Tổng quan về tư liệu tộc ước trên thư tịch tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Tổng quan về tư liệu tộc ước trên thư tịch
tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Mai Thu Quỳnh(*)
Tóm tắt: Với mục tiêu nghiên cứu khối tư liệu tộc ước trên thư tịch hiện được lưu trữ tại
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi tiến hành thống kê danh mục văn bản tộc ước đang
nằm rải rác trong các tư liệu khác (chủ yếu là gia phả); phân tích và tổng kết các đặc
điểm về dung lượng và tên gọi của các văn bản tộc ước này; dùng phương pháp văn bản
học để xác định niên đại văn bản, đồng thời vận dụng kiến thức của địa danh học lịch sử
để xác định đặc điểm phân bố của các dòng họ có văn bản tộc ước; từ đó đưa ra kết luận
về dung lượng, tên gọi, đặc điểm phân bố trên không gian địa lý và thời gian lịch sử của
các văn bản tộc ước trong kho tư liệu này.
Từ khóa: Tài liệu Hán Nôm, Văn bản, Tộc ước, Thư tịch, Dòng họ, Lịch sử văn hóa
Abstract: With the aim of discovering regulations of Vietnamese clans currently archived
at the Institute of Sino-Nôm Studies, we have created a list of clan regulations that are
scattered in other documents (mainly in genealogical records) to analyze and comment
on the volume and titles of these. Textual analysis and knowledge of historical geography
are applied to identify document dates and distribution characteristics respectively. From
there, the paper makes conclusions about the volume, titles, geographical distribution
and historical characteristics of these archives.
Keywords: Sino-Nom Documents, Text, Regulations of Clan, Clan, Cultural History
Đặt vấn đề 1(*)
gia tộc với các thể loại như gia phả, gia huấn,
Ở Việt Nam, thờ cúng tổ tiên được coi tộc ước, bia kí ở từ đường, chúc thư, văn tế,
là tín ngưỡng bản địa. Tuy nhiên, các tư liệu hoành phi câu đối,... được ghi trên các chất
thành văn hiện còn của dòng họ người Việt liệu khác nhau như giấy (thư tịch hay sách
cho thấy tín ngưỡng này của người Việt lại giấy), đá (văn bia), gỗ (biển ngạch), đồng
được tổ chức trong khuôn khổ gia tộc (dòng (sách đồng hoặc biển ngạch),… Những tư
họ chịu ảnh hưởng của Nho giáo với đặc liệu này thuộc sở hữu của dòng họ, có thể
điểm dễ nhận thấy là tính dòng dõi theo họ do một nhóm hoặc một thành viên có uy
cha và xác định vị thế theo dòng trưởng). tín trong dòng họ biên soạn, phản ánh văn
Đặc điểm này làm sản sinh hệ thống tư liệu hóa và đời sống sinh hoạt của cả dòng họ.
Trong số đó, tộc ước là loại hình văn bản
còn ít được quan tâm nghiên cứu.
(*) ThS., Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam;
Tộc ước - loại hình văn bản luật tục,
ghi những quy định cho các thành viên
Email: thuquynh.mai@gmail.com
Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2020
36
trong họ chấp hành (Mai Thu Quỳnh, khối tư liệu này có những đặc điểm đáng
2017) - có thể được chép gộp trong cuốn chú ý như sau:
gia phả hoặc bài bia kí, nhưng cũng có thể 1. Dung lượng chữ, văn tự của văn bản
được chép độc lập thành sách tộc ước hoặc tộc ước
bia tộc ước. Do sự khác nhau của chất liệu
Dung lượng của văn bản tộc ước hết
vật ghi chép, số tộc ước trên giấy thường sức phong phú, không có quy định bắt buộc:
có dung lượng lớn hơn và chiếm số lượng ngắn nhất là một trang giấy, dài là cả cuốn.
lớn hơn tộc ước trên đá. Ngoài các dòng Có văn bản viết theo hình thức chia thành
họ hiện lưu giữ rải rác một số tư liệu với các điều, có văn bản không chia. Với các
nội dung và chất lượng khác nhau, Viện văn bản chia thành các điều lệ hoặc điều
Nghiên cứu Hán Nôm là đơn vị lưu trữ tập ước, văn bản có ít điều ước nhất là của họ
trung được khá nhiều bản tộc ước. Ở bài Trần làng Bình Vọng, huyện Thượng Phúc,
viết này, chúng tôi khảo sát, nghiên cứu phủ Thường Tín (nay là làng Bình Vọng,
và giới thiệu khối tư liệu tộc ước tại Viện xã Văn Bình, huyện Thường Tín, thành
Nghiên cứu Hán Nôm để có cái nhìn tổng phố Hà Nội) với 04 điều quy định; văn bản
quan về loại hình tư liệu này, qua đó, cung có nhiều điều ước nhất là của họ Nguyễn
cấp thêm thông tin cho việc nghiên cứu ở làng Tương Mai, xã Tương Mai, huyện
kinh tế, tư tưởng, văn hóa, giáo dục, chính Thanh Trì (nay là phường Tương Mai, quận
trị ở các địa phương Việt Nam trong lịch sử Hoàng Mai, thành phố Hà Nội) với 48 điều
từ tiếp cận tộc họ. Ví dụ: các quy định về quy định.
việc sử dụng ruộng đất phục vụ thờ cúng
Văn tự chính được sử dụng là chữ Hán.
hay dưỡng lão có thể là số liệu nghiên cứu Ngoài ra, người viết dùng đến chữ Nôm
vấn đề ruộng đất; các quy định về việc khi ghi tên xứ đồng và một số đồ vật riêng
đóng góp quỹ và sử dụng quỹ của dòng họ có của địa phương mà không có trong chữ
có thể là số liệu nghiên cứu vấn đề tiền tệ; Hán. Cả chữ Hán và chữ Nôm trong các
các quy định về cách thức thờ cúng là căn văn bản này đều được viết theo lối chữ
cứ nghiên cứu vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Khải chân phương dễ đọc. Ngữ pháp của
văn hóa; các quy định về khuyến học là các câu sáng rõ, gần ngữ pháp tiếng Việt.
căn cứ nghiên cứu vấn đề giáo dục;…
Đặc điểm về thể chữ và ngữ pháp này có
Quá trình nghiên cứu và xử lý tư liệu thể được giải thích bằng chức năng và mục
cho thấy, Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện đích tồn tại của văn bản tộc ước: chúng là
lưu trữ 35 bản tộc ước trên giấy. Các văn những văn bản được viết ra để các thành
bản này chủ yếu (33 văn bản) nằm trong viên của dòng họ biết những việc mình cần
các tập gia phả của dòng họ, số rất ít (02 làm, các văn bản này hướng đến đối tượng
văn bản) tồn tại độc lập với ký hiệu thư sử dụng là đông đảo các thành viên trong
viện riêng. 35 văn bản này nằm rải rác dòng họ, mục đích là để mọi người đều có
trong kho tư liệu, gồm ký hiệu A và VHV thể đọc và nhớ để thực hiện. Vì thế, văn bản
(bản sao chụp là VHC), được đánh số từ tộc ước cần được viết một cách dễ đọc, dễ
647 (A.647) đến 2807 (A.2807) không liền hiểu, dễ nhớ.
mạch. Đây là những bản tộc ước của nhiều
Ngoài ra, đa số các văn bản tộc ước đều
dòng họ lớn sản sinh ra các danh nhân có không có tên tác giả biên soạn. Điều này
dấu ấn trong lịch sử Việt Nam. Nhìn chung, có thể lý giải là do các quy định chung về
Tổng quan tư liệu…
37
quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên
trong dòng họ, và thường là sản phẩm của
một tập thể các cá nhân có trình độ học vấn
hoặc vị trí cao trong dòng họ.
từ chỉ loại hình văn bản khác, như 本支譜
記 (Bản chi phả kí), 清穆堂名譜 (Thanh
mục đường danh phả) khiến chúng ta có
thể phỏng đoán sai loại hình văn bản nếu
chỉ đọc lướt qua.
2. Tiêu đề của văn bản tộc ước
Qua khảo sát cho thấy, trong số 35 văn
bản tộc ước được lưu trữ tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, chỉ có 02 văn bản không có
tiêu đề, còn 33 văn bản khác có thể chia
thành hai nhóm: nhóm một là những văn
bản chỉ gồm một phần nên có một tên,
nhóm hai là những văn bản gồm hơn một
phần và mỗi phần đó có tên riêng. Nhằm
giúp độc giả có thể hình dung cụ thể nhất,
chúng tôi tập hợp và khảo sát tất cả các tên
gọi của các phần thuộc nhóm văn bản có
hơn một phần và các tên gọi của nhóm văn
bản có một phần. Từ nguyên tắc khảo sát
như vậy, chúng tôi thống kê được kết quả
như sau: có 17 tên văn bản dùng chữ “lệ”
(例), 03 tên gọi dùng chữ “ước” (約), 01
tên gọi dùng cả chữ “lệ” (例) và chữ “ước”
(約), 01 tên gọi dùng từ “khoán lệ” (券例),
05 tên gọi dùng từ “khoán ước” (券約), 01
tên gọi dùng từ “khoán cảo” (劵稿), 01 tên
gọi dùng từ “giao thư” (交書), 01 tên gọi
dùng từ “giao từ” (交詞), 01 tên gọi dùng
chữ “thức” (式), 01 tên gọi dùng từ “công
bạ” (公簿). Đây là những chữ và từ giúp
xác định loại hình văn bản là văn bản ghi
các quy định chung của dòng họ ngay khi
tiếp cận tên văn bản. Bên cạnh đó, cũng
có tên gọi không giúp được việc này, như
監生黎全城訓誡子孫篇 (Giám sinh Lê
Toàn Thành huấn giới tử tôn thiên), 太保
黎相公香火田池土宅(Thái bảo Lê tướng
công hương hỏa điền trì thổ trạch), 追遠壇
昭穆議 (Truy viễn đàn chiêu mục nghị),
本支姓氏名字說 (Bản chi tính thị danh
tự thuyết), 阮何氏祀事錄 (Nguyễn Hà
thị tự sự lục), 阮何氏忌田 (Nguyễn Hà
thị kị điền); hoặc có khi lại dùng những
Như vậy, có thể thấy, tên gọi của văn
bản tộc ước có thể có chữ hoặc từ chỉ thể
loại văn bản nhưng cũng có thể không, tuy
nhiên trường hợp tên gọi có chữ hoặc từ chỉ
thể loại nhiều hơn. Các chữ và từ thường
được dùng trong tên gọi văn bản tộc ước là
“lệ” (例), “khoán ước” (券約), “ước” (約).
Ngoài ra, độ dài của tên gọi tộc ước cũng
không nhất định mà dao động từ 01 tới 11
chữ, trong đó nhiều nhất là tên văn bản có
04 chữ (18 văn bản), số chữ khá dài từ 09
đến 11 chữ chỉ gồm 05 văn bản, hoặc ngắn
dưới 04 chữ chỉ có 03 văn bản.
3. Phân bố văn bản tộc ước theo dòng họ
sở hữu, không gian địa lý, thời gian lịch sử
Các bản tộc ước lưu trữ tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm thuộc về các dòng họ, địa
phương và thời đại như sau:
1) Tộc ước của họ Bùi ở thôn Đông
Ấp, xã Thịnh Liệt, tổng Hoàng Mai, huyện
Thanh Trì (nay là phường Thịnh Liệt, quận
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội), định bản
năm Vĩnh Hựu 3 (1737).
2) Tộc ước của họ Bùi ở xã Quang
Công, huyện Thanh Đàm (nay là phường
Định Công, quận Hoàng Mai, thành phố Hà
Nội), không ghi niên đại.
3) Tộc ước của họ Đỗ ở làng Quan
Xuyên, tổng Đại Quan, huyện Đông An
phủ Khoái Châu (nay là làng Quan Xuyên,
xã Thành Công, huyện Khoái Châu, tỉnh
Hưng Yên), định bản năm Tự Đức 3 (1847).
4) Tộc ước của họ Đỗ ở phường Thịnh
Quang, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức
(nay là phường Hàng Bột, quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội), định bản năm Thành
Thái Kỷ Sửu (1889).
Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2020
38
5) Tộc ước của họ Đỗ ở thôn Bình (nay là xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, thành
Vọng, xã Bình Dương, phủ Ứng Thiên (nay phố Hà Nội), không ghi niên đại.
là thôn Bình Vọng, xã Văn Bình, huyện
14) Tộc ước của họ Nguyễn ở làng
Thường Tín, thành phố Hà Nội), định bản Đông Tác, huyện Thọ Xương (nay là phố
thời Minh Mệnh, sửa đổi thời Thiệu Trị và Đông Tác, phường Trung Tự, quận Đống
Thành Thái.
Đa, thành phố Hà Nội), định bản năm
6) Tộc ước của họ Hoàng ở làng Đa Thành Thái 10 (1898).
Sĩ, huyện Thanh Oai (nay là làng Đa Sĩ,
15) Tộc ước của họ Nguyễn ở làng
phường Kiến Hưng, quận Hà Đông, thành Tương Mai, xã Tương Mai, huyện Thanh
phố Hà Nội), định bản năm Thành Thái Trì (nay là phường Tương Mai, quận
Đinh Dậu (1897).
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội), định bản
7) Tộc ước của họ Lê ở thôn Mai Trai, năm Minh Mệnh 5 (1824).
xã Thanh Mai, huyện Thanh Phong, phủ
16) Tộc ước của họ Nguyễn ở thôn
Quảng Oai (nay là thôn Mai Trai, xã Vạn Hương Khê, xã Đội Trạng, tổng Cổ Định,
Thắng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội), huyện Nông Cống, phủ Tĩnh gia (nay là
định bản năm Gia Long 9 (1810).
8) Tộc ước của họ Lê ở xã Hòa Bình, Hóa), định bản năm Thành Thái 8 (1896).
huyện Yên Mỹ (nay là xã Hoàn Long, huyện 17) Tộc ước của họ Nguyễn ở thôn
thị Trấn Nưa, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh
Yên Mỹ, tỉnh HưngYên), không ghi niên đại. Nhân Ái, xã Vân Canh, huyện Từ Liêm
9) Tộc ước của họ Ngô Thì ở làng Tả (nay là thôn Hậu Ái, xã Vân Canh, huyện
Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Hoài Đức, thành phố Hà Nội), định bản
Oai (nay là làng Tả Thanh Oai, huyện năm Tự Đức 18 (1865).
Thanh Trì, thành phố Hà Nội), bản thứ nhất
được viết trong khoảng nửa cuối năm 1792 Kỳ, xã Hoa Cầu, huyện Văn Giang (nay là
đến trước ngày 20/02/1793. làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn
18) Tộc ước của họ Nguyễn ở thôn Tam
10) Tộc ước của họ Ngô Thì ở làng Tả Giang, tỉnh Hưng Yên), định bản năm Cảnh
Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Hưng 3 (1742).
Oai (nay là làng Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Trì, thành phố Hà Nội), bản thứ hai Vân Trai, xã Vân Trai, tổng Thượng Cung,
được viết năm Quang Trung 4 (1791). huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín
19) Tộc ước của họ Nguyễn ở thôn
11) Tộc ước của họ Nguyễn ở giáp (nay là thôn Vân Trai, xã Văn Phú, huyện
Dịch Ngọ thuộc thôn Hạ Đình, xã Nhân Thường Tín, thành phố Hà Nội), định bản
Mục, tổng Mỹ Đình (nay là làng Nhân Mục, năm Thành Thái nguyên niên (1889).
phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội), định bản năm Minh Xuân Tảo, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm
Mệnh 1 (1820) và Duy Tân 10 (1916). (nay là phường Xuân Tảo, quận Bắc Từ
20) Tộc ước của họ Nguyễn ở thôn
12) Tộc ước của họ Nguyễn Hà ở làng Liêm, thành phố Hà Nội), định bản năm
Đa Sĩ, huyện Thanh Oai (nay là làng Đa Sĩ, Đồng Khánh nguyên niên (1885).
phường Kiến Hưng, quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội), không ghi niên đại.
21) Tộc ước của họ Nguyễn ở xã Bát
Tràng, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, đạo
13) Tộc ước của họ Nguyễn Huy ở xã Kinh Bắc (nay là thôn Bát Tràng, xã Bát
Phú Thị huyện Gia Lâm, phủ Thuận An Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội),
Tổng quan tư liệu…
39
định bản năm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
29) Tộc ước của họ Phan ở xã Đông
19 (1963).
Ngạc, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai (nay
22) Tộc ước của họ Nguyễn ở xã Dịch là phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm,
Vọng, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức (nay thành phố Hà Nội), bản thứ hai được viết
là phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, năm Minh Mệnh 16 (1835).
thành phố Hà Nội), định bản năm Tự Đức
Kỷ Dậu (1849).
30) Tộc ước của họ Trần ở làng Bình
Vọng, huyện Thượng Phúc, phủ Thường
23) Tộc ước của họ Nguyễn ở xã Đông Tín (nay là làng Bình Vọng xã Văn Bình,
Ngạc, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai (nay huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội),
là phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, được viết năm 1912.
thành phố Hà Nội), định bản năm Tự Đức
31) Tộc ước của họ Trần ở thôn Kim
Canh Thân (1860).
Hoàng, xã Vân Canh, tổng Hương Canh,
24) Tộc ước của họ Nguyễn ở xã Nỗ huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức (nay là thôn
Bạn, huyện Thanh Trì (nay là thôn Nỗ Bạn, Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài
xã Liên Phương, huyện Thường Tín, thành Đức, thành phố Hà Nội), bản thứ nhất được
phố Hà Nội), định bản năm Vĩnh Thịnh 3 soạn thời Thiệu Trị, sửa đổi thời Tự Đức và
(1707).
25) Tộc ước của họ Phạm ở làng Lương
Duy Tân.
32) Tộc ước của họ Trần ở thôn Kim
Ngọc, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương Hoàng, xã Vân Canh, tổng Hương Canh,
(nay là thôn Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức (nay là thôn
huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương), được Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài
viết trong khoảng từ năm 1890-19451.
Đức, thành phố Hà Nội), bản thứ hai được
26) Tộc ước của họ Phạm ở xã Đông soạn thời Thiệu Trị, sửa đổi thời Tự Đức và
Ngạc, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai (nay Thành Thái.
là phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội), bản thứ nhất được viết Lăng, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Nội
năm 1875. (nay là thôn Bình Lăng, xã Thắng Lợi,
33) Tộc ước của họ Trần ở xã Bình
27) Tộc ước của họ Phạm ở xã Đông huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội),
Ngạc, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai (nay định bản năm Thành Thái 4 (1892).
là phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội), bản thứ hai được viết Đình, xã Nhân Mục, huyện Thanh Trì (nay
năm Tự Đức 23 (1869). là phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân,
34) Tộc ước của họ Trương ở thôn Hạ
28) Tộc ước của họ Phan ở xã Đông thành phố Hà Nội), định bản năm Mậu
Ngạc, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai (nay Thân (?)2.
là phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm,
35) Tộc ước của họ Vũ ở làng Hải Bối,
thành phố Hà Nội), bản thứ nhất được viết phủ Vĩnh Tường (nay là xã Hải Bối, huyện
năm Cảnh Hưng 32 (1771).
Đông Anh, thành phố Hà Nội), định bản
năm Vĩnh Thịnh 16 (1720).
1 1890-1945: Xem phần xác định niên đại phía dưới
của bài viết để thấy rõ hơn vấn đề niên đại của văn
bản này.
2
Mậu Thân (?): Xem phần xác định niên đại phía
dưới để thấy rõ hơn vấn đề niên đại của văn bản này.
Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2020
40
Như vậy có thể thấy, 35 bản tộc ước Xuân, thành phố Hà Nội)1 ghi niên đại là
được khảo sát thuộc về các dòng họ: Bùi, năm Mậu Thân, lại nhắc đến đơn vị hành
Đỗ, Hoàng, Lê, Ngô, Nguyễn, Phạm, Phan, chính “tỉnh Hà Nội”, chứng tỏ văn bản này
Trần, Trương, Vũ. Trong đó, có nhiều họ được viết vào năm Mậu Thân cuối thời
Nguyễn lập tộc ước nhất. Điều này có thể Nguyễn, do đó chúng tôi xác định: niên đại
do số lượng người mang họ Nguyễn chiếm của văn bản này là năm 1848.
vị trí nhiều nhất so với số người mang các
họ khác nhau của người Việt.
(ii) Văn bản tộc ước của họ Phạm ở
làng Lương Ngọc, huyện Bình Giang, tỉnh
Nếu lấy đơn vị hành chính cấp tỉnh Hải Dương (nay thuộc xã Thúc Kháng,
hiện nay làm tiêu chí phân tích đặc điểm huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) được
phân bố theo không gian của các dòng họ viết thành một cuốn sách độc lập, không
sở hữu tộc ước thì tỉnh Hưng Yên có 03 văn nằm cùng gia phả dòng họ. Sách không ghi
bản, tỉnh Hải Dương có 01 văn bản, tỉnh năm viết, tác giả, bộ sách Di sản Hán Nôm
Thanh Hóa có 01 văn bản, thành phố Hà thư mục đề yếu (Trần Nghĩa và Francois
Nội có 30 văn bản. Điều này có nghĩa: các Gros, 1993: 540) cũng không ghi hai thông
bản tộc ước chúng tôi khảo sát đều thuộc tin này. Khi đọc nội dung, chúng tôi thấy
các dòng họ sinh sống trên địa bàn đồng trang 4a và 4b, điều 03 với nội dung quy
bằng và trung du phía Bắc của lãnh thổ Việt định việc suy tôn người đỗ đạt trong họ có
Nam, trong đó Hà Nội là địa phương chiếm viết: 有英山教授養庵公解官退居修家
số lượng áp đảo.
譜訓子侄... 接之者有乂安布政使魚堂
Về vấn đề niên đại văn bản, có thể 公以孤貧好學早占危科顯官當朝為吾族
thấy, niên đại của một văn bản tộc ước có 之冠冕… (Có ông Dưỡng Am giữ chức
thể là thời điểm soạn tộc ước, nhưng cũng Giáo thụ Anh Sơn nghỉ hưu về nhà sửa gia
có thể là thời điểm sửa chữa thêm bớt, phả dạy con cháu…; tiếp theo là ông Ngư
hoặc thời điểm được sao chép lại, hoặc Đường giữ chức Bố chính sứ Nghệ An từng
là thời điểm được định bản (ghi ra giấy là học trò nghèo hiếu học nên sớm chiếm
những quy định đã được truyền miệng và vị trí cao của khoa bảng và làm quan lớn
được thực hiện từ trước đó). Dù là thời đương triều - [hai ông] là người đứng đầu
điểm soạn lập hay thời điểm sửa đổi, sao của họ nhà ta)…
chép, định bản, thì vấn đề niên đại ở đây
Ông Dưỡng Am từng làm Giáo thụ
cũng mang một ý nghĩa chung là đánh Anh Sơn là ai? Ông Ngư Đường từng giữ
dấu thời điểm dòng họ đó có văn bản tộc chức Bố chính sứ Nghệ An là người như
ước đang khảo sát. Trong số 35 văn bản thế nào? Chúng tôi đã tìm trong các từ điển
tộc ước được khảo sát, có 29 bản ghi niên danh nhân và thấy: “Dưỡng Am từng giữ
đại rõ ràng, còn lại 06 văn bản không ghi chức Giáo thụ Anh Sơn” là Phạm Hội (范
rõ niên đại. Tuy nhiên trong số đó, chúng 會) (Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế,
tôi đã xác định được niên đại và vài thông 1991: 722; Trịnh Khắc Mạnh, 2019: 102),
tin quan trọng của 02 văn bản. Cụ thể còn “Ngư Đường từng giữ chức Bố chính
như sau:
(i) Văn bản tộc ước của họ Trương ở
thôn Hạ Đình, xã Nhân Mục, huyện Thanh
Trì (nay là phường Hạ Đình, quận Thanh
1 Nằm trong Trương thị gia phả (張氏家譜), Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.793, phần Tế tự lễ
nghi dữ chư ngạch điều lệ (祭祀禮儀與諸額條例).
Tổng quan tư liệu…
41
Nguyễn, 01 văn bản ghi niên đại thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Văn bản có niên
đại sớm nhất là “Bản tộc định lệ” của họ
Nguyễn ở thôn Nỗ Bạn, xã Liên Phương,
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội1,
chép năm 1707 (năm thứ 3 niên hiệu Vĩnh
Thịnh). Văn bản có niên đại muộn nhất là
“Bản chi phả kí” của họ Nguyễn ở thôn Bát
Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội2 chép lại năm 1963 (năm thứ
19 niên hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
4. Một số kết luận
Hiện tại, Viện Nghiên cứu Hán Nôm
lưu trữ tổng cộng 35 văn bản tộc ước. Độ
dài của các văn bản rất khác nhau. Văn tự
chính được sử dụng là chữ Hán. Chữ Nôm
được dùng trong những trường hợp ghi tên
xứ đồng và một số đồ vật riêng có của địa
phương. Chữ Hán-Nôm trong các văn bản
này đều được viết theo lối chữ Khải chân
phương dễ đọc. Ngữ pháp của các câu sáng
rõ, gần với ngữ pháp tiếng Việt. Tên gọi
của văn bản tộc ước có độ dài ngắn khác
nhau, từ 01 chữ cho tới 11 chữ. Tên gọi các
văn bản này cũng không nhất thiết phải bao
gồm các thuật ngữ đặc định về mặt thể loại
thường thấy như “lệ” (例) hay “khoán ước”
(券約), “ước” (約). Các bản tộc ước này
thuộc về 11 dòng họ, trong đó các dòng họ
Nguyễn chiếm số lượng nhiều hơn cả. Nếu
phân loại các văn bản căn cứ trên không
gian địa lý thì các tộc ước này phân bố ở
khu vực phía Bắc (Hà Nội, Hưng Yên, Hải
Dương) và Bắc Trung bộ (Thanh Hóa) của
lãnh thổ Việt Nam, trong đó Hà Nội là địa
phương chiếm số lượng áp đảo. Nếu đứng
từ góc nhìn triều đại thì phần lớn các văn
sứ Nghệ An” là Phạm Hi Lượng (范熙亮)
(Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế, 1991:
730; Trịnh Khắc Mạnh, 2019: 337). Hai
ông Phạm Hội và Phạm Hi Lượng đều được
ghi trong cuốn khoán cảo của họ Phạm làng
Lương Ngọc với tư cách là người hiển đạt
thời trước. Điều này chứng tỏ Phạm Hội và
Phạm Hi Lượng cùng là người họ Phạm ở
làng Lương Ngọc. Đồng thời, việc gọi hai
ông là “tiên hiền” của dòng họ cũng chứng
tỏ văn bản này ra đời sau khi hai ông đã
qua đời. Sách này lại có mặt ở Viện Nghiên
cứu Hán Nôm do được Trường Viễn Đông
Bác cổ Pháp (EFEO) sưu tầm, chứng tỏ
sách đã vào thư viện từ trước năm 1945.
Từ đó, chúng ta có thể suy ra niên đại của
văn bản này thuộc khoảng năm 1890-1945.
Như vậy, sau khi đọc văn bản tộc ước của
họ Phạm làng Lương Ngọc và tham khảo
các tư liệu khác, chúng tôi có một số kết
luận như sau:
Một là, Phạm Hội và Phạm Hi Lượng
là người cùng họ, cả hai ông tuy được sinh
ra ở huyện Thọ Xương (nay là quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội) nhưng có nguyên
quán ở xã Hoa Đường, huyện Đường An,
trấn Hải Dương (sau này đổi thành làng
Lương Ngọc, huyện Bình Giang, tỉnh Hải
Dương, hiện nay là thôn Lương Ngọc, xã
Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải
Dương).
Hai là, sách Lương Ngọc Phạm tộc
phả ước (良玉范族譜約) hiện được lưu trữ
tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm với ký hiệu
A.1344 là văn bản có niên đại cuối thời
Nguyễn (1890-1945) và là tộc ước của họ
Phạm ở thôn Lương Ngọc, xã Thúc Kháng,
huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Như vậy, ngoài 04 văn bản chưa rõ
niên đại, có 05 văn bản ghi niên đại thời Lê
Trung Hưng, 02 văn bản ghi niên đại thời
1 Tộc ước nằm trong cuốn Nguyễn gia phả kí, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2450.
2 Tộc ước nằm trong cuốn Nguyễn tộc gia phả hệ
Quang Trung, 25 văn bản ghi niên đại thời kí, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHV.2577.
Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2020
42
bản này thuộc thời Nguyễn và văn bản dòng họ đó, mà còn có thể cung cấp thêm
muộn nhất là tới thời Việt Nam Dân chủ tri thức và căn cứ khoa học để nghiên cứu
Cộng hòa.
Những đặc điểm này cho thấy, tộc ước người Việt
trên thư tịch Hán Nôm là thể loại văn bản
lịch sử địa phương và lịch sử tư tưởng của
luật tục đa dạng về hình thức, phong phú Tài liệu tham khảo
về nội dung, có thể là nguồn tư liệu hữu 1. Trần Nghĩa và Francois Gros (chủ biên,
ích phục vụ nghiên cứu văn tự và ngôn ngữ
của người Việt thế kỷ XVIII-XX, xác định
1993), Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
niên đại các bản gia phả đi kèm, nghiên cứu 2. Trịnh Khắc Mạnh (2019), Tên tự tên
lịch sử di cư và phân - hợp của các dòng
họ; sự phân bố văn bản tộc ước theo không
hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
gian địa lý và thời gian lịch sử còn có thể 3. Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế
góp phần chứng minh cho sự phát triển của
mô hình gia tộc ở các địa phương trong các
(1991), Từ điển nhân vật lịch sử Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
thời đại. Các văn bản tộc ước này không chỉ 4. Mai Thu Quỳnh (2017), “Một số vấn đề
giúp đưa ra cái nhìn tổng quan về loại hình
văn bản luật tục của các dòng họ người
Việt, về đời sống kinh tế - văn hóa của các
về văn bia tộc ước Việt Nam”, trong:
Kỷ yếu Hội thảo Nghiên cứu Hán Nôm
năm 2017, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan về tư liệu tộc ước trên thư tịch tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tong_quan_ve_tu_lieu_toc_uoc_tren_thu_tich_tai_vien_nghien_c.pdf