Trạng thái ngôn ngữ các dân tộc thuộc nhóm Khơ-Mú ở Việt Nam
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
TRẠNG THÁI NGÔN NGỮ CÁC DÂN TỘC
THUỘC NHÓM KHƠ-MÚ Ở VIỆT NAM
Tạ Văn Thônga
Tạ Quang Tùngb
a Viện Tử điển học và Bách khoa thư Việt Nam
Email: tavanthong1955@gmail.com
b Viện Ngôn ngữ học Việt Nam
ục đích của bài viết này là chỉ ra những điểm chung và
Mriêng trong trạng thái ngôn ngữ của các dân tộc ở Việt
Nam thuộc nhóm ngôn ngữ Khơ-mú (Khmuic) gồm: Khơ-mú,
Xinh Mun, Kháng, Ơ Đu.
Email: quangtung7391@gmail.com
Những điểm chung: Đây là những ngôn ngữ rất gần gũi về
cội nguồn, hiện giữ lại được trạng thái “cổ” của các ngôn ngữ
đơn lập. Hiện tượng đa ngữ (phổ biến là song ngữ) phổ biến
ở tất cả các dân tộc thiểu số nhóm Khơ-mú: Tiếng Việt - tiếng
mẹ đẻ các dân tộc này - tiếng Thái, tiếng Lào... Tuy nhiên, hiện
tượng đa ngữ này lại thường là bất bình đẳng.
Ngày nhận bài:
20/2/2020
Ngày phản biện: 28/2/2020
Ngày tác giả sửa: 5/3/2020
Ngày duyệt đăng: 20/3/2020
Ngày phát hành: 31/3/2020
Những điểm riêng biệt: Dân tộc Kháng nói bằng 2 ngôn ngữ.
Ngôn ngữ các dân tộc Khơ-mú, Xinh Mun, Kháng có nguy cơ
thất truyền cao; Ơ Đu đang có nguy cơ mất hoàn toàn bản sắc
văn hóa truyền thống, trong đó có ngôn ngữ tộc người (chuyển
sang nói tiếng Thái hoặc Khơ-mú).
DOI:
Có thể xem đây là một trường hợp nghiên cứu về trạng thái
ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Từ khóa: Dân tộc thiểu số; Đa ngữ; Ngôn ngữ bị mai một;
Nhóm ngôn ngữ Khơ-mú; Trạng thái ngôn ngữ.
1. Đặt vấn đề
Việt Nam”; Phạm Quang Hoan và Đặng Thị Hoa
(2011), “Người Kháng ở Việt Nam”... Dân tộc Ơ Đu
ít được nhắc đến, có thể vì số dân quá ít (trên dưới
400, ít nhất trong số các dân tộc ở Việt Nam).
Mục đích của bài viết là chỉ ra những điểm chung
và riêng biệt trong trạng thái ngôn ngữ ở các dân tộc
thuộc nhóm ngôn ngữ Khơ-mú (Khmuic – xin gọi
tắt: “Các ngôn ngữ nhóm Khơ-mú” và “các dân tộc
nhóm Khơ-mú”), thuộc nhánh Môn – Khmer Bắc,
chi Môn – Khmer, ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic):
Khơ-mú, Xinh Mun, Kháng, Ơ Đu. Từ đó hướng tới
giải pháp tích cực hơn đối với ngôn ngữ của các dân
tộc này trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam.
Những nghiên cứu nói trên đã cho thấy, mối quan
tâm nhiều mặt tới văn hóa tộc người và sinh kế, sự
cố kết, ổn định xã hội... ở các dân tộc thuộc nhóm
Khơ-mú. Một số tài liệu cho biết một số thông tin
có liên quan đến ngôn ngữ tộc người: Quan hệ giữa
các dân tộc, các nhóm địa phương, sự tiếp xúc của
các cộng đồng...
2. Tổng quan
2.2. Những nghiên cứu ngôn ngữ học
2.1. Những nghiên cứu dân tộc học
Theo các tài liệu dân tộc học, nhóm Khơ-mú
gồm 13 ngôn ngữ, chủ yếu ở Lào, Thái Lan và Việt
Nam.
Trong chuyên khảo của Đặng Nghiêm Vạn,
Nguyễn Trúc Bình, Nguyễn Văn Huy, Thanh Thiên
(1972), các dân tộc Khơ-mú, Xinh Mun, Kháng
(cùng Mảng, La Ha) đã được giới thiệu dưới tên
gọi chung: “Các dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây
Bắc Việt Nam”.
Các dân tộc Khơ-mú, Xinh Mun, Kháng, Ơ Đu
được nhắc đến trong sách: Viện Dân tộc học (1978),
“Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Khu vực phía
Bắc)”. Sau đó có những sách khảo cứu về nhiều
mặt trong đời sống văn hóa các dân tộc này: Khổng
Diễn (Chủ biên, 1999), “Dân tộc Khơ-mú ở Việt
Nam”; Trần Bình (1999), “Dân tộc Xinh Mun ở
Tiếng Khơ-mú đã được biết đến từ thế kỉ 19 (từ
vựng Khơ-mú được ghi trong tài liệu của Garnier
(1873) thuật lại cuộc thám hiểm Đông Dương của
ông). Theo quan điểm của A. G. Haudricourt (1953,
1954), nghiên cứu nhóm Khơ-mú có thể giúp làm
rõ lịch sử tiếng Việt. Từ những năm 1970, phạm vi
nghiên cứu về các ngôn ngữ này được mở rộng, về
tiếng Xinh Mun, tiếng Tày Hạt (Ơ Đu)...
Gần đây, có các công trình về tiếng Khơ-mú
ở Thái (Suwilai Premsrirat, 1993, 2001) . Ở Việt
58
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
Nam, tác giả Tạ Quang Tùng (2013, 2014) có các Tày Hạy... - những tên hiện nay rất ít dùng hoặc
công trình “Đặc điểm từ âm vị học tiếng Khơ-mú không dùng nữa.
(trên cơ sở phân tích bằng máy tính)” và “Đặc điểm
tiếng Khơ-mú ở Tây Bắc Việt Nam”.
Người Khơ-mú cư trú tại nhiều nước, chủ yếu ở
khu vực châu Á (Lào, Thái Lan, Trung Quốc, Việt
Tiếng Xinh Mun (Kxinh Mul) được các nhà Nam...), đông nhất là ở Lào (khoảng trên dưới 550
khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô ngàn người). Ở Lào, họ tập trung chủ yếu trong
(AH CCCP) và Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam các tỉnh Luang Prabang và Xiêng Khoảng. Ngoài
(KOH CPB) tập trung nghiên cứu từ năm 1979 ra, họ còn sống ở các tỉnh như: Luang Nặm Thà,
trong một chương trình điền dã. Công trình “Tiếng Uđomxay, Bokaep, Xayaburi, Phong Sa Lỳ, Hủa
Kxing Mul” (tư liệu điền dã Xô – Việt năm 1979) Phan... Ở Lào, họ được xếp vào khối chung là Lào
bằng tiếng Nga được xuất bản tại Matxcơva năm Thênh (người Lào ở trên cao).
1990. Ở Lào, tiếng Xinh Mun cũng được đề cập đến
trong các công trình của Macey, Proschan.
Tại Thái Lan, phần lớn người Khơ-mú sống tập
trung gần biên giới Lào - Thái Lan, ở các tỉnh Nan
Tiếng Kháng đã được các học giả nước ngoài và Chiềng Rai ở miền Bắc. Họ cũng cư trú ở các
quan tâm từ những năm 70 của thế kỉ XX, nhằm xác tỉnh Kancanaburi và Uthaithani. Tại Trung Quốc,
lập cây phả hệ các ngôn ngữ châu Á, với các tác giả người Khơ-mú sống rải rác ở Sip Song Pan Na,
David Thomas và Robert K Headley (1970); Gerard Yunnan. Còn tại Hoa Kỳ, người Khơ-mú sinh sống
Diffloth (1986); Dao Jie (2007); Chazée (1999); tại bang California.
Paul Sidwell (2015); Naomitsu Mikami (2003);
Jerold A. Edmondson (2010); Nguyễn Hữu Hoành
(2007, 2009); Tạ Quang Tùng (2014, 2016, 2017a,
2017b, 2018, 2019a, 2019b)...
Tiếng Ơ Đu đã được mô tả sơ lược trong cuốn:
“Ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam” (Tạ Văn Thông
& Tạ Quang Tùng, 2017, tr 621-623); “Tiếng Tày
Hạt (Ơ Đu)” (Đặng Nghiêm Vạn, 1983)
Ở Việt Nam, trong vùng người Khơ-mú sinh
sống, còn có các dân tộc: Kinh, Thái, Xinh Mun,
Mông, Mường, Kháng, La Ha...
Xinh Mun là tên chính thức của một dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. Trong các tài liệu khác nhau
và trong giao tiếp xã hội, tên dân tộc này còn được
đọc và ghi: Xinh mun, Xinh Mul, Xinh-mun, Kxinh
mul... Dân số: 23. 278 người (2009). Cư trú ở các
tỉnh: Sơn La (các huyện Yên Châu, Sông Mã, Mai
Sơn, Mộc Châu), Điện Biên (huyện Điện Biên
Đông). Người Xinh Mun đông nhất là ở Yên Châu
và Sông Mã (Sơn La).
Ở Việt Nam, người Xinh Mun tự gọi mình là
Kơxinh mul (tiếng Xinh Mun nghĩa là: “người -
núi”, được hiểu là “người ở núi”, “người trên núi”).
Các tên gọi khác chỉ các nhóm địa phương: Xinh
Mun Dạ hoặc Puộc Dạ (gọi những người Xinh Mun
cư trú lâu đời ở bản Nà Dạ - xã Chiềng On, huyện
Yên Châu, tỉnh Sơn La); Xinh Mun Nghẹt hoặc
Puộc Nghẹt (vốn ở bản Nà Nghẹt thuộc tỉnh Hủa
Phăn - Lào). Có tác giả đề nghị thêm một nhóm
nữa, gọi là Xinh Mun Đông, chỉ những người Xinh
Mun hiện cư trú ở địa phương có tên là Pá Đông -
huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
Hai nhóm địa phương Xinh Mun là Xinh Mun
Dạ và Xinh Mun Nghẹt có một số điểm khác biệt về
văn hóa và trình độ phát triển kinh tế, xã hội. Nhóm
Xinh Mun Dạ ở vùng thấp, gần đường giao thông
hơn, thường xuyên tiếp xúc với người Thái, nên đã
tiếp thu nhiều nét văn hóa Thái hơn. Nhóm Xinh
Mun Nghẹt chuyển cư từ Lào sang cách đây không
lâu. Sang Việt Nam, họ cư trú thành một dải từ xã
Chiềng Hắc (huyện Mộc Châu) qua Tú Nang, Long
Phiêng, Chiềng Hặc (Yên Châu), Phiêng Pằn (Mai
Sơn) của tỉnh Sơn La.
3. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu
Bài viết sử dụng các phương pháp: Miêu tả, từ
phân tích các sự kiện cụ thể nhằm tổng hợp thành
quy luật chung về trạng thái ngôn ngữ trong hoàn
cảnh Việt Nam.
Tư liệu dùng trong bài viết là những quan sát về
ngôn ngữ và đời sống ngôn ngữ (qua điền dã và qua
sách vở trong nước và nước ngoài) về ngôn ngữ các
dân tộc nhóm Khơ-mú ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu,
Điện Biên và Nghệ An.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Đặc điểm các cộng đồng nói các ngôn ngữ
Khơ-mú
Khơ-mú là tên chính thức của một dân tộc thiểu
số ở Việt Nam. Trong các tài liệu khác nhau và trong
giao tiếp xã hội, tên dân tộc này còn được đọc và
ghi: Khơ-mú, Khơmu, Khmu, Kammu, Khamou...
Dân số gồm 72.929 người (thống kê năm 2009).
Cư trú ở các tỉnh: Nghệ An (huyện Tương Dương,
Kỳ Sơn); Sơn La (Thuận Châu, Sông Mã, Mai Sơn,
Mộc Châu, Mường La); Điện Biên (Thành phố
Điện Biên, Tuần Giáo); Yên Bái (Văn Chấn)...
Ở Việt Nam, người Khơ-mú tự gọi mình là
Cơhmụ, Cơmụ hay Cơmmụ, Căm mụ (trong tiếng
Khơ-mú nghĩa là “người”). Ngoài tên gọi chính
thức (Khơ-mú), trước kia người Khơ-mú còn được
gọi gộp chung (với Xinh Mun, La Ha, Kháng....) là
Xá: Người Thái gọi họ là Xá Cẩu; người La Ha gọi
họ là Khá Klẩu; người Mông gọi họ là Mãng Cẩu.
Họ cũng còn được gọi là Mứn Xen, Pu Thênh, Tềnh,
Ngoài tên gọi chính thức, trước kia người Xinh
Mun còn được các dân tộc khác gọi gộp chung
(cùng với người Khơ-mú, La Ha, Kháng....) là Xá.
Ngoài Việt Nam, người Xinh Mun còn cư trú ở
Volume 9, Issue 1
59
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
Xiêng Khoảng và Hủa Phăn của nước Lào.
xã Kim Đa, một vài hộ sinh sống rải rác ở bản Tạ
Xiêng, xã Kim Tiến, bản Xiêng Hương, xã Xá
Lượng (huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An). Tuy
nhiên, ở thời điểm đó hầu hết người Ơ Đu không
nhớ được các phong tục tập quán của mình.
4.2. Đặc điểm trạng thái các ngôn ngữ Khơ-mú
4.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ của dân tộc Khơ-mú
Tiếng Khơ-mú là ngôn ngữ tộc người của dân
tộc Khơ-mú.
Theo các tài liệu tham khảo, ngôn ngữ Khơ-mú ở
Lào có nhiều tiếng địa phương khác nhau: Khơ-mú
Yoan, ở khu vực Luang Nặm Thà; Khơ-mú Luc, ở
phía bắc của tỉnh U Đom Xay; Khơ-mú Rook, ở khu
vực trung tâm của U Đom Xay; Khơ-mú Khroang,
ở phía đông của U Đom Xay; Khơ-mú Koang, ở sát
lưu vực các sông Mê Công, Rook và Uu...
Xưa kia, người Xinh Mun sống quây quần thành
từng bản (gọi là kol) riêng biệt, nhưng hiện nay đã
sống xen kẽ với người các dân tộc khác, chủ yếu
là với người Kinh và người Thái. Hiện nay, ở vùng
người Xinh Mun sinh sống, còn có các dân tộc:
Kinh, Thái, Khơ-mú, Mông, Mường, Kháng, La
Ha...
Kháng là tên chính thức của một dân tộc thiểu số
ở Việt Nam. Trong các tài liệu khác nhau và trong
giao tiếp xã hội, tên dân tộc này còn được đọc và
ghi: Mơ Kháng, Ma Kháng, Bủ Háng, Xá Kháng...
Dân số: 13.840 người (2009). Các địa phương có
đông người Kháng cư trú: huyện Thuận Châu,
Quỳnh Nhai, Mường La (tỉnh Sơn La); Mường Lay,
Mường Tè, Tuần Giáo (tỉnh Điện Biên); Phong Thổ
(tỉnh Lai Châu).
Người Khơ-mú gọi “tiếng, tiếng nói” là khoăm
hoặc quăm/ quắm (từ mượn tiếng Thái). Như vậy,
“tiếng Khơ-mú” gọi theo ngôn ngữ của dân tộc này
là khoăm Kơhmụ (nghĩa là: “tiếng - người” = tiếng
Khơ-mú). “Chữ” trong tiếng Khơ-mú gọi là xư hoặc
chư. Để chỉ động tác “nói”, trong tiếng Khơ-mú có
từ là may hoặc lau; “viết” là tem...
Tiếng Khơ-mú là một ngôn ngữ thuộc loại hình
đơn lập, tiểu loại hình “cổ”, cận âm tiết tính (quasi-
syllabic). Từ âm vị học (phonological word) tiếng
Khơ-mú có thể có hình thức đơn tiết hoặc song tiết.
Trong tiếng Khơ-mú, ranh giới giữa từ âm vị học và
âm tiết có thể không trùng nhau. Bên cạnh các từ có
hình thức đơn tiết, còn thường gặp các từ có hình
thức song tiết (gồm một tiền âm tiết và một âm tiết
chính - âm tiết mang trọng âm; còn gọi là “một âm
tiết rưỡi”).
Trong từ vựng tiếng Khơ-mú ở Việt Nam, có thể
thấy nhiều lớp từ ngữ chồng lên nhau: lớp gốc Nam
Á, lớp mượn Tày - Thái và lớp mượn Việt. Đồng
thời, trong tiếng Khơ-mú hiện có không ít các kết
cấu từ vựng - ngữ pháp mô phỏng theo tiếng Việt.
Một số trường hợp trong những kết cấu này có các
yếu tố vay mượn tiếng Việt hoặc tiếng Thái, kết hợp
với yếu tố Khơ-mú. Trong đó, có những từ Việt,
Thái và Khơ-mú cùng tồn tại, tạo nên các cặp đồng
nghĩa gốc Thái/ Việt/ Khơ-mú.
Ở các địa phương khác nhau người Kháng còn
tự gọi và được các dân tộc khác gọi bằng nhiều
hình thức khác nhau: Người Kháng ở Chiềng Bôm,
Thuận Châu (tỉnh Sơn La) tự gọi là Kháng Huộc
(Kháng Trắng); ở vùng Chiềng Xôm, Thuận Châu
(tỉnh Sơn La) tự gọi là Ma Kháng Hốc, Ma Kháng
Ái (người Kháng ở bản Hốc, bản Ái); ở vùng Mường
Giôn, Quỳnh Nhai (tỉnh Sơn La) tự gọi là Ma Háng
Béng, Ma Háng Cọi (người Kháng ở bản Béng, bản
Cọi) cũng ở huyện Quỳnh Nhai nhưng vùng Chiềng
Ơn lại tự gọi là Bạ Háng; ven sông Đà vùng Thuận
Châu, Mường La, ven suối Nậm Mu thuộc Than
Uyên (tỉnh Lai Châu) tự gọi là Bủ Háng Cuông; ở
bản Bo, Tam Đường (tỉnh Lai Châu) tự gọi là Bộ
Háng; ở Quảng Lâm, Mường Toong, Mường Tè
(tỉnh Điện Biên) tự gọi là Brển.
Người Kháng sống xen kẽ với các dân tộc khác:
Thái, Khơ-mú, Xinh Mun. Người Kháng chịu ảnh
hưởng nhiều từ các dân tộc khác, đặc biệt từ người
Thái.
Ơ Đu là tên chính thức của một dân tộc thiểu số
ở Việt Nam. Trong các tài liệu khác nhau và trong
giao tiếp xã hội, tên dân tộc này còn được đọc và
ghi: I Đuh, Tày Phong, Tày Phọng, Tày Hạt... Dân
số: 376 người (2009). Với dân số hiện nay, đây
là cộng đồng được coi là “dân tộc thiểu số rất ít
người”, thậm chí ít người nhất ở Việt Nam. Cư trú
chủ yếu ở tỉnh Nghệ An (huyện Tương Dương), xen
kẽ với người Khơ-mú và Thái,
Theo các tài liệu hiện có, tiếng Khơ-mú có thể
được phân biệt thành hai phương ngữ chính: “Khơ-
mú Đông” và “Khơ-mú Tây”.
Người Ơ Đu còn sống tại tỉnh Xiêng Khoảng
của Lào. Ở Lào, họ được xếp vào khối cộng đồng
được gọi chung là Lào Thênh (nghĩa là “người Lào
ở trên cao”). Phần lớn các bản của người Ơ Đu ở
các vùng núi rừng xa xôi, khó khăn về kinh tế, văn
hóa và giáo dục. Ở nhiều nơi, họ sinh sống bên cạnh
người Lào và người Mông.
Cho đến nay, việc xác định nguồn gốc lịch sử
của người Ơ Đu ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở sự
đoán định. Sau Cách mạng Tháng Tám, người Ơ
Đu quy tụ về sinh sống ở bản Xốp Pột, Kim Hòa,
Khơ-mú Đông được phân bố ở các tỉnh Phong Sa
Lỳ, Luang Prabang, Hủa Phan và Chiềng Khuang
của Lào; các tỉnh Nghệ An, Sơn La, Điện Biên, Yên
Bái, Thanh Hóa của Việt Nam; tỉnh Sip Song Pan
Na của Trung Quốc. Khơ-mú Tây được phân bố ở
các tỉnh Luang Nặm Thà, U Đom Xay, Bokaep của
Lào; ở các tỉnh Nan và Chiềng Rai ở phía Bắc Thái
Lan; vài làng ở Sip Song Pan Na của Trung Quốc.
Sự khác biệt giữa hai phương ngữ nói trên chủ yếu
về mặt từ vựng và ngữ âm. Trong tiếng Khơ-mú
60
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
Tây có sự phân biệt âm vực (register) trong từ âm vị Mun hiện nay là tam ngữ Xinh Mun - Việt - Thái. Ở
học, có thể coi là những dấu hiệu manh nha của đối một số nơi, người Xinh Mun còn biết tiếng Mông,
lập thanh điệu: “cao” (high) và “thấp” (low).
Tày. Tiếng Xinh Mun hiện chủ yếu sử dụng trong
gia đình, làng bản..., trong nội bộ của dân tộc Xinh
Mun, trong một số hoàn cảnh giao tiếp nhất định
ở dạng khẩu ngữ (không ở dạng ngôn ngữ thành
văn). Tiếng được dùng phổ biến trong sinh hoạt
hàng ngày ở gia đình người Xinh Mun, thậm chí cả
trong cúng bái, hát hò, cưới xin, hội hè... Điều này
có thể còn có lí do là hiện nay tình trạng hôn nhân
hỗn hợp Xinh Mun - Thái tương đối phát triển. Đa
số người Xinh Mun sử dụng được tiếng Việt nhưng
vẫn ở trình độ thấp, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở nói
năng trao đổi hàng ngày (chưa có khả năng tiếp
nhận và tạo ra các văn bản viết) và chỉ ở những giao
tiếp giản đơn. Rất ít nghiên cứu về tiếng Xinh Mun.
Ngôn ngữ này được truyền lại cho thế hệ sau chỉ
bằng cách truyền miệng.
Tiếng Khơ-mú Việt Nam ở các địa phương khác
nhau có một số khác biệt, nhưng về căn bản là thống
nhất.
Người Khơ-mú ở Việt Nam chưa có chữ viết.
Theo một số tài liệu, ở Lào tiếng Khơ-mú được ghi
bằng chữ dạng Sanscrit. Chữ này không phổ biến ở
Việt Nam.
Trạng thái ngôn ngữ phổ biến ở vùng người
Khơ-mú Việt Nam hiện nay là đa ngữ Khơ-mú -
Việt - Thái. Ở một số nơi, người Khơ-mú còn biết
tiếng Lào, Mông. Tiếng Khơ-mú hiện chủ yếu sử
dụng trong gia đình, làng bản..., trong nội bộ của
dân tộc Khơ-mú, chỉ được dùng trong một số hoàn
cảnh giao tiếp nhất định ở dạng khẩu ngữ (không ở
dạng ngôn ngữ thành văn).
4.2.3. Đặc điểm ngôn ngữ của dân tộc Kháng
Tiếng Kháng là ngôn ngữ tộc người của dân tộc
Kháng.
Tiếng Khơ-mú hiện được truyền lại cho thế hệ
sau chỉ bằng cách truyền miệng. Rất ít nghiên cứu
về tiếng Khơ-mú.
Những kết quả xem xét từ góc độ địa lý ngôn
ngữ học, lịch sử tộc người, ý thức tự giác tộc người
cũng giúp khẳng định: Dân tộc Kháng nói hai ngôn
ngữ (tạm quy ước gọi chung là “tiếng Kháng”):
Tiếng Kháng khu vực Tuần Giáo, Thuận Châu,
Mường La, Quỳnh Nhai (tỉnh Sơn La); tiếng Kháng
ở Quảng Lâm (tỉnh Điện Biên).
Ngôn ngữ Kháng khu vực Tuần Giáo, Thuận
Châu, Mường La, Quỳnh Nhai lại có thể được phân
ra 2 tiếng địa phương: Tiếng Kháng vùng Tuần
Giáo (tỉnh Điện Biên) và Thuận Châu (tỉnh Sơn La)
phân bố ở hữu ngạn sông Đà; tiếng Kháng Mường
La, Quỳnh Nhai (tỉnh Sơn La) ở tả ngạn sông Đà.
Các ngôn ngữ dân tộc Kháng thuộc loại hình
đơn lập, tiểu loại hình “trung”. Nhìn chung, từ âm
vị học tiếng Kháng phần lớn có hình thức đơn tiết.
Trong tiếng Kháng, ranh giới giữa từ âm vị học và
âm tiết trùng nhau. Đây là các ngôn ngữ có thanh
điệu: 4 - 6 thanh (tùy các tiếng địa phương khác
nhau).
4.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ của dân tộc Xinh Mun
Tiếng Xinh Mun là ngôn ngữ tộc người của dân
tộc Xinh Mun.
Người Xinh Mun gọi “tiếng, tiếng nói” là khoăm
hoặc quăm (từ mượn tiếng Thái). Như vậy, “tiếng
Xinh mun” gọi theo ngôn ngữ của dân tộc này là
khoăm Kơxinh mul (nghĩa là: “tiếng - người - núi”
= tiếng Xinh mun).
Tiếng Xinh Mun là một ngôn ngữ thuộc loại
hình đơn lập, tiểu loại hình “cổ”, cận âm tiết tính
(quasi-syllabic). Từ âm vị học (phonological word)
tiếng Xinh Mun có thể có hình thức đơn tiết hoặc
song tiết. Trong tiếng Xinh Mun, ranh giới giữa từ
âm vị học và âm tiết có thể không trùng nhau. Bên
cạnh các từ có hình thức đơn tiết, còn thường gặp
các từ có hình thức song tiết (gồm một tiền âm tiết
và một âm tiết chính - âm tiết mang trọng âm; còn
gọi là “một âm tiết rưỡi”).
Tiếng Xinh Mun không có thanh điệu.
Người Kháng chưa có chữ viết.
Trong từ vựng tiếng Xinh mun, có thể thấy nhiều
lớp từ chồng lên nhau: lớp gốc Nam Á, lớp mượn
Tày - Thái và lớp mượn Việt.
Trạng thái ngôn ngữ phổ biến ở vùng người
Kháng Việt Nam hiện nay là đa ngữ Kháng - Việt -
Thái. Ở vùng người Kháng, tiếng Việt và tiếng Thái
trở thành những ngôn ngữ giao tiếp chung của các
dân tộc ở phạm vi rộng, đa dạng và mức độ sâu sắc.
Do dân tộc Kháng có số dân ít lại sống phân tán,
xen kẽ vào những làng bản đông đúc của dân tộc
Thái ở vùng đất Tây Bắc Việt Nam nhiều thế kỉ nay,
nên dân tộc Kháng đã chịu ảnh hưởng của dân tộc
Thái khá đậm nét về tiếng nói và phong tục. Người
Kháng nói tiếng Thái khá thông thạo. Trong tiếng
Kháng, vốn từ chung với tiếng Thái khá lớn.
Theo cảm thức bản ngữ, tiếng Xinh Mun ở Việt
Nam thuộc các nhóm Xinh Mun Nghẹt và Xinh
Mun Dạ có một số khác biệt, đặc biệt về mặt ngữ
âm (“giọng nói”). Tiếng Xinh Mun Dạ có rất nhiều
từ ngữ vay mượn của tiếng Thái và tiếng Việt. Tiếng
Xinh Mun Nghẹt ít người nói, nhưng hiện còn bảo
tồn được sắc thái giọng nói Xinh Mun tốt hơn: Phần
đầu của các từ Xinh Mun Nghẹt còn giữ được nhiều
tiền âm tiết và tổ hợp phụ âm; Tiếng nói nhóm này
có nhiều từ ngữ chung với Khơ-mú...
Tiếng mẹ đẻ của người Kháng hầu như chỉ được
sử dụng trong gia đình, làng bản, ở các thế hệ lớn
tuổi. Các hoàn cảnh khác, phần lớn người Kháng
Người Xinh Mun ở Việt Nam chưa có chữ viết.
Trạng thái đa ngữ phổ biến ở vùng người Xinh
Volume 9, Issue 1
61
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
dùng tiếng Việt và tiếng Thái.
và lưu truyền ở dạng khẩu ngữ (không có văn bản
bằng chữ viết…), rất nghèo nàn về từ vựng và các
kết cấu ngữ pháp, kém sức biểu cảm do bị pha trộn
và ít được sử dụng.
Thực tế đang đặt ra yêu cầu rất cấp bách phải
bảo tồn và phát triển vốn văn hóa truyền thống,
trong đó có ngôn ngữ của dân tộc này.
4.2.4. Đặc điểm ngôn ngữ của dân tộc Ơ Đu
Tiếng Ơ Đu là ngôn ngữ của dân tộc Ơ Đu. Tuy
nhiên, có không ít người Ơ Đu đã nhận ngôn ngữ
họ đang nói (chủ yếu là Thái, Khơ-mú) là tiếng mẹ
đẻ của họ.
Cho đến nay, sự hiểu biết về tiếng Ơ Đu rất ít.
Tiếng Ơ Đu gần như chưa được nghiên cứu. Người
Ơ Đu chưa có chữ viết.
Những người già Ơ Đu khẳng định, người Ơ Đu
đã từng có ngôn ngữ riêng, tiếng của họ nghe như
tiếng của người Khơ-mú. Do số dân quá ít, sống xen
kẽ với các dân tộc khác, lại hầu như không có quan
hệ với đồng tộc ở Lào, nên các thế hệ Ơ Đu còn lại
bây giờ đã quên hết tiếng nói, thậm chí không còn
nhớ cả phong tục tập quán. Một số rất ít người già
còn nhớ được khoảng trên dưới 100 từ ngữ. Trong
5.1.2. Những điểm riêng biệt
- Ở Việt Nam đã gặp những khó khăn trong xác
định thành phần dân tộc, khi một cộng đồng: Sử
dụng hai hay hơn hai ngôn ngữ. Có hiện tượng thay
thế ngôn ngữ: Dùng ngôn ngữ khác chứ không dùng
tiếng mẹ đẻ, thậm chí coi ngôn ngữ khác là tiếng mẹ
đẻ của mình. Dân tộc Kháng nói bằng 2 ngôn ngữ.
Dân tộc Ơ Đu chủ yếu nói bằng ngôn ngữ của dân
tộc khác.
- Hiện nay, nguy cơ thất truyền ngôn ngữ xảy ra
những năm qua, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ ở các dân tộc như Khơ-mú, Xinh Mun, Kháng, Ơ
An đã có một số nỗ lực trong việc khôi phục tiếng Đu. Sự thất truyền này có những biểu hiện không
nói của người Ơ Đu, mở một số lớp dạy học tiếng. như nhau. Khơ-mú, Xinh Mun, Kháng là những dân
tộc có nguy cơ rất cao; Ơ Đu là một dân tộc đang
có nguy cơ mất hoàn toàn bản sắc văn hóa truyền
thống.
5.2. Sự đánh giá và giải pháp từ bức tranh hiện
thực
Theo lời kể, khi đã về già người Ơ Đu mới cố
học lấy vài từ tiếng mẹ đẻ bằng cách truyền miệng,
với mục đích khi về thế giới bên kia “chào hỏi trò
chuyện với ông bà tổ tiên”. Ngôn ngữ này đã “hầu
như chỉ còn trong ký ức”.
Trạng thái ngôn ngữ phổ biến ở vùng người Ơ
- Cho đến nay, theo ý kiến của đa số những nhà
Đu Việt Nam hiện nay là đa ngữ: Tiếng Việt - Khơ- khoa học, trong hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, các
mú - Thái... Người Ơ Đu sử dụng được tiếng Việt tiêu chí để một cộng đồng được gọi là “dân tộc”
ở trình độ thấp. Hiện nay người láng giềng gần (Ethnic) như sau: Thống nhất chung về văn hoá vật
gũi nhất của Ơ Đu là Thái. Tiếng Thái đang có xu chất và tinh thần; thống nhất chung về ngôn ngữ;
hướng thay thế cho tiếng Ơ Đu.
thống nhất chung về ý thức tộc người và tên gọi
(cùng nhận một tộc danh).
5. Thảo luận
Các tiêu chí trên hiện nay cần được áp dụng
uyển chuyển ở Việt Nam. Đối với các dân tộc thuộc
nhóm Khơ-mú ở Việt Nam, trước mắt cần đặt lên
trên hết là tiêu chí “thống nhất chung về ý thức tộc
người và tên gọi (cùng nhận một tộc danh)”.
- Bảo tồn và phát triển các ngôn ngữ của các dân
tộc thuộc nhóm Khơ-mú để làm gì?
Thực tế thì đối với tất cả các dân tộc, ngôn ngữ
không chỉ là một thành tố cơ bản của văn hoá, một
biểu hiện của những giá trị nhân văn, mà còn là
phương tiện để hình thành, phản ánh và lưu truyền
các hình thái văn hóa khác (văn nghệ truyền thống;
những kinh nghiệm sống, thế giới quan và nhân
sinh quan; tình cảm thái độ...), hệ thống tri thức bản
địa quan trọng nhất trong đời sống văn hoá tinh thần
của một dân tộc.
Bảo tồn và phát triển các ngôn ngữ của các dân
tộc thuộc nhóm Khơ-mú góp phần bảo tồn và phát
triển sự đa dạng văn hóa trong quốc gia đa dân tộc
Việt Nam, qua việc bảo tồn và phát triển những nét
bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc thiểu
số, trong đó có tiếng mẹ đẻ của dân tộc này.
5.1. Những điểm chung và những điểm riêng
biệt trong trạng thái ngôn ngữ của các dân tộc
thuộc nhóm Khơ-mú ở Việt Nam
5.1.1. Những điểm chung
- Các ngôn ngữ nhóm Khơ-mú rất gần gũi nhau
về cội nguồn và loại hình. Đây là những ngôn ngữ
hiện còn giữ lại được trạng thái rất “cổ” của các
ngôn ngữ đơn lập. Những “mảnh” này có thể kể
nhiều chuyện về quan hệ cội nguồn, loại hình, tiếp
xúc của các ngôn ngữ, đặc biệt là quan hệ với tiếng
Việt và với các ngôn ngữ khác. Thậm chí cả về lịch
sử tộc người của chúng.
- Hiện tượng đa ngữ (phổ biến là song ngữ) phổ
biến ở tất cả các dân tộc thiểu số nhóm Khơ-mú:
Tiếng Việt - tiếng mẹ đẻ các dân tộc này - tiếng
Thái, tiếng Lào. Khơ-mú... Tuy nhiên, hiện tượng
đa ngữ này lại thường là bất bình đẳng (thế yếu
thuộc về các dân tộc ít người hơn), tạo nên những
điều kiện bất lợi cho các ngôn ngữ này.
Hiện nay, ngôn ngữ tộc người của các dân tộc
nhóm Khơ-mú đang đứng trước nguy cơ bị giảm
thiểu các chức năng xã hội, chỉ được dùng trong
một số hoàn cảnh giao tiếp nhất định ở gia đình
và làng xóm, không có chữ viết, chỉ được sử dụng
- Phải làm gì để bảo tồn và phát triển ngôn ngữ
của các dân tộc thuộc nhóm Khơ-mú?
62
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
Cần xác định phương hướng kế hoạch hóa và có cho ngôn ngữ này “hồi sinh” trong đời sống.
chính sách riêng biệt đối với các ngôn ngữ của các
dân tộc có nguy cơ bị thất truyền ngôn ngữ rất cao.
Ngôn ngữ của các dân tộc thuộc nhóm Khơ-mú đều
thuộc loại này.
Quan tâm nghiên cứu, sưu tầm, tổ chức dạy và
học các ngôn ngữ có nguy cơ thất truyền và sử dụng
nhiều hơn trong đời sống.
6. Kết luận
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013, Điều 5 khẳng định: “Ngôn
ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền
dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc,
phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn
hoá tốt đẹp của mình”. Quyết định số 53/CP ngày
Giúp cho người bản ngữ hiểu rõ hơn về vai trò di 22/8/1980 của Chính phủ về chính sách đối với
sản - ngôn ngữ đối với bản sắc văn hóa truyền thống ngôn ngữ và chữ viết dân tộc thiểu số ở Việt Nam
của họ và có ý thức bảo tồn, phát triển tiếng mẹ đẻ; cũng khẳng định: “…Tiếng nói và chữ viết của mỗi
dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa là vốn quý của
các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hoá chung của cả
nước. Ở vùng dân tộc thiểu số, tiếng nói và chữ viết
dân tộc thiểu số được dùng đồng thời với tiếng và
chữ phổ thông”.
Đặc biệt, mang đến cho xã hội nói chung và các
nhà quản lý nói riêng sự nhận thức sâu sắc hơn về
vai trò ngôn ngữ các dân tộc, có hành động thiết
thực hơn đối với sự đa dạng văn hóa truyền thống
trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam.
Có thể xem bài viết này là một nghiên cứu
trường hợp (nhóm ngôn ngữ Khơ-mú) về trạng thái
ngôn ngữ thường gặp ở các dân tộc thiểu số Việt
Nam. Từ đó hướng tới những giải pháp tích cực đối
với ngôn ngữ của các dân tộc có cùng trạng thái này,
ở Việt Nam.
Để bảo tồn ngôn ngữ Ơ Đu, cần có nhiều công
việc cần làm ngay. Trong đó, quan tâm, tìm hiểu về
ngôn ngữ này trong mối quan hệ với tiếng nói Ơ Đu
ở Lào… Nên sưu tập lại các từ ngữ và câu, văn bản
truyền miệng, ghi lại bằng chữ viết Ơ Đu rồi biên
soạn và in thành tài liệu để dạy và học, tạo điều kiện
Tài liệu tham khảo
Đặng Nghiêm Vạn. (1983). Mảng/Ơ Đu
vocabulary (Michel Ferlus, ed.). Hà Nội.
Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Trúc Bình, Nguyễn
Văn Huy, & Thanh Thiên. (1972). Những
nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc
Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
Dao Jie. (2007). Bumang yu yanjiu (A study of
Bumang). Beijing: Minzu University.
David Thomas, & Headley R.K. (1970). More
on Mon- Khmer supgroupings. Lingua, 25,
398–418.
Jerold A Edmondson. (2010). The Khang
language of Viet Nam in comparision to
Ksing Mun (Xinh Mun). In Kenneth A.
McElhanon & Ger Reesink (Eds.), A Mosaic
of languages and cultures (pp. 138–154).
Jorgen Rischel. (1989). Can the Khơ-mú
component in Mlabri (‘Phi Tong Luang’) be
identified as Old T’in? Acta Orientalia, 50,
79–115.
Khổng Diễn. (1999). Dân tộc Khơ-mú ở Việt
Nam. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc.
Lã Văn Lô, Nguyễn Hữu Thấu, Mai Văn Trí, Ngọc
Anh, & Mạc Đường. (1969). Các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Văn hóa.
Laurent Chazée. (1999). The Peoples of Laos:
Rural and Ethnic Diversities. Bangkok:
White Lotus.
Garnier Francis. (1873). Voyage d’exploration
en Indo-Chine effectué pendant les années
1866, 1867, et 1868 par une commission
française, présidée par Doudart de Lagreé,
et publié...sous la direction de...Francis
Garnier. Paris: Hachette Book Group.
Gerrard Diffloth. (1986). Austro - Asiatic
Languages. In Encyclopedia Britanica (16th
ed). Macropedia.
Harry Shorto. (2006). A Mon – Khmer
Comparative Dictionary. Australian: Pacific
Linguistics Publishers.
Haudricourt A.G. (1973). Mấy điều nhận xét về
lý luận và thực tiễn nhân một chuyến thăm
các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc và Việt Bắc.
Tạp Chí Ngôn Ngữ, Số 3.
Henri Delcros, & Jean Subra. (1966). Petit
dictionnaire du langage des Khmu’ de
la région de Xieng-Khouang. Vientiane:
Mission Catholique.
Naomitsu Mikami. (2003). A Khang Phonology
and Wordlist. In Hiromi Ueda (Ed.), Reports
on Minority Languagesin Mainland Southeast
Asia (ed). Osaka Gakuin University.
Nguyễn Hữu Hoành. (2007). Vị trí tiếng Kháng
trong các ngôn ngữ Mon – Khmer. Tạp Chí
Ngôn Ngữ, Số 4.
Nguyễn Hữu Hoành. (2009). Ngữ âm tiếng
Kháng (những nhận xét ban đầu). In Tìm
hiểu ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam. Hà
Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
Paul Sidwell. (2015). The Palaungic Languages:
Classification, Reconstruction and Comparative
Lexicon. Munich: Lincom Europa.
Volume 9, Issue 1
63
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
Phạm Quang Hoan, & Đặng Thị Hoa. (2011).
Người Kháng ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Văn
hóa Dân tộc.
Suwilai Premsrirat. (1993). Thai - Khmu -
English Dictionary.
Suwilai Premsrirat. (2001). Thesaurus of Khmu
Dialects in Southeast Asia. Salaya.
Tạ Quang Tùng. (2014). Đặc điểm tiếng Khơ-
mú ở Tây Bắc Việt Nam. Ngôn Ngữ và Văn
Hoá Vùng Tây Bắc. Sơn La.
Tạ Quang Tùng. (2016). Hệ thống thanh điệu
tiếng Kháng (trên cơ sở cứ liệu phân tích
bằng máy tính). Tạp Chí Ngôn Ngữ và Đời
Sống, Số 2(244).
Tạ Quang Tùng. (2017a). Tiếng Kháng ở Việt
Nam trước nguy cơ mai một. Hội Thảo Ngôn
Ngữ Học Toàn Quốc. Đại học Quy Nhơn.
Tạ Quang Tùng. (2017b). Từ âm vị học và âm
tiết trong các ngôn ngữ Khơ-mú ở Việt Nam.
Tạp Chí Ngôn Ngữ và Đời Sống, Số 6.
Tạ Quang Tùng. (2018). Chữ viết các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam với việc biên soạn từ
điển (trường hợp tiếng Kháng). Tạp Chí Từ
Điển Học và Bách Khoa Thư, Số 2, tr.49-57.
Tạ Quang Tùng. (2019a). Đặc điểm hệ thống
nguyên âm tiếng Kháng – một ngôn ngữ có
nguy cơ mai một ở Việt Nam (khái quát từ
những kết quả phân tích trên máy tính. Ngôn
Ngữ Dân Tộc Thiểu Số Có Nguy Cơ Mai
Một ở Việt Nam Hiện Nay - Những Vấn Đề
Lí Luận và Thực Tiễn. Đại học Sư phạm Thái
Nguyên.
Tạ Quang Tùng. (2019b). Trạng thái ngôn ngữ
Kháng ở Việt Nam. Hội Thảo Ngôn Ngữ Học
Toàn Quốc. Bình Dương: Đại học Thủ Dầu
Một.
Tạ Văn Thông, & Tạ Quang Tùng. (2017). Ngôn
ngữ các dân tộc ở Việt Nam. Nxb. Đại học
Thái Nguyên.
Trần Bình. (1999). Dân tộc Xinh Mun ở Việt
Nam. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc.
Viện Dân tộc học. (1978). Các dân tộc ít người ở
Việt Nam (Khu vực phía Bắc). Hà Nội: Nxb.
Khoa học Xã hội.
Viện Hàn lâm Khoa học Nga, & Ủy ban Khoa
học Xã hội Việt Nam. (1990). Tiếng Xinh mun
(Kxinh Mul). Matxcơva: Nxb. Khoa học.
LANGUAGE STATUS OF KHO-MU ETHNIC GROUP IN VIETNAM
Ta Van Thonga
Ta Quang Tungb
a Vietnam Institute of Lexicography and
Encyclopedia
Email: tavanthong1955@gmail.com
b Vietnam Institute of Linguistics
Abstract
Thepurposeofthisscientificpaperistopointoutthesimilarities
and differences in the language status of Kho-mu ethnic group in
Vietnam including: Kho-mu, Xinh Mun, Khang, and O Du.
Email: quangtung7391@gmail.com
The similarities: These are languages that are very close in
origin, maintaning the “ancient” status of isolating languages.
Received:
Reviewed:
Revised:
20/2/2020
28/2/2020
5/3/2020
Multilingualism (bilingualism) is common among all Kho-mu
ethnic group: Vietnamese - the mother tongue of these ethnic groups
– Thai language, Lao language..... However, this phenomenon is
often unequal.
The differences: The Khang speaks two languages. The
languages of Kho-mu, Xinh Mun and Khang ethnic group are at
high risk of being lost; O Du is in danger of completely losing
its traditional cultural identity, including ethnic language (change
into speaking Thai language or Kho-mu language).
Accepted:
Released:
20/3/2020
31/3/2020
DOI:
This can be considered as a case study of the language status
of ethnic minorities in Vietnam.
Keywords
Ethnic minorities; Multilingual; Endangered language; Kho-mu
language group; Language status.
64
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
Bạn đang xem tài liệu "Trạng thái ngôn ngữ các dân tộc thuộc nhóm Khơ-Mú ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- trang_thai_ngon_ngu_cac_dan_toc_thuoc_nhom_kho_mu_o_viet_nam.pdf