao,  
mâm, sập, tủ, giường, bàn, ghếMiệng + bát (chén, đọi), nồi, thúng, thau, chậu, gáoMũi +  
dao, kim, dùi, cưa, kéo, giàyCổ + bình, lọ, chaiChân + giường, tủ, ghế, cũi/chạn, vòng  
kiềng, sậpLưỡi + dao, cuốc, cày, câuĐít + chai, bát (chén, đọi), lọ, bình, nồi, liTrong  
đó, nhiều kết cấu định danh trở thành những ý niệm độc đáo phản ánh văn hóa, tư duy người  
Việt. Lấy ý niệm đầu nồi làm ví dụ, ta thấy, không thể hiểu đó là đầu của cái nồi như kiểu đầu  
giường, đầu bàn, đầu ghế, đầu dao, đầu tủ, đầu chàymà đó chính là chỉ vị trí ngồi ngay bên  
cạnh nồi cơm trong không gian mâm cơm/ bàn ăn thường ngày của người Việt. Và thường thì,  
ngồi ở vị trí đầu nồi là người phụ nữ với vai trò quán xuyến gia đình. Ta có thể xem đây là một  
kiểu tương tác với chính môi trường văn hóa vì xuất phát từ văn hóa ăn uống chuyên dùng cơm  
(được nấu từ gạo) hàng ngày của người Việt mà đề cao vai trò của cái nồi cơm, cho nên vị trí  
đầu nồi dễ dàng được ý niệm hóa để trở thành một ý niệm khá thú vị và độc đáo. Một ví dụ khác  
là ý niệm đít chai, đít li, đít chén, đít bìnhcũng không dễ dịch sang ngôn ngữ khác (như tiếng  
Anh) theo kiểu đáy li, đáy cốc, đáy bát, đáy bình… vì lúc này, đít để chỉ phần bộ phận dưới cùng,  
bên ngoài của cái li, bát, bình, lọ, thúng, nồi(Xem thêm Ly, 2009, p.81-104).  
Tìm hiểu sâu hơn những vật dụng có chức năng chứa đựng như bình, lọ, thúng, nồi, bát  
(chén, đọi), li/ cốc… chúng ta sẽ thấy có nhiều từ chỉ bộ phận được gọi tên theo tên các bộ  
phận cơ thể người: miệng, lưng, đít. Cụ thể với nồi/ bát/ thúng/ bìnhta có miệng nồi, lưng  
nồi, đít nồi, lòng nồi và thậm chí là đầu nồi như đã nhắc ở trên; miệng bát, lưng bát, đít bát,  
lòng bát; miệng thúng, lưng thúng, đít thúng, lòng thúng. Chúng tôi nhấn mạnh thêm rằng,  
nghiệm thân là một hiện tượng phổ quát của ngôn ngữ, tuy nhiên, nó cũng có những đặc thù  
khi đi vào từng ngôn ngữ. Nếu đi vào so sánh cách định danh một số bộ phận của cùng một  
vật dụng, chúng ta sẽ thấy có những khác biệt, xem ví dụ minh họa về từ chỉ một số bộ phận  
của cái nồi cái bình trong tiếng Anh ở Hình 1 và Hình 2 dưới đây:  
608  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Đình Việt  
Hình 1. Từ chỉ bộ phận cái nồi  
Hình 2. Từ chỉ bộ phận cái bình  
Rõ ràng, người Anh cũng có cách hình dung mang tính nghiệm thân về các bộ phận  
của nồi, bình với các từ như: mouth (miệng), lip (môi)/ rim (mép), neck (cổ), handle (tay  
cầm), shouder (vai), body (thân), foot (chân), ngoại trừ walls (thành, vách ngoài), base  
(đáy). Người Việt không dùng foot (chân) để gọi chân nồi mà sẽ gọi bộ phận này là đít  
nồi; không dùng lip (môi) để gọi môi nồi mà chỉ có thể gọi miệng nồi/ vành nồi; không  
dùng shouder (vai) và hạn chế dùng body (thân) để gọi là vai nồi/ thân nồi mà sẽ gọi là  
lưng nồi…  
609  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 18, Số 4 (2021): 604-613  
2.2.2. Nghiệm thân trong hoán dụ ý niệm miền vật dụng  
Theo tri nhận luận, cả ẩn dụ và hoán dụ đều là những phương thức, công cụ của tư duy  
chứ không phải là phép tu từ hay cách diễn đạt bóng bẩy trong thơ ca. Lakoff và Johnson  
cho rằng: Ẩn dụ và hoán dụ là hai loại tiến trình khác nhau. Ẩn dụ chủ yếu là cách nhận  
thức một sự vật nào đó trên cơ sở một sự vật khác và chức năng chính của nó là để hiểu biết.  
Ngược lại, hoán dụ có chức năng chủ yếu là quy chiếu, nghĩa là nó cho phép ta sử dụng một  
thực thể tượng trưng cho cái khác. Tuy nhiên, hoán dụ không chỉ là biện pháp quy chiếu mà  
nó còn có chức năng làm cho người ta hiểu được. (Lakoff, & Johnson, 2003, p.36). Còn theo  
Barcelona: Hoán dụ là một quá trình phóng chiếu ý niệm mà trong đó một miền trải nghiệm  
này (miền đích) được hiểu thông qua một miền trải nghiệm khác (đích) nằm trong cùng một  
miền chứa đựng đối tượng (Barcelona, 2012, p.4).  
Hoán dụ ý niệm có thể hiểu là hiện tượng chiếu xạ xảy ra trong một miền ý niệm duy  
nhất, trong đó, một thành tố biểu trưng cho một thành tố khác trong cùng miền ý niệm hoặc  
biểu trưng cho toàn bộ miền ý niệm. Vận dụng trực tiếp vào miền ý niệm vật dụng, ta có  
nhiều dẫn chứng như: “Sáng nay, tôi ăn hai chén cơm và uống một li cà phê” có hoán dụ  
ý niệm VẬT CHỨA BIỂU TRƯNG CHO CÁI ĐƯỢC CHỨA (container for contents). Cụ  
thể hơn, chén cơm/ li cà phê ở đây chính là lượng cơm/ cà phê mà tôi ăn và uống được;  
Không thể hiểu rằng tôi ăn cả cái chén hoặc uống cả cái li (có thể được làm bằng sứ, thủy  
tinh, inox…). Nếu vận dụng mô hình hoán dụ này, chúng ta có thể có rất nhiều biểu thức  
hoán dụ tương tự khi nói đến các vật dụng có chức năng chứa/ đựng trong tiếng Việt như:  
bát (chén, đọi), nồi, niêu, xoong, chảo, đĩa/ dĩa… Nhưng điều độc đáo hơn mà chúng tôi  
phát hiện ra ở đây là một số vật dụng trở thành những vật chứa tình cảm, cảm xúc của con  
người, kiểu như: Tranh quyền cướp nước gì đây/ Coi nhau như bát nước đầy là hơn; Ăn ở  
như bát nước đầy;… Hoán dụ ở đây không đơn giản là nói về lượng nước được đựng trong  
cái bát (đầy nước) mà lại biểu thị cho sự tràn đầy về tình cảm mà con người dành cho  
nhau. Xa hơn, người Việt thường liên tưởng vật dụng nào chứa đầy, có nhiều về số lượng  
hoặc có giá trị thì tương ứng hoàn cảnh đủ đầy, sung sướng, giàu có: Ngồi mát ăn bát đầy;  
Ngồi mát ăn bát đầy, lầy cày không đầy bát; Kẻ đầy thưng khinh kẻ lưng bát; Ngồi mát  
ăn bát vàng; Có bát ăn bát đểNhư vậy, nhiều vật dụng được người Việt hình dung như  
chính cơ thể con người, có thể chứa đựng những tình cảm, cảm xúc bên trong.  
Mỗi vật dụng được sáng tạo ra đều gắn liền với những hoạt động cụ thể trong đời sống  
sinh hoạt và sản xuất của con người. Trong tri nhận của người Việt, các hoạt động của con  
người khi gắn với từng vật dụng cụ thể cũng biểu thị những ý niệm thú vị HOẠT ĐỘNG  
CỦA CON NGƯỜI LÀ HOẠT ĐỘNG GẮN LIỀN VỚI VẬT DỤNG: Tra chân vào lọ;  
Ngồi thúng, cất cạp; Lấy thúng úp voi; Buôn thúng bán mẹt; Múa tay trong bị; Làm như  
bắt nhái bỏ đĩa; Ăn nên đọi, nói nên lời; Lời nói, đọi máu; Tay đũa, tay chén; Tháo cũi, sổ  
lồng; Ném chuột còn chê cũi bát; Cầm đũa tay chiêu, đập niêu không vỡ…  
610  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Đình Việt  
Trong ngôn ngữ thường ngày, người Việt cũng thường lấy những vật dụng tiêu biểu  
của một nghề nghiệp để nói về con người. Chẳng hạn, cây kéo vàng chỉ những người thợ cắt  
tóc tài năng, điêu luyệnđôi giày vàng/ đôi giày bạc/ cây vợt vàng/… chỉ những cầu thủ  
bóng đá/ bóng bàn tài năng nổi bậtnhư vậy ta có hoán dụ VẬT DỤNG BIỂU TRƯNG  
CHO NGHỀ NGHIỆP.  
2.2.3. Nghiệm thân trong ẩn dụ ý niệm miền vật dụng  
Các nghiên cứu của Ngôn ngữ học tri nhận đều cho thấy ẩn dụ về con người có số  
lượng lớn nhất, phổ biến nhất trong hệ thống ẩn dụ ý niệm. Đây cũng là một minh chứng  
rõ ràng cho sự chi phối, ảnh hưởng sâu rộng của kinh nghiệm nghiệm thân vào từng quá  
trình ý niệm hóa. Và trong chiều hướng đó, miền ý niệm vật dụng cũng được huy động hầu  
hết các tính chất và đặc trưng vật thể của mình để cấu trúc hóa các ý niệm liên quan đến  
con người. Từ mô hình ẩn dụ khái quát, bậc cao đến các mô hình ẩn dụ chi tiết, bậc thấp:  
CON NGƯỜI LÀ VẬT THỂ đến CON NGƯỜI LÀ ĐỒ VẬT đến CON NGƯỜI LÀ VẬT  
DỤNG.  
Quá trình phân tách sẽ tiếp tục phát triển thành các ẩn dụ ý niệm bậc dưới, cụ thể là  
khi có sự ánh xạ đến các đặc điểm riêng biệt của con người như ngoại hình, tính cách,  
phẩm chất, hoạt độngthì hàng loạt các cấu trúc ẩn dụ bậc dưới tương ứng sẽ được hình  
thành. Mô hình ẩn dụ ý niệm CON NGƯỜI LÀ VẬT DỤNG phản ánh khá rõ nét những  
đặc trưng tri nhận nghiệm thân của người Việt, mà đầu tiên cũng chính là cách hình dung  
về thân thể con người, từ các BPCTN đến tổng thể con người đều được người Việt hình  
dung qua nhiều ý niệm vật dụng quen thuộc. Tương tự như mô hình định danh đã mô tả và  
phân tích ở trên, nhiều BPCTN như đầu, mắt, má, mặt, cổ, tay, chân, bụng, lưng, vai, râu…  
cũng được nhận hiểu qua nhiều vật dụng quen thuộc như cối chày máy, dao cầu, mâm, que  
rẽ, vòng kiềng, bình vôi, cong, lệnh, giành, thúng cái, nón, cày, bừahình thành nên cấu  
trúc ẩn dụ BỘ PHẬN CƠ THỂ CON NGƯỜI LÀ VẬT DỤNG, chẳng hạn: Đầu như cối  
chày máy; Mắt sắc như dao cầu; Má bánh đúc, mặt mâm xôi; Tay que rẽ, chân vòng kiềng;  
Chân đi vòng kiềng; Trọc đầu lông lốc bình vôi; Cổ tày cong, mặt tày lệnh; Đầu to hơn  
giành; Bụng thúng cái, lưng cánh phản; Râu quai nón; Cổ cày vai bừa; Tay dùi đục, chân  
bàn chổi…  
Thú vị hơn, bằng trải nghiệm của các giác quan, người Việt thường hình dung một  
cách cụ thể cảm nhận của mình về từng sự vật, hiện tượng xung quanh bằng những mùi vị,  
âm thanh, xúc cảmrất cụ thể, chẳng hạn: Cái chén đó rất ngon/ dở; Cái dao này ngon/ dở  
lắmcách đánh giá của hầu hết các vật dụng đều có thể là ngon hoặc dở, nghĩa là qua cảm  
nhận của vị giác con người (xem thêm Trinh, 2015, p.26-30). Những minh họa này có thể  
được khái quát thành CẢM NHẬN VỊ GIÁC CỦA CON NGƯỜI LÀ CHẤT LƯỢNG CỦA  
VẬT DỤNG. Cũng có khi CẢM GIÁC/ TÂM TRẠNG CỦA CON NGƯỜI LÀ HOẠT  
ĐỘNG CỦA VẬT DỤNG như: Đau như búa bổ; Đau như dao cắt; Trách ai xe sợi chỉ hồng/  
Không săn lại rối cho lòng anh đau; Đứt tay một chút chẳng đau/ Xa em một chút như dao  
611  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 18, Số 4 (2021): 604-613  
cắt lòng; Dao vàng cắt ruột máu rơi/ Ruột đau chưa xót bằng lời em than; Bây giờ anh lấy  
người ta/ Như dao cắt ruột em ra làm mười…  
Nhng ý nim vô hình, trừu tượng (tình cm, cm xúc…) thuộc con người cũng được  
người Vit quan tâm và nhn hiu qua nhng vt dng hu hình, cth, ví dụ như: Ơn bằng cái  
đĩa, nghĩa bằng con rui; Chung gi chung chăn; Cùng ăn một mâm, cùng nm mt chiếu;  
Giữa đường đứt gánh; Lá thm, chhng; Gương vli lành; Tranh quyền cướp nước gì  
đây - Coi nhau như bát nước đầy là hơnto nên n dTÌNH CM/ CM XÚC CA  
CON NGƯỜI LÀ VT DNG. Nếu tìm hiểu sâu hơn, chúng ta còn có thể xác lp, phân  
tích được nhiu cu trúc n dý niệm khác như: Hoàn cảnh/ địa vcủa con người là vt  
dng; Phm cht của con người là vt dụng; Tài năng của con người là vt dng… thm  
chí nếu so sánh vi cách thc tri nhn ca mt vài cộng đng din ngôn khác bng lí thuyết  
nghim thân chc chn sthu hoạch được nhiu kết quthú vvề tư duy, ngôn ngữ và văn  
hóa của người Việt được thhin trong min ý nim vt dng.  
3.  
Kết lun  
Bài viết giới thiệu khái quát mô hình định danh từ chỉ BPCTN + từ chỉ vật dụng và  
một số cấu trúc hoán dụ, ẩn dụ ý niệm cơ bản, quen thuộc để dễ dàng biện giải cho lí thuyết  
nghiệm thân trong miền ý niệm vật dụng tiếng Việt. Rõ ràng, quá trình ý niệm hóa đều dựa  
trên cơ sở trải nghiệm của con người mà trước tiên là sự trải nghiệm từ thân thể (nghiệm  
thân sinh lí) sau đó mới là sự trải nghiệm, tương tác của chính cơ thể với môi trường sống,  
bao gồm cả tự nhiên và xã hội (nghiệm thân tự nhiên, nghiệm thân xã hội). Dựa vào kinh  
nghiệm nghiệm thân, chúng ta hoàn toàn có thể lí giải những hiện tượng độc đáo trong tư  
duy, ngôn ngữ và văn hóa của cộng đồng diễn ngôn, bởi nghiệm thân tuy mang tính phổ  
quát nhưng đi vào từng ngôn ngữ lại mang những nét đặc thù không thể phủ nhận.  
Tuyên bvquyn li: Tá c gixá c nhn hoàn toàn khô ng có xung đột vquyn li.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Barcelona, A. (Ed.). (2012). Metaphor and metonymy at the crossroads: A cognitive perspective.  
Walter de Gruyter.  
Geeraerts, D., & Cuyckens, H. (Eds.). (2007). The Oxford handbook of cognitive linguistics. Oxford  
University Press.  
Hoang Phe (2016). Tu dien tieng Viet [Vietnamese Dictionary]. Hanoi: Hong Duc Publishing  
House.  
Johnson, M. (2008). Philosophy’s debt to metaphor. The Cambridge handbook of metaphor and  
thought, 39-52.  
Lakoff, G. (1987). Women, fire, and dangerous things: What categories reveal about the mind.  
University of Chicago press.  
612  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Đình Việt  
Lakoff, G., & Johnson, M. (1999). Philosophy in the flesh: The embodied mind and its challenge to  
western thought (Vol. 640). New York: Basic books.  
Lakoff, G., & Johnson, M. (2003). Metaphors We Live By. London: The University of Chicago Press.  
Ly, T. T. (2009). Ngon ngu hoc tri nhan nhin tu li thuyet dai cuong den thuc tien tieng Viet [Cognitive  
linguistics looks from general theory to Vietnamese practice]. Ho Chi Minh City: Phuong Dong  
Publishing House.  
Nguyen, D. V. (2020). An du cau truc “con nguoi là vat dung nha bep” trong thanh ngu va ca dao  
tieng Viet [Structural metaphors “human beings are kitchen utensils” in Vietnamese folk songs  
and idioms]. Ho Chi Minh City University of Education Journal of Science, 17(4), 575-583.  
Tran, V. C. (2007). Ngon ngu hoc tri nhan (ghi chep va suy nghi) [Cognitive linguistics (Take notes  
and think)]. Hanoi: Social Sciences Publishing House.  
Tran, N. T. (2011). Co so van hoa Viet Nam [Vietnamese cultural establishment]. Hanoi: Education  
Publishing House.  
Trinh, S. (2015). Ve y niem ngon/ do trong tieng Viet [About the concept of good (food)/ bad (food)  
in Vietnamese. Journal of Study Dictionary & Encyclopedia, 6(38), 26-30.  
Trinh, S. (2019). Li thuyet nghiem than nhin tu thuc tien tieng Viet [Embodiment theory from  
Vietnamese reality]. Language magazine, 356(1), 24-38.  
SOME EXPRESSIONS OF THE EMBODIMENT THEORY  
IN VIETNAMESE CONCEPTUAL METAPHORS OF UTENSILS  
Nguyen Dinh Viet  
University of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University Ho Chi Minh City, Vietnam  
Corresponding author: Nguyen Dinh Viet – Email: viet.guitarlead@gmail.com  
Received: December 27, 2020; Revised: March 03, 2021; Accepted: March 20, 2021  
ABSTRACT  
This article applies some basic and easy-to-visualize expressions of the embodiment theory  
into Vietnamese practice, namely through the structure of “word for human body parts + words  
indicating utensils,” metonymy, familiar conceptual metaphors in utensils to show the unique and  
interesting ways the Vietnamese people think. Imaginations of utensils by the Vietnamese people are  
closely related to experience embodiment; the first and easiest way to imagine will be related to the  
body, then to the experience with nature and culture - society. The article also emphasizes that  
embodiment is a universal phenomenon. However, with each language, there will be specific  
characteristics reflecting the perceptions of each discourse community.  
Keywords: concept domain; cognitive; embodiment; utensils  
613  
pdf 10 trang baolam 13/05/2022 4580
Bạn đang xem tài liệu "Một số biểu hiện của lí thuyết nghiệm thân trong miền ý niệm vật dụng tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmot_so_bieu_hien_cua_li_thuyet_nghiem_than_trong_mien_y_niem.pdf