Thực trạng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam

TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM  
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI VIỆT NAM  
Ngô Thùy Dung1  
TÓM TẮT  
Việt Nam hiện nay với một nền kinh tế đa thành phần cùng tồn tại và phát triển,  
không còn dừng lại ở khía cạnh xem xét để xóa bỏ hay ưu tiên bất cứ thành phần  
kinh tế nào mà cần nhận thấy mỗi thành phần kinh tế có bản chất riêng, có quy luật  
kinh tế riêng, dựa trên mỗi một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Vì vậy  
điều quan trọng là phải nắm giữ bản chất của từng thành phần kinh tế và sử dụng  
chúng một cách có hiệu quả nhất để đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển  
kinh tế, chủ động mở cửa hội nhập sâu hơn nữa vào kinh tế quốc tế giúp cho nền  
kinh tế nước nhà ngày càng vững mạnh. Bài viết này tác giả chủ yếu phân tích thực  
trạng của kinh tế tư nhân, một số bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới và  
đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới.  
Từ khóa: Kinh tế tư nhân, kinh nghiệm, thực trạng, giải pháp  
1. Đặt vấn đề  
tế tư nhân đang góp phần tích cực giải  
quyết các vấn đề kinh tế - xã hội cơ bản  
của đất nước. Từ chỗ xa lánh, coi nhẹ,  
xã hội đã ngày càng tôn vinh những  
doanh nhân trên thương trường.  
Trong hơn ba thập kỷ qua, khu vực  
kinh tế tư nhân Việt Nam đã có bước  
phát triển cả về lượng và chất. Từ chỗ  
chủ yếu chỉ có các hộ kinh doanh cá  
thể, nhỏ lẻ Việt Nam đã có những  
doanh nghiệp tư nhân theo đúng nghĩa;  
một số ít doanh nghiệp đã trở thành các  
tập đoàn kinh tế lớn. Từ chỗ chủ yếu  
hoạt động trong khu vực phi chính thức,  
một bộ phận kinh tế tư nhân đã chuyển  
sang hoạt động trong khu vực chính  
thức của nền kinh tế, theo các quy định  
của pháp luật. Đến nay, phạm vi kinh  
doanh của khu vực kinh tế tư nhân đã  
rộng khắp, ở mọi ngành mà pháp luật  
không cấm, trong đó có những ngành  
công nghệ cao, năng suất cao cho dù  
vẫn còn rất ít. Đặc biệt, trong những  
năm qua, một làn sóng khởi nghiệp đã  
diễn ra, đem lại một sức sống mới, năng  
động hơn cho nền kinh tế. Khu vực kinh  
Tuy nhiên sự phát triển của khu vực  
kinh tế tư nhân ở Việt Nam vẫn đang  
phải đối mặt với nhiều rào cản, khiến  
cho khu vực này chưa phát huy được  
hết tiềm năng của mình để thực sự đóng  
vai trò là “động lực quan trọng của nền  
kinh tế” cũng như phải đối mặt với  
nhiều thách thức lớn trong bối cảnh  
phát triển mới cả trong nước và quốc tế.  
Thông qua phân tích những tình hình  
thực tế và kết hợp kinh nghiệm của các  
quốc gia trên thế giới bài viết sẽ đưa ra  
những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát  
triển của khu vực này.  
2. Những đặc điểm phát triển của  
khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam  
1Trường Đại học Thương mại  
Email: dungthuy.dhtm@gmail.com  
60  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
2.1. Số lượng doanh nghiệp lớn và  
đa dạng về loại hình, tốc độ tăng trưởng  
nhanh nhưng thiếu bền vững với tỷ lệ  
phá sản và ngưng hoạt động cao  
2002 lên tới 4,67 triệu hộ vào năm 2014  
và 4,75 triệu hộ năm 2015 [2].  
Theo kết quả tổng hợp nhanh từ  
Báo cáo sơ bộ kết quả tổng điều tra  
nông thôn, nông nghiệp và thủy sản  
năm 2016 [2] đến thời điểm 1/7/2016,  
cả nước có 9,32 triệu hộ nông, lâm và  
thủy sản và trong đó khu vực nông thôn  
là 8,61 triệu hộ, chiếm 92,4%. Cũng tại  
thời điểm 1/7/2016, cả nước có 33.488  
trang trại.  
Về loại hình, khu vực kinh tế tư  
nhân ở Việt Nam khá đa dạng về loại  
hình doanh nghiệp từ doanh nghiệp  
ngoài quốc doanh (doanh nghiệp tư  
nhân, công ty hợp danh, công ty trách  
nhiệm hữu hạn tư nhân, công ty cổ phần  
tư nhân và công ty cổ phần có vốn nhà  
nước với 50% vốn điều lệ trở xuống),  
tới các hộ kinh doanh cá thể (hộ kinh  
doanh cá thể phi nông nghiệp và hộ  
nông lâm thủy sản).  
Tuy có sự gia tăng mạnh mẽ về số  
lượng doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng lớn  
nhưng tỷ lệ phá sản và ngưng hoạt động  
cũng rất cao và điều đó cho thấy sự tăng  
trưởng thiếu bền vững của các doanh  
nghiệp này. Trong số hơn 10.400 doanh  
nghiệp chính thức phá sản năm 2016, có  
khoảng 9.700 doanh nghiệp có quy mô  
vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm hơn 93,3%  
và tăng 23,3% so với cùng kỳ năm  
trước. Đây tiếp tục là dấu hiệu đáng lo  
đối với khu vực kinh tế tư nhân, trong  
đó khó khăn lớn nhất là khu vực sản  
xuất hộ gia đình, cá nhân nhỏ lẻ [3]  
Thêm vào đó, có một thực tế là các hộ  
kinh doanh cá thể thiếu động lực để  
phát triển trở thành những doanh nghiệp  
lớn. Khu vực phi chính thức thiếu động  
lực chuyển sang hoạt động một cách  
chính thức.  
Về số lượng, số lượng doanh nghiệp  
ngoài quốc doanh đã tăng trưởng ngoạn  
mục trong thời gian qua, từ con số  
55.200 doanh nghiệp (bao gồm cả các  
hợp tác xã), tăng lên 239.000 (gấp 4 lần)  
vào năm 2009 và lên 401.026 doanh  
nghiệp đang hoạt động vào cuối năm  
2014. Số liệu điều tra tính tới tháng  
12/2014 cho thấy trong số các doanh  
nghiệp đang hoạt động, doanh nghiệp  
nhà nước chỉ chiếm 0,8% tổng số doanh  
nghiệp, số doanh nghiệp có vốn đầu tư  
trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm 2,7%  
và còn lại là các doanh nghiệp ngoài nhà  
nước chiếm 96,5% trên tổng số doanh  
nghiệp [1].  
Số liệu thống kê từ Tổng điều tra  
các cơ sở kinh doanh cá thể phi nông  
nghiệp năm 2015 cho thấy số lượng hộ  
kinh doanh cá thể phi nông nghiệp tăng  
liên tục từ khoảng 2,26 triệu hộ năm  
2.2. Quy mô doanh nghiệp còn rất  
nhỏ (xét theo các tiêu chí vốn và lao  
động) trong tương quan so sánh với  
doanh nghiệp Nhà nước và doanh  
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)  
61  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc  
doanh, số liệu được công bố bởi Bộ Kế  
hoạch và Đầu tư năm 2014 cho thấy có  
tới 97,6% doanh nghiệp đang hoạt động  
tại Việt Nam là các doanh nghiệp nhỏ  
và vừa. Số liệu cũng cho thấy tuyệt đại  
đa số các doanh nghiệp ngoài nhà nước  
có quy mô nhỏ và siêu nhỏ [4]. Kết quả  
Điều tra Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp  
tỉnh (PCI) năm 2015 ở Việt Nam cũng  
cho thấy con số tương tự: Trong số  
8.335 doanh nghiệp dân doanh được lấy  
mẫu tại 63 tỉnh, thành phố ở Việt Nam  
thì có tới 97,3% doanh nghiệp là các  
doanh nghiệp nhỏ và vừa [5].  
con số này ở khu vực doanh nghiệp nhà  
nước là 5% và 66%, ở khu vực FDI là  
2,0% và 41%.  
Đối với các hộ kinh doanh cá thể phi  
nông nghiệp, quy mô lao động của các  
hộ kinh doanh này cũng rất thấp. Tính  
bình quân chung năm 2015 có gần 1,68  
lao động làm việc trong 1 cơ sở. Số vốn  
kinh doanh bình quân là 150,6 triệu  
đồng/cơ sở trong đó giá trị tài sản cố  
định là 90,4 triệu đồng/cơ sở và điều đó  
thể hiện sự hạn chế trong đầu tư cho sản  
xuất kinh doanh của các cơ sở cá thể.  
2.3. Lĩnh vực kinh doanh đa dạng,  
chủ yếu tập trung vào khu vực dịch vụ,  
có xu hướng tháo lui khỏi lĩnh vực công  
nghiệp và mất thị phần trong lĩnh vực  
phân phối, bán lẻ vào tay các doanh  
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài  
So sánh với các loại hình doanh  
nghiệp khác, các doanh nghiệp ngoài  
nhà nước có quy mô nhỏ hơn rất nhiều  
về vốn và lao động. Năm 2010, số lao  
động bình quân của một doanh nghiệp  
Nhà nước là 516 lao động, doanh  
nghiệp FDI là 297 lao động và doanh  
nghiệp ngoài nhà nước chỉ là 22 lao  
động. Số liệu tính tới tháng 12/2014 cho  
thấy bình quân doanh nghiệp ngoài nhà  
nước chỉ sử dụng 18 lao động, doanh  
nghiệp FDI là 312 lao động và doanh  
nghiệp nhà nước là 504 lao động [1].  
Đặc biệt, các doanh nghiệp ngoài nhà  
nước có quy mô siêu nhỏ (dưới 10  
người) chiếm tới gần 70%. Xét về quy  
mô vốn, các doanh nghiệp ngoài nhà  
nước cũng có quy mô rất nhỏ. Năm  
2014, có tới một nửa số doanh nghiệp  
ngoài nhà nước có quy vốn bình quân  
dưới 5 tỷ đồng và chỉ 6% có số vốn  
bình quân trên 50 tỷ đồng. Trong khi đó  
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc  
doanh, số liệu từ niên giám thống kê  
các năm từ 2002 - 2015 cho thấy lĩnh  
vực chiếm tỷ trọng lớn nhất là thương  
mại, bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe  
máy và xe cơ giới khác. Trong giai  
đoạn từ 2002 - 2014, lĩnh vực này  
chiếm tới 39-41% tổng số doanh nghiệp  
ngoài nhà nước. Tiếp theo là lĩnh vực  
chế tạo và chế biến với tỷ trọng là  
23,5% vào năm 2002, giảm xuống còn  
16% vào năm 2014. Lĩnh vực chiếm tỷ  
trọng lớn thứ ba là xây dựng (13,7%),  
lĩnh vực giao thông và vận tải chiếm tỷ  
trọng khoảng 5% trong thời gian 2002 -  
2014. Mặc dù tổng số lượng doanh  
nghiệp tăng nhanh nhưng số lượng  
doanh nghiệp trong lĩnh vực nông  
62  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
nghiệp gần như không đổi. Do đó, tỷ  
trọng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh  
vực nông nghiệp đã giảm mạnh từ 5,4%  
năm 2002 xuống còn khoảng 1% vào  
năm 2014.  
suất của khu vực nhà nước theo giá so  
sánh 2010 mới bằng 52,4% năng suất  
lao động khu vực có vốn đầu tư nước  
ngoài, thì đến năm 2015 tỷ lệ này tăng  
lên bằng 73%; tương tự, năng suất lao  
động khu vực ngoài nhà nước từ 9,8%  
lên 12,8%.  
Đối với các hộ kinh doanh cá thể  
phi nông nghiệp, các hộ này chủ yếu  
hoạt động trong khu vực thương mại và  
dịch vụ (81%) và phần còn lại (19%)  
hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp  
và xây dựng.  
Có một điểm đáng lưu ý là mặc dù  
có mức năng suất lao động thấp nhất  
nhưng khu vực kinh tế tư nhân lại có  
tốc độ tăng trưởng năng suất lao động  
ổn định theo xu hướng tăng dần trong  
vòng 10 năm qua. Ngược lại, khu vực  
kinh tế FDI có tốc độ tăng trưởng năng  
suất lao động đạt mức thấp và tương đối  
thất thường. Bên cạnh đó, tăng trưởng  
năng suất lao động của khu vực kinh tế  
nhà nước lại có xu hướng giảm mạnh từ  
7% năm 2006 xuống 2,1% năm 2014 và  
tăng lên 10,5 năm 2015. Năng suất lao  
động của khu vực kinh tế nhà nước tăng  
lên trong năm 2015 là do quá trình sắp  
xếp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước  
được đẩy mạnh và thực hiện tinh giảm  
biên chế trong các cơ quan hành chính  
sự nghiệp [6].  
2.4. Hiệu quả hoạt động chưa cao,  
năng suất lao động thấp nhưng có  
tiềm năng đạt được hiệu quả cao hơn  
nếu đạt được quy mô hợp lý và có  
được môi trường hoạt động và kinh  
doanh phù hợp, thuận lợi  
Tính toán từ số liệu của Tổng cục  
Thống kê [6] cho thấy năng suất lao  
động của khu vực kinh tế tư nhân (bao  
gồm cả doanh nghiệp và hộ cá thể) đạt  
mức thấp nhất so với các khu vực kinh  
tế khác. Cụ thể, trong các khu vực kinh  
tế, năng suất lao động của các doanh  
nghiệp FDI luôn dẫn đầu, năm 2015 đạt  
242,5 triệu đồng (theo giá hiện hành),  
gấp 1,36 lần khu vực kinh tế nhà nước  
(176,9 triệu đồng) và 7,8 lần khu vực  
kinh tế tư nhân (31,3 triệu đồng). Tuy  
nhiên xu hướng tăng năng suất lao động  
của các khu vực kinh tế trong thời kỳ  
2005 - 2015 cho thấy, khoảng cách về  
năng suất lao động giữa khu vực nhà  
nước và kinh tế tư nhân với khu vực có  
vốn đầu tư nước ngoài đang dần thu hẹp  
lại nhưng chậm hơn đối với khu vực  
kinh tế tư nhân. Cụ thể, năm 2005, năng  
Kết quả tính toán của nhóm nghiên  
cứu cũng cho thấy năng suất lao động  
của các doanh nghiệp ngoài nhà nước  
thấp nhất trong khu vực doanh nghiệp  
năm 2014, chỉ đạt 168 triệu đồng, so với  
317 triệu đồng của các doanh nghiệp  
FDI và 732 triệu đồng của doanh nghiệp  
ngoài nhà nước. Tuy nhiên trong thời  
gian từ 2001 - 2015, năng suất lao động  
của các doanh nghiệp ngoài nhà nước đã  
gia tăng đáng kể (5,6 lần), tăng cao hơn  
63  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
so với các doanh nghiệp FDI (3,1 lần)  
nhưng thấp hơn so với các doanh nghiệp  
nhà nước (10,4 lần). Do vậy khoảng  
cách về năng suất lao động giữa doanh  
nghiệp ngoài nhà nước được thu hẹp lại  
với các doanh nghiệp FDI nhưng gia  
tăng so với các doanh nghiệp nhà nước  
trong thời gian nói trên.  
kỹ thuật công nghệ. Điều đó cũng dễ lý  
giải bởi vốn bình quân 1 doanh nghiệp  
ngoài nhà nước năm 2014 chỉ là 26 tỷ  
đồng, quá thấp, không đủ khả năng đầu  
tư đổi mới kỹ thuật công nghệ [5].  
2.6. Có đóng góp lớn cho nền kinh  
tế về tạo việc làm, về ngân sách Nhà  
nước, về tăng trưởng kinh tế và góp  
phần xóa đói, giảm nghèo nhưng chưa  
thực sự tương xứng với tiềm năng  
Số liệu tính toán mới nhất từ tổng  
điều tra doanh nghiệp 2014 cho thấy tỷ  
suất lợi nhuận trên doanh thu của các  
doanh nghiệp tư nhân là 1,7% năm  
2014, thấp hơn nhiều so với các doanh  
nghiệp nhà nước (6%); tỷ suất lợi nhuận  
trên vốn của các doanh nghiệp tư nhân  
là 1,2% năm 2014, cũng thấp hơn so với  
doanh nghiệp nhà nước (2,8%).  
Về đóng góp về việc làm và xóa  
đói, giảm nghèo, số liệu thống kê cho  
thấy tuyệt đại đa số lao động của Việt  
Nam trong 15 năm qua làm việc ở khu  
vực kinh tế tư nhân (bao gồm các hộ  
gia đình và doanh nghiệp ngoài nhà  
nước). Khu vực kinh tế có vốn đầu tư  
nước ngoài chỉ đóng góp 4% việc làm  
và khu vực kinh tế nhà nước là 10%  
trong năm 2015.  
2.5. Thiếu sự liên kết giữa các  
doanh nghiệp trong nước với nhau,  
giữa các doanh nghiệp trong nước với  
các doanh nghiệp FDI; khả năng hội  
nhập quốc tế thấp (tham gia vào chuỗi  
giá trị ở công đoạn thấp hoặc không  
tham gia) và ít gắn kết với đổi mới,  
sáng tạo (trình độ công nghệ thấp,  
thiếu đầu tư cho nghiên cứu, đổi mới  
và sáng tạo)  
Sự phát triển nhanh chóng của  
doanh nghiệp ngoài nhà nước trong  
những ngành như xây dựng, dịch vụ  
(bán buôn bán lẻ, sửa chữa xe, vận tải  
hàng hóa và hành khách, du lịch lữ  
hành, kinh doanh bất động sản), ngành  
công nghiệp chế biến thâm dụng lao  
động đã đáp ứng yêu cầu cấp bách về  
giải quyết việc làm cho một bộ phận  
đông đảo lao động trẻ nông thôn không  
có việc làm, vì những ngành này có tỷ  
suất đầu tư thấp, nhưng lại thu hút nhiều  
lao động phổ thông không đòi hỏi tay  
nghề cao [1]. Các doanh nghiệp ngoài  
nhà nước phát triển khá nhanh ở tất cả  
các vùng và các địa phương cũng đã  
đem lại tác động lan tỏa tích cực về mặt  
Kết quả điều tra đổi mới kỹ thuật  
công nghệ của 8.000 doanh nghiệp  
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo từ  
năm 2009 - 2013 cho thấy chỉ có 8% số  
doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu  
đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ,  
trong đó chủ yếu từ các doanh nghiệp  
lớn và vừa, doanh nghiệp ngoài nhà  
nước chủ yếu là quy mô nhỏ, gần như  
không có điều kiện nghiên cứu đổi mới  
64  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
kinh tế cũng như xã hội.  
kê cho thấy khu vực kinh tế tư nhân,  
bao gồm cả các doanh nghiệp và hộ  
kinh doanh cá thể, đóng góp khoảng  
40% GDP trong thời gian 15 năm qua.  
Tuy nhiên phần lớn khoản đóng góp  
này đến từ khu vực kinh tế cá thể (30%)  
và chỉ khoảng 8%-10% GDP được đóng  
góp bởi các doanh nghiệp nhà nước.  
Điều đó cho thấy khu vực doanh nghiệp  
ngoài nhà nước còn rất nhỏ bé. Khu vực  
kinh tế Nhà nước đóng góp vào GDP đã  
giảm dần 10 điểm phần trăm trong thời  
gian kể trên, trong khi đó khu vực kinh  
tế FDI có đóng góp vào GDP khoảng  
18% năm 2015, tăng gần 3 điểm phần  
trăm trong thời gian từ 2005 - 2015.  
Với số lượng trên 4,7 triệu, hộ sản  
xuất kinh doanh phi nông nghiệp đang  
hoạt động ở khắp các địa bàn xã,  
phường trên phạm vi toàn quốc, không  
những đã huy động được nguồn nội lực  
khá lớn cho phát triển kinh tế của đất  
nước mà còn làm giúp giảm bớt sự  
chênh lệch về trình độ kinh tế và xã hội  
giữa các vùng, miền, các địa bàn trong  
cả nước, nhất là những nơi mà các  
doanh nghiệp không muốn hoặc không  
thể đầu tư, như miền núi, hải đảo, vùng  
sâu, vùng xa [6].  
Với trên 7,9 triệu lao động làm  
việc, hộ sản xuất kinh doanh phi nông  
nghiệp không chỉ tạo việc làm, tăng  
thu nhập và xóa đói giảm nghèo trực  
tiếp cho chính những người sở hữu,  
quản lý và làm việc ở khu vực này mà  
còn gián tiếp cải thiện cuộc sống cho  
những người có thu nhập thấp, người  
nghèo ở cả khu vực thành thị và khu  
vực nông thôn. Bên cạnh đó, số liệu  
cũng cho thấy đóng góp tích cực của  
các trang trại đối với việc làm và xóa  
đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn  
trong thời gian qua. Theo Tổng cục  
Thống kê (2016), tính tới 1/7/2016,  
các trang trại đã sử dụng 134,7 nghìn  
lao động làm việc thường xuyên.  
Trong đó lao động của hộ chủ trang  
trại là 75,8 nghìn người, chiếm 56,3%  
tổng số lao động, còn lại là lao động  
thuê mướn thường xuyên.  
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp  
ngoài nhà nước có đóng góp ngày càng  
tăng cho nguồn thu ngân sách nhà  
nước. Tỷ trọng đóng góp của các doanh  
nghiệp ngoài nhà nước vào thu ngân  
sách từ toàn bộ các doanh nghiệp đã  
tăng từ 10% vào năm 2000 lên 33%  
vào năm 2014. Trong khi đó, tỷ trọng  
này của khối doanh nghiệp nhà nước đã  
giảm từ 50,6% xuống còn 39% trong  
cùng thời gian kể trên [1].  
Tuy nhiên nghiên cứu tác động của  
loại hình sở hữu đến hiệu quả kinh  
doanh và việc làm của các doanh  
nghiệp ở Việt Nam dựa vào phân tích  
hồi quy sử dụng bộ dữ liệu bảng về tổng  
điều tra doanh nghiệp từ 2007 - 2014  
cho thấy với quy mô vốn và lao động  
tương đương với doanh nghiệp nhà  
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư  
nước ngoài thì các doanh nghiệp ngoài  
Về đóng góp cho tăng trưởng kinh  
tế và ngân sách Nhà nước, số liệu thống  
65  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
nhà nước không hề thua kém hơn về  
hiệu quả tài chính, doanh thu và tạo  
việc làm mà thậm chí doanh nghiệp tư  
nhân còn đạt hiệu quả cao hơn cả ở ba  
chỉ số này. Cụ thể, việc phân tích hồi  
quy cho thấy các doanh nghiệp ngoài  
nhà nước có tỷ suất lợi nhuận trên tài  
sản cao hơn các doanh nghiệp Nhà nước  
và doanh nghiệp FDI là 5,4% và 4,5%,  
và hiệu quả tạo việc làm cao hơn doanh  
nghiệp Nhà nước là 1,6% và doanh  
nghiệp FDI là 6%. Điều đó cho thấy,  
nếu khu vực doanh nghiệp này lớn  
mạnh về quy mô thì rất có thể các  
doanh nghiệp này sẽ có hiệu quả vượt  
trội và đóng góp nhiều hơn nữa cho nền  
kinh tế Việt Nam.  
kinh nghiệm về phát triển kinh tế tư  
nhân của một số quốc gia là việc làm  
cần thiết.  
3.1. Phát triển kinh tế tư nhân tại  
nước phát triển: kinh nghiệm của  
Hàn Quốc  
Có thể nói ở hầu hết các nước phát  
triển, nhất là những nước theo mô  
hình phát triển kinh tế thị trường tự do  
kiểu Mỹ, hay cả những nước theo đuổi  
mô hình nền kinh tế phúc lợi như  
những nước phương Tây, khu vực  
kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng  
trong quá trình phát triển kinh tế ở  
những nước này.  
Sự tồn tại và phát triển của khu vực  
tư nhân là tất yếu, góp phần quan trọng  
tạo động lực phát triển kinh tế trong  
nước và vươn ra nước ngoài. Kinh tế tư  
nhân là một bộ phận quan trọng cấu  
thành toàn bộ nền kinh tế. Nhiều quốc  
gia phát triển mặc nhiên thừa nhận sự  
tồn tại của hình thức kinh tế này và tích  
cực phát triển nó như một công cụ hiệu  
quả để phát triển kinh tế.  
Tóm lại, mặc dù đã có sự phát triển  
không ngừng nhưng khu vực kinh tế tư  
nhân ở Việt Nam vẫn chưa phát huy  
được hết được tiềm năng của mình để  
thực sự đóng vai trò là động lực quan  
trọng của nền kinh tế. Nguyên nhân  
chính dẫn đến tình trạng đó là do khu  
vực này vẫn đang phải đối mặt với  
nhiều rào cản cả về tư duy lý luận lẫn  
khung khổ pháp luật, điều tiết, cơ chế  
chính sách và thực thi cơ chế chính sách  
trên thực tế cũng như môi trường kinh  
doanh và năng lực nội tại của chính khu  
vực này.  
Có ý kiến cho rằng các nước phát  
triển là nơi khu vực kinh tế tư nhân có  
sức mạnh khổng lồ và ưu thế tuyệt đối.  
Trong số các nước này, một trường hợp  
rất đáng để tham khảo đó là phát triển  
kinh tế tư nhân tại Hàn Quốc. Đây là  
một quốc gia Đông Bắc Á đã tạo nên sự  
thần kỳ ở châu Á, từ một nước bị tàn  
phá và chia cắt sau chiến tranh đã vươn  
lên ngang hàng với các nước phát triển  
trên thế giới nhờ biết nắm bắt mọi thời  
cơ và vận dụng chính sách linh hoạt để  
3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế  
tư nhân của một số nước  
Với vai trò ngày càng quan trọng  
của kinh tế tư nhân, nhằm khắc phục  
những tồn tại, yếu kém của kinh tế tư  
nhân ở Việt Nam thì việc tham khảo  
66  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
huy động tiềm lực trong nước. Các công  
ty tư nhân đã được tạo điều kiện hình  
thành và phát triển thành những tập  
đoàn xuyên quốc gia chính là động lực  
cho sự phục hồi này. Đến nay, khu vực  
kinh tế tư nhân là một lực lượng thiết  
yếu và tạo động lực cơ bản trong nền  
kinh tế Hàn Quốc.  
ngại nhưng sự đi lên này là một xu thế  
tất yếu. Rõ ràng việc khai thác mô hình  
cải cách tương tác hai chiều “từ trên  
xuống” và “từ dưới lên”, kéo theo  
những tranh luận gay gắt giữa các  
chuyên gia kinh tế, đóng vai trò quan  
trọng quyết định trong tiến trình phát  
triển của thành phần kinh tế này.  
Theo kinh nghiệm của Hàn Quốc,  
doanh nghiệp nhà nước sẽ không tham  
gia toàn bộ chuỗi giá trị mà vẫn tạo ra  
một dư chấn để cho doanh nghiệp tư  
nhân tham gia. Các doanh nghiệp tư  
nhân hoàn toàn có thể lớn mạnh, thậm  
chí lấn át khu vực kinh tế nhà nước là  
chuyện rất bình thường bởi mục tiêu  
không phải là vai trò của nhà nước luôn  
luôn sở hữu và đứng đầu ngành. Nhiều  
tập đoàn kinh tế tư nhân Hàn Quốc đã  
phát triển thành các tập đoàn xuyên quốc  
gia, có vai trò ảnh hưởng dẫn đầu thị  
trường thế giới trong lĩnh vực của họ xét  
về chất lượng và số lượng tăng trưởng  
trong những năm gần đây. Hiện nay, khu  
vực tư nhân giữ vai trò nòng cốt trong  
phát triển công nghệ và đóng góp vào  
doanh thu xuất khẩu của cả nước.  
Thực tế hiện nay khu vực kinh tế tư  
nhân Trung Quốc còn đối mặt với nhiều  
hạn chế về nguồn lực tài chính, con  
người và thể chế hỗ trợ phát triển.  
Trong đó đáng chú ý là những hạn chế  
về khả năng tiếp cận thị trường và cạnh  
tranh lành mạnh để thành phần kinh tế  
tư nhân được đứng trên một sân chơi  
bình đẳng với những thành phần kinh tế  
khác. Trước tình hình này, Hội đồng  
nhà nước Trung Quốc đã đưa ra một số  
ý kiến nhằm khuyến khích, hỗ trợ và  
thúc đẩy sự phát triển của các thành  
phần kinh tế cá thể, tư nhân và ngoài  
nhà nước. Những khuyến nghị này tập  
trung vào bảy lĩnh vực chính: nới lỏng  
những hạn chế tiếp cận thị trường đối  
với khu vực ngoài nhà nước; cải thiện  
các dịch vụ xã hội, bảo vệ quyền và lợi  
ích hợp pháp của doanh nghiệp và  
người lao động thuộc khu vực tư nhân;  
tích cực đưa ra những hướng dẫn và các  
chính sách khuyến khích khu vực này.  
4. Một vài ý kiến và giải pháp  
phát triển kinh tế tư nhân trong thời  
gian tới  
3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh  
tế tư nhân của Trung Quốc  
Nhờ chính sách cải cách và mở cửa,  
khu vực tư nhân Trung Quốc đã phát  
triển rất mạnh trong 40 năm qua, từ chỗ  
bị hạn chế hay thậm chí cấm phát triển  
trở thành một yếu tố cấu thành quan  
trọng của nền kinh tế thị trường. Dù tiến  
trình phát triển nhanh chóng của khu  
vực tư nhân đã vấp phải rất nhiều trở  
Để cụ thể hóa và thực hiện mục tiêu  
phát triển kinh tế tư nhân trở thành một  
động lực quan trọng của nền kinh tế thị  
67  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
trường định hướng xã hội chủ nghĩa  
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII  
của Đảng và Nghị quyết số 10-NQ/TW  
ngày 3/6/2017, chúng ta cần:  
triển mạnh lực lượng doanh nghiệp  
trong nông nghiệp và ở nông thôn.  
Doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong  
lĩnh vực nông nghiệp còn rất ít. Trong  
khi đó, nhiều chính sách “cởi trói” giúp  
nông nghiệp, nông thôn phát triển trong  
thời kỳ sau đổi mới đã tới giới hạn. Mô  
hình kinh tế hộ truyền thống tồn tại lâu  
nay ở nông thôn không còn phù hợp với  
điều kiện mới; yêu cầu tích tụ, tập trung  
ruộng đất đang được đặt ra cho việc  
triển khai những mô hình hiện đại như  
kinh tế trang trại quy mô lớn.  
4.1. Tiếp tục đổi mới tư duy, nâng  
cao nhận thức về phát triển kinh tế tư  
nhân, để kinh tế tư nhân “là một động  
lực quan trọng” góp phần phát triển  
kinh tế thị trường định hướng xã hội  
chủ nghĩa ở nước ta  
Nhà nước với các nguồn lực, công  
cụ, chính sách sẽ đóng vai trò chủ đạo  
trong việc định hướng và điều tiết nền  
kinh tế, bảo đảm các cân đối lớn cho  
nền kinh tế, kiểm soát các nguồn tài  
nguyên chiến lược, phát triển kết cấu hạ  
tầng và dịch vụ công có vốn đầu tư lớn,  
luân chuyển chậm, lợi nhuận không  
cao, rất cần thiết cho nền kinh tế - xã  
hội mà khu vực tư nhân không sẵn sàng  
đảm nhận; các lĩnh vực quốc phòng - an  
ninh, một số hoạt động đầu tư mạo  
hiểm... Mở rộng thị trường kinh doanh  
ra quốc tế. Các doanh nghiệp tư nhân  
phần lớn vẫn hoạt động ở thị trường  
trong nước, chỉ rất ít doanh nghiệp lớn  
vươn được ra thị trường nước ngoài ở  
một mức độ khiêm tốn.  
Đặc biệt, cần chú trọng vai trò của  
công nghệ, nhất là công nghệ thông tin,  
công nghệ xanh và công nghệ sạch trong  
việc nâng cao chất lượng và giá trị của  
các sản phẩm nông nghiệp. Phát triển  
nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo và  
khởi nghiệp. Cần đổi mới căn bản hệ  
thống giáo dục và đào tạo, trong đó gắn  
giáo dục - đào tạo với hoạt động thực  
tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc đẩy  
văn hóa khởi nghiệp. Cần tạo dựng văn  
hóa sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp  
cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi trên  
ghế nhà trường, hình thành ý chí tự thân  
lập nghiệp để sẵn sàng cho tương lai.  
Cần giảm thiểu sự “lấn sân” của các  
doanh nghiệp nhà nước đối với khu vực  
tư nhân đồng thời có chính sách tăng  
cường phát triển khối doanh nghiệp tư  
nhân theo cả chiều dọc và chiều ngang  
để vừa giải quyết những cản trở chung  
đối với nền kinh tế vừa tạo nên những  
đột phá trong phát triển năng lực cạnh  
tranh của doanh nghiệp.  
Ngay cả ở thị trường trong nước,  
dưới sức ép cạnh tranh gay gắt các  
doanh nghiệp tư nhân lớn cũng bắt đầu  
có xu hướng rút khỏi các ngành sản  
xuất công nghiệp, nhường lại sân chơi  
cho các doanh nghiệp nước ngoài. Vì  
vậy cần có thêm nhiều chính sách hỗ  
trợ, khuyến khích và giúp đỡ cho các  
doanh nghiệp có thể vươn xa hơn. Phát  
68  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
4.2. Xóa sự phân biệt đối xử giữa  
doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân  
với loại hình doanh nghiệp khác  
phát huy thế mạnh và tiềm năng của  
kinh tế tư nhân. Hỗ trợ kinh tế tư nhân  
đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công  
nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng  
cao năng suất lao động. Thực hiện giải  
pháp này chính là phải khuyến khích,  
tạo mọi cơ hội cho doanh nghiệp tư  
nhân tiếp cận và ứng dụng công nghệ  
tiên tiến trong sản xuất, kinh doanh.  
Tạo lập môi trường đầu tư, kinh  
doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư  
nhân ở tất cả các ngành và lĩnh vực mà  
pháp luật không cấm. Sự nghiệp kinh tế  
là của toàn dân thì kinh tế tư nhân phải  
là động lực chủ yếu, đảm bảo phát triển  
bền vững, tự chủ của Việt Nam. Còn  
vai trò của Nhà nước là tạo ra môi  
trường, sân chơi, luật chơi, làm trọng  
tài. Vì vậy cần phát huy và nâng cao  
hiệu quả hoạt động của các doanh  
nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp  
đổi mới sáng tạo và phong trào khởi  
nghiệp. Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi  
để các hộ và cá nhân tự nguyện liên kết  
hình thành doanh nghiệp hoặc các hình  
thức tổ chức hợp tác khác. Về phía Nhà  
nước và đội ngũ cán bộ, công chức, cần  
có sự đột phá trong tư duy và hành  
động, kiên trì đổi mới, hoàn thiện và tổ  
chức thực hiện thật tốt luật pháp, cơ  
chế, chính sách phù hợp với quy luật thị  
trường và thông lệ, chuẩn mực quốc tế;  
xóa bỏ mọi định kiến, rào cản; cải cách  
mạnh các thủ tục hành chính rườm rà,  
tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư  
nhân phát triển.  
Đề cập đến Nghị quyết 35 của  
Chính phủ, chúng ta có thể thấy rõ,  
Nghị quyết nêu rõ doanh nghiệp có  
quyền tự do kinh doanh những ngành  
mà pháp luật không cấm và được bảo  
đảm bình đẳng trong đầu tư, tiếp cận  
các nguồn lực vốn, tài nguyên, đất đai.  
Chính phủ Việt Nam khẳng định không  
hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự.  
Vì vậy theo tôi, để bảo đảm quyền kinh  
doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn  
lực của doanh nghiệp trong thời gian  
tới, Chính phủ Việt Nam nên tiếp tục  
thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó  
khăn về thuế cho doanh nghiệp nhỏ và  
vừa, sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ các quy  
định về cấp phép kinh doanh, xuất nhập  
khẩu, quản lý thị trường. Quản lý thực  
hiện kế hoạch phát triển. Trong đó,  
nhấn mạnh vào những giải pháp về  
thành lập Quỹ hỗ trợ, tổ chức thực hiện  
các Chương trình đổi mới công nghệ  
quốc gia.  
Tạo mọi khả năng để các doanh  
nghiệp tư nhân dễ dàng tiếp cận với các  
nguồn lực phát triển như: Tài chính, đất  
đai, công nghệ, nhân lực. Thống nhất  
nhận thức, tư tưởng, hành động trong  
triển khai các chủ trương, chính sách về  
phát triển kinh tế tư nhân. Giải pháp này  
nhằm tạo ra nhận thức thống nhất trong  
hệ thống chính trị - xã hội về vai trò  
động lực của kinh tế tư nhân, từ đó tạo  
mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân,  
69  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
4.3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả  
quản lý, kiểm soát hoạt động của  
doanh nghiệp tư nhân  
vào từng ngày, nhưng cũng có khi  
chúng ta phải mất cả thế hệ để xây dựng  
văn hóa. Nhưng riêng về văn hóa doanh  
nghiệp, tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có  
được sự vào cuộc kiên quyết của Chính  
phủ và sự hợp tác của các cơ quan ban  
ngành thì sẽ không mất nhiều thời gian.  
4.4. Khuyến khích hình thành các  
tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và  
tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh  
tế nhà nước  
Đẩy mạnh xây dựng nâng cao văn  
hóa doanh nghiệp và đạo đức doanh  
nhân. Hiện nay, thực trạng văn hóa Việt  
Nam, bên cạnh những cái tích cực thì  
còn nhiều yếu tố tiêu cực. Cần phải  
thường xuyên tuyên truyền, nâng cao ý  
thức tuân thủ, quy tắc đạo đức nghề  
nghiệp và các chuẩn mực hành vi, ứng  
xử trong các doanh nghiệp tư nhân, tạo  
môi trường làm việc chuyên nghiệp,  
hạn chế rủi ro cho đạo đức nghề nghiệp  
có thể phát sinh; cũng như xử lý nghiêm  
các hành vi vi phạm, gian lận (nếu có)  
để răn đe, phòng ngừa chung.  
Cần tạo điều kiện thuận lợi để kinh  
tế tư nhân phát triển ở tất cả các ngành  
và lĩnh vực mà pháp luật không cấm.  
Theo đó, thúc đẩy phát triển mọi hình  
thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung  
cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản  
xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh  
tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế  
tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu  
tư nước ngoài nhằm tiếp nhận, chuyển  
giao, tạo sự lan tỏa rộng rãi về công  
nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại.  
Yếu tố con người là rất quan trọng,  
các doanh nghiệp cần nâng cao nhận  
thức về tuân thủ đối với đội ngũ nhân  
sự. Quan trọng là cần phải phát hiện kịp  
thời nhằm giảm thiểu tổn thất, thắt chặt  
việc quản lý nhân sự, tăng cường giám  
sát việc tuân thủ và ứng xử phù hợp,  
trong đó luôn đặt quyền lợi của khách  
hàng lên hàng đầu.  
Tập trung hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi  
mới, sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ  
và phát triển nguồn nhân lực thông qua  
việc khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư  
nhân đầu tư vào các hoạt động nghiên  
cứu và phát triển, chuyển giao công  
nghệ; kết nối doanh nghiệp, ý tưởng  
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với các  
nhà đầu tư, quỹ đầu tư; thúc đẩy hình  
thành và phát triển các khu công nghệ  
cao, các vườn ươm công nghệ cao và  
các doanh nghiệp khoa học công nghệ.  
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà  
nước. Trong đó đội ngũ cán bộ, công  
Hoàn thiện các quy định để quản lý,  
kiểm soát hoạt động của các doanh  
nghiệp. Rà soát việc tổ chức, triển khai  
thực hiện các văn bản pháp luật của  
Trung ương và địa phương nhằm phục  
vụ tốt hơn yêu cầu quản lý, đồng thời  
không gây khó khăn, phiền hà cho  
người dân, doanh nghiệp.  
Người ta nói là văn hóa là cái còn  
lại trong chúng ta sau khi ta quên đi tất  
cả. Như vậy, văn hóa là thứ sẽ ngấm  
70  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
chức, cần có sự đột phá trong tư duy và  
hành động, kiên trì đổi mới, hoàn thiện  
và tổ chức thực hiện thật tốt luật pháp,  
cơ chế, chính sách phù hợp với quy luật  
thị trường và thông lệ, chuẩn mực quốc  
tế; xóa bỏ mọi định kiến, rào cản; cải  
cách mạnh các thủ tục hành chính rườm  
rà, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư  
nhân phát triển...  
vốn, rủi ro, nguồn nhân lực... để hiện  
thực hóa các ý tưởng của mình liên quan  
đến công nghệ và đổi mới sáng tạo.  
Thay vì tạo ra những gói hỗ trợ cho  
từng nhóm đối tượng doanh nghiệp,  
Chính phủ cần tập trung vào việc tạo  
môi trường kinh doanh thuận lợi, đẩy  
mạnh kết nối một cách công bằng để  
các doanh nghiệp được cạnh tranh bình  
đẳng. Hình thành các khu công nghiệp,  
khu chế xuất riêng biệt, tách biệt các  
doanh nghiệp FDI có thể giúp nâng cao  
hiệu quả hoạt động và xuất khẩu.  
4.5. Tăng cường liên kết giữa  
doanh nghiệp tư nhân và các loại hình  
doanh nghiệp khác  
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực  
tiếp nước ngoài (FDI) là yếu tố quan  
trọng đóng góp vào việc tạo thêm việc  
làm, tăng sản lượng công nghiệp và đẩy  
mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Theo  
tôi, để tăng cường kiên kết giữa doanh  
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI,  
các doanh nghiệp Việt Nam phải biết  
nắm bắt thời cơ, xây dựng chí hướng  
lớn với tinh thần dám nghĩ, dám làm và  
khát vọng bay cao, bay xa thì mới có  
thể lớn mạnh, tham gia vào sân chơi  
chung với các tập đoàn trong khu vực  
và trên thế giới.  
Tập trung vào việc thực hiện đồng  
bộ các giải pháp để đảm bảo chính sách  
hỗ trợ kinh tế tư nhân một cách thực  
chất thông qua các chính sách hỗ trợ về  
lãi suất, ưu đãi về thuế, đất đai, giải  
phóng mặt bằng...; tăng cường năng lực  
nghiên cứu và phát triển, đổi mới công  
nghệ và các giải pháp tài chính, tín  
dụng; thực hiện công khai minh bạch  
các quy hoạch, kế hoạch phát triển cơ  
sở hạ tầng, thúc đẩy liên kết tích cực  
giữa các ngành kinh tế, các chủ thể kinh  
tế và các không gian kinh tế.  
Trước mắt Việt Nam cần thúc đẩy  
các hoạt động phát triển công nghệ tầm  
trung phù hợp với trình độ phát triển  
hiện tại, như thiết lập các cụm liên kết  
ngành sản xuất linh kiện đòi hỏi quy mô  
đầu tư vốn vừa phải và độ tinh vi công  
nghệ ở mức trung bình Việt Nam cũng  
cần nắm bắt được làn sóng khởi nghiệp  
của các doanh nghiệp công nghệ và thúc  
đẩy các hệ sinh thái khởi nghiệp nhằm  
giúp các doanh nhân vượt qua rào cản về  
Khắc phục triệt để tình trạng các  
doanh nghiệp lớn chi phối, lấn át các  
doanh nghiệp nhỏ trong việc tiếp cận  
các nguồn lực và cơ hội kinh tế. Hoàn  
thiện pháp luật về chế độ sở hữu, kể cả  
đối với bất động sản, ruộng đất... để góp  
phần ngăn ngừa xung đột trong xã hội,  
góp phần phân bổ nguồn lực hiệu quả,  
khi pháp luật về sở hữu rõ ràng thì tự nó  
sẽ đặt ra một trật tự có giới hạn cho các  
quyền của các chủ thể trong xã hội được  
71  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
đảm bảo. Theo đó các doanh nghiệp sẽ  
biết trân trọng sự hợp tác và gắn kết  
nhiều hơn. Thực hiện triệt để cải cách  
hành chính, tăng cường hiệu quả hoạt  
động của các cơ quan nhà nước, bộ,  
ngành và chính quyền địa phương theo  
hướng tạo điều kiện thuận lợi cho phát  
triển kinh tế tư nhân.  
chính trên, còn phải kể đến sự yếu kém  
về cơ sở hạ tầng (điện, năng lượng, đất  
đai, giao thông…).  
4.7. Đào tạo, đào tạo lại, nâng cao  
chất lượng nguồn nhân lực cho khu  
vực kinh tế tư nhân  
Chất lượng giáo dục luôn là vấn đề  
cốt lõi, là yếu tố sống còn của từng cơ  
sở giáo dục, cũng như cả hệ thống giáo  
dục đại học. Khung trình độ quốc gia  
Việt Nam có 8 bậc, bao gồm 5 bậc giáo  
dục nghề nghiệp và 3 bậc giáo dục đại  
học. Thực hiện khung trình độ quốc gia  
sẽ có tác động mạnh mẽ đến nhiều bên  
liên quan, từ các cơ quan quản lý,  
người sử dụng lao động, các cơ sở đào  
tạo, người học, hướng đến các chuẩn  
mực quốc tế, góp phần làm thay đổi cơ  
bản chất lượng của giáo dục đại học  
hiện nay.  
4.6. Thúc đẩy doanh nghiệp tư  
nhân ứng dụng khoa học công nghệ  
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất,  
kinh doanh  
Theo phân loại trình độ công nghệ  
theo tiêu chuẩn của Tổ chức Phát triển  
công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO)  
cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam  
vẫn chủ yếu thuộc nhóm công nghệ  
thấp. Trong tổng số doanh nghiệp thực  
hiện các hoạt động cải tiến công nghệ,  
máy móc, thiết bị trong năm 2013, 2/3  
số doanh nghiệp đã gặp phải các trở  
ngại. Cũng giống như việc đổi mới  
công nghệ, trở ngại lớn nhất cho việc  
cải tiến công nghệ của doanh nghiệp là  
hạn chế về tài chính (7,33/10 điểm).  
Rõ ràng, vấn đề tài chính là rào cản  
lớn nhất đối với doanh nghiệp không  
chỉ trong các hoạt động đổi mới, cải tiến  
công nghệ mà cả các hoạt động kinh  
doanh, nhất là đối với các doanh nghiệp  
nhỏ và vừa. Rào cản thứ hai đối với các  
doanh nghiệp khi thực hiện cải tiến  
công nghệ là sự thiếu vắng lực lượng  
lao động có trình độ và tay nghề. Lao  
động ở Việt Nam tuy đông về số lượng,  
nhưng yếu về tay nghề, nhất là đối với  
các lao động kỹ thuật. Ngoài hai rào cản  
Xây dựng tiêu chuẩn đào tạo nguồn  
nhân lực chất lượng cao, có năng lực  
hành nghề chuyên môn, kỹ năng mềm,  
đặc biệt kỹ năng giao tiếp và làm việc  
nhóm, kỷ luật đạo đức làm việc, trách  
nhiệm nghề nghiệp và trách nhiệm lao  
động. Tập trung vào việc xây dựng thể  
chế, cơ chế, chính sách phát triển giáo  
dục nghề nghiệp phù hợp với xu thế hội  
nhập; hoàn thiện quy hoạch mạng lưới  
cơ sở giáo dục nghề nghiệp; nâng cao  
chất lượng dạy nghề, tiếp cận các chuẩn  
khu vực và thế giới.  
4.8. Đẩy mạnh công tác tuyên  
truyền, nâng cao hiệu quả công tác  
Đảng, đoàn thể góp phần nâng cao  
nhận thức của các doanh nghiệp,  
72  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
doanh nhân trong việc thực hiện Nghị  
quyết 10 về phát triển kinh tế tư nhân  
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:  
“Tuyên truyền là đem một việc gì đó  
nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo,  
dân làm. Nếu không đạt mục đích đó, là  
tuyên truyền thất bại”. Trong mục tiêu  
xây dựng và phát triển kinh tế tư nhân,  
công tác tuyên truyền vận động giữ vai  
trò hết sức quan trọng trong trong nền  
kinh tế thị trường định hướng xã hội  
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày  
càng rõ hơn. Mục đích là nhằm truyền  
bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư  
tưởng đến đối tượng, biến những kiến  
thức, giá trị tinh thần đó thành nhận  
thức, niềm tin, tình cảm của đối tượng,  
thôi thúc đối tượng hành động theo  
những định hướng, những mục tiêu do  
chủ thể tuyên truyền đặt ra.  
quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả  
năng cạnh tranh trên thị trường trong  
nước và quốc tế.  
Nhìn chung, hoạt động báo chí,  
xuất bản, phát thanh, truyền hình từng  
bước đi vào nề nếp, thực hiện tốt công  
tác tuyên truyền chủ trương, chính sách  
của Đảng, Nhà nước, phản ánh kịp thời  
các sự kiện quan trọng diễn ra tại doanh  
nghiệp. Hiện nay, theo thống kê của  
Cục Thương mại điện tử và Công nghệ  
thông tin - Bộ Công thương, tỷ lệ dân  
số Việt Nam truy cập internet lên đến  
34 triệu người (trong trên 90 triệu  
người) chiếm 36% (2013). Trong số đó,  
có khoảng hơn 90% dùng internet để  
đọc tin tức trên các báo, tạp chí online.  
Vì thế quảng cáo báo mạng điện tử  
ngày càng phát triển, các doanh nghiệp,  
công ty tìm đến dịch vụ quảng cáo này  
ngày càng đông. Quảng cáo trên báo  
mạng điện tử là hình thức quảng cáo  
hiệu quả, độ phủ thương hiệu tốt vì các  
trang báo mạng, tạp chí mạng hiện nay  
có lượng người đọc rất đông, chiếm thị  
phần tuyệt đối và áp đảo so với các loại  
hình báo chí và quảng cáo truyền thống  
khác. Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng  
không nên quá phụ thuộc vào báo chí để  
đánh bóng tên tuổi của mình hay doanh  
nghiệp mà cần đem thương hiệu, uy tín,  
chất lượng thật sự để đi vào lòng người.  
Muốn nâng cao chất lượng xây  
dựng tổ chức Đảng, đoàn thể ở các  
doanh nghiệp tư nhân, trước hết phải  
nâng cao nhận thức của chủ doanh  
nghiệp và người lao động về vấn đề  
Tuy nhiên cũng cần đổi mới và đa  
dạng hóa các hình thức tuyên truyền,  
vận động đối với doanh nghiệp và phù  
hợp với từng loại hình doanh nghiệp.  
Chú trọng những hình thức tuyên truyền  
vận động phù hợp, có ảnh hưởng sâu  
sắc. Có thể thấy rằng nhờ vào việc  
tuyên truyền, kinh tế tư nhân đã phát  
triển trên nhiều phương diện, được tự  
do kinh doanh và đối xử bình đẳng hơn  
với các thành phần kinh tế khác, nhất là  
trong tiếp cận các yếu tố sản xuất và các  
loại thị trường; hiệu quả, sức cạnh tranh  
dần được nâng lên; hoạt động đa dạng ở  
hầu hết các ngành, lĩnh vực và các  
vùng, miền; bước đầu đã hình thành  
được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có  
73  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
này. Cần chú trọng làm tốt công tác  
tuyên truyền về vị trí, vai trò của tổ  
chức Đảng, đoàn thể chính trị - xã hội  
trong các doanh nghiệp tư nhân cho chủ  
doanh nghiệp và người lao động.  
xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm  
nghèo, phát triển nguồn nhân lực…  
Trong bối cảnh ngân sách nhà nước gặp  
khó khăn, cùng với đó là xu hướng suy  
giảm của dòng vốn ngoại, thì những  
chính sách khuyến khích tư nhân tham  
gia đầu tư là cần thiết.  
Cùng với việc quán triệt, phổ biến  
quan điểm, chủ trương, chính sách của  
Đảng, Nhà nước, các địa phương đều  
xác định lấy hiệu quả hoạt động để  
vận động, thuyết phục chủ doanh  
nghiệp và người lao động tích cực  
tham gia vào tổ chức, thành lập và duy  
trì hoạt động của tổ chức đảng, đoàn  
thể chính trị - xã hội.  
Nền kinh tế Việt Nam hiện có nhiều  
trụ cột trong các ngành không phải  
doanh nghiệp nhà nước mà do doanh  
nghiệp tư nhân chi phối và đa phần làm  
ăn hiệu quả. Một nền kinh tế muốn  
chuyển sang sáng tạo thì buộc phải đạt  
hiệu quả cao với nhiều giá trị gia tăng,  
trong đó vai trò của nền kinh tế tư nhân  
thậm chí còn mang tính quyết định. Việt  
Nam nằm trong khu vực kinh tế năng  
động ở Đông Nam Á. Nếu biết phát huy  
đầy đủ sức mạnh và khả năng sáng tạo  
của khu vực tư nhân thì kinh tế Việt  
Nam sẽ có nhiều cơ hội phát triển.  
5. Kết luận  
Trong nền kinh tế thị trường định  
hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát triển  
kinh tế tư nhân là một nhân tố không  
chỉ đảm bảo cho việc duy trì tốc độ tăng  
trưởng GDP cao, tạo nguồn thu cho  
ngân sách nhà nước mà còn tham gia  
vào giải quyết hàng loạt những vấn đề  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Tng cc Thống Kê (2015b), Kết qusn xut kinh doanh ca doanh nghip  
Việt Nam giai đoạn 2010-2014, NXB Thống kê, Hà Nội  
2. Tng Cc Thống Kê (2016a), Báo cáo kết quả điều tra sơ bộ nông thôn, nông  
nghip thy sn, Tng Cc Thống kê, Hà Nội  
3. Đậu Tuấn Anh (2016), “Doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân Việt Nam kinh  
doanh trong cht vật”, Paper presented at the Diễn đành Kinh tế Vit Nam 2016,  
Hà Nội  
4. BKế hoch và Đầu tư (2014), Sách trắng vdoanh nghip nhỏ và vừa Vit  
Nam, NXB Thống kê, Hà Ni  
5. Tng cc Thống Kê (2015a), Hiu qucủa các doanh nghiệp trong nước giai  
đoạn 2005 - 2014, NXB Thng kê, Hà Nội  
6. Tng cc Thống Kê (2016b), Năng suất lao động Vit Nam: Thc trng và  
Giải pháp, Tng cc Thng kê, Hà Nội  
74  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, S10 - 2018  
ISSN 2354-1482  
REALITY AND SOME BASIC SOLUTIONS TO  
DEVELOPING PRIVATE SECTOR IN VIETNAM  
ABSTRACT  
Vietnam nowadays, with a multipart, coexistence and development economy, no  
longer stops at the aspect of consideration to remove or prioritize any economic  
composition that needs to be noticed by each economic component that has its own  
nature, specific economic rule, based on each form of a certain property of material  
produced. Therefore, it is important to hold the nature of each economic component  
and use them in an effective way to accelerate the growth and economic development  
process and the opening of further integration into the international economy that  
helps the economy of the country is increasingly stronger. This article primarily  
analyzes the status of the private sector, a number of lessons learned by countries  
around the world and proposed a number of solutions aimed at developing private  
economies in the coming time.  
Keywords: Private sector, experience, status, solution  
(Received: 23/7/2018, Revised: 21/8/2018, Accepted for publication: 18/9/2018)  
75  
pdf 16 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 160
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_mot_so_giai_phap_co_ban_nham_phat_trien_kinh_t.pdf