Tương tác thể loại trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại

Khoa học Xã hội và Nhân văn  
Tương tác thể loại  
trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại  
Đỗ Thị Cẩm Vân*  
Học viện Khoa học xã hội  
Ngày nhận bài 18/2/2021; ngày chuyển phản biện 22/2/2021; ngày nhận phản biện 15/3/2021; ngày chấp nhận đăng 22/3/2021  
Tóm tắt:  
Trong quá trình vận động và phát triển, các thể loại văn học không tồn tại một cách độc lập mà có sự tương tác với  
nhau. Tiểu thuyết có khả năng thực hiện sự tương tác thể loại bởi “tiểu thuyết cho phép đưa vào, lắp ghép vào trong  
nó nhiều thể loại khác nhau, kể cả những thể loại nghệ thuật (những truyện ngắn, những bài thơ trữ tình, những  
trường ca, những màn kịch nói…) lẫn những thể loại phi nghệ thuật (các thể văn đời sống hàng ngày, văn hùng biện,  
khoa học, tôn giáo…)” [1]. Ở tiểu thuyết theo lối viết truyền thống với đề tài lịch sử Việt Nam đương đại (qua các  
trường hợp tiêu biểu như Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Mộng Giác...), sự tương tác giữa thể với thể  
được xem là hình thức phổ biến nhất. Các hình thức tiêu biểu của tương tác thể loại trong tiểu thuyết với đề tài lịch  
sử là tương tác giữa truyện ngắn với tiểu thuyết, giữa thơ và tiểu thuyết… Tương tác thể loại thể hiện ý thức sáng  
tạo và sự thể nghiệm của người sáng tác trước yêu cầu đổi mới của thực tiễn đời sống văn học.  
Từ khóa: liên thể loại, liên văn bản, tiểu thuyết lịch sử.  
Chỉ số phân loại: 5.10  
Đặt vấn đề  
Inter-genres in contemporary  
“Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến  
chuyển và chưa định hình. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết  
chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những  
Vietnamese historical novels  
Thi Cam Van Do*  
Graduate Academy of Social Sciences  
khả năng uyển chuyển của nó” [2]. Kiến giải cụ thể hơn,  
Bakhtin viết: “Đó là thể loại duy nhất nảy sinh và được nuôi  
dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân  
thuộc, sâu sắc với thời đại ấy, trong khi đó thì các thể loại lớn  
khác chỉ được thời đại mới kế thừa ở dạng đã hoàn tất… do  
đó nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản hơn, nhạy bén hơn bản  
thân hiện thực. Chỉ kẻ biến đổi mới hiểu được sự biến đổi”  
[2]. Chính tính năng động này của tiểu thuyết đã quyết định  
cách mà nó tồn tại trong mối quan hệ sống với cộng đồng các  
thể loại văn học khác: “nó lấn át thể loại này, thu hút thể loại  
kia vào trong cấu trúc của mình, biện giải lại và sắp xếp lại  
trọng tâm cho chúng… Vào những thời đại mà tiểu thuyết  
thống ngự, hầu hết các thể loại ít hay nhiều đều bị “tiểu thuyết  
hóa” bắt đầu vang âm một cách mới, khác hẳn âm hưởng của  
chúng ở những thời đại mà trong nền văn học lớn chưa có tiểu  
thuyết” [1]. Như vậy, sự “lấn át” và “thu hút” đã tạo nên tính  
liên thể loại - một thuộc tính của liên văn bản - đã góp phần  
vào sự cách tân và biến đổi của tiểu thuyết cho phù hợp với sự  
biến đổi của đời sống xã hội đương đại [3].  
Received 18 February 2021; accepted 22 March 2021  
Abstract:  
In the development process and social movements, the literary  
genres do not exist independently but have interaction with  
each other. Novels are capable of performing genres interaction  
because “the novel allows to put into it many different genres,  
including artistic genres (short stories, lyric poems, epics,  
speech plays...) and non-artistic genres (literature in daily  
life, rhetoric, science, religion...)”[1]. Novels with traditional  
writing style about contemporary Vietnamese history  
(prominent writers such as Nguyen Xuan Khanh, Vo Thi Hao,  
Nguyen Mong Giac...), the interaction among literary genres is  
considered as the most common form. Typical forms of genre  
interaction in novels with historical themes are the interaction  
between short stories and novels, poetry and novels... Genre  
interaction expresses the writer’s sense of creativity and  
experienceintheinnovationrequirementofliterarylifepractice.  
Nguyễn Thành Thi quan niệm tương tác thể loại là “hiện  
tượng hai hay nhiều thể loại của một giai đoạn, một thời kỳ,  
một nền văn học, thuộc về một hay nhiều hệ thống thể loại,  
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, xâm nhập vào nhau, mô phỏng  
nhau… để cùng biến đổi hoặc hình thành thể loại mới (với cấu  
Keywords: historical novels, inter-genres, inter-text.  
Classification number: 5.10  
*Email: camvan171085@gmail.com  
63(4) 4.2021  
56  
Khoa học Xã hội và Nhân văn  
trúc ít nhiều thay đổi về “tố chất thẩm mỹ chủ đạo”, “giọng hướng hậu hiện đại) một mặt là kiến thức của con người thời  
điệu”, “dung lượng và cấu trúc chung” của tác phẩm)” [4]. quá khứ, mặt khác đây là nét đẹp văn hóa của lịch sử Việt  
Trước yêu cầu đổi mới của thực tiễn đời sống văn học đương  
đại, ý thức sáng tạo và sự thể nghiệm của người sáng tác thể  
hiện rất rõ ở quá trình cách tân thể loại. Trong đó, tiểu thuyết  
lịch sử Việt Nam đương đại là một bộ phận góp phần không  
nhỏ vào tiến trình làm mới tính chất của tiểu thuyết. Từ 1986  
đến nay, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam xuất hiện nhiều tên tuổi  
với những tác phẩm gây được sự chú ý: Nguyễn Xuân Khánh,  
Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Quang Thân, Võ Thị Hảo, Nguyễn  
Mộng Giác, Vũ Ngọc Đĩnh, Ngô Văn Phú, Lê Đình Danh,  
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sĩ, Vũ Xuân Tửu, Trần Thanh Cảnh,  
Đặng Ngọc Hưng, Lưu Sơn Minh… Trên đà phát triển, trong  
tiến trình viết lại lịch sử, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương  
đại chú ý đến kỹ thuật xử lý kết cấu văn bản và khai thác hệ  
thống tiền văn bản. Trong phạm vi của bài viết, chúng tôi  
nghiên cứu kỹ thuật dung nạp thể loại trong tiểu thuyết lịch sử  
Việt Nam đương đại thông qua hai sự dung nạp thể loại tiêu  
biểu là truyện ngắn và thơ.  
Nam bởi hầu như những con người của lịch sử Việt Nam đều  
là những người con của thơ ca. Việc tái tạo những con người  
của lịch sử vì thế không thể tách rời họ khỏi thơ ca. Đồng  
thời, lịch sử là cái đã qua, những câu chuyện và giai thoại về  
họ luôn là một phần của tiểu thuyết. Tiểu thuyết với đề tài lịch  
sử không nhiều tác phẩm thực hiện quá trình truyện ngắn hóa  
tiểu thuyết như tiểu thuyết theo khuynh hướng hậu hiện đại,  
nhưng tiểu thuyết lịch sử chứa đựng trong nó những truyện  
ngắn để biến thể loại này là những bộ phận không thể thiếu  
để cấu thành tiểu thuyết. Thể loại tiểu thuyết do đó không chỉ  
dung chứa một thể loại mà còn dung chứa nhiều thể loại khác  
nữa. Đây có thể xem là một bộ phận làm nên thành công của  
tiểu thuyết lịch sử.  
Truyện ngắn trong tiểu thuyết  
Trong lịch sử tiểu thuyết Việt Nam, lối viết “truyện lồng  
truyện”, “tính phân mảnh” hay “trích dẫn ở cấp độ thể loại”  
không phải là hoàn toàn mới mẻ. Tuy nhiên, điều đáng chú ý  
là nhiều nhà văn đã tạo nên những kết cấu đan xen bằng nhiều  
kỹ thuật có chủ ý tạo nên những hiệu quả nghệ thuật nhất  
định. Biểu hiện của sự xâm nhập truyện ngắn vào tiểu thuyết  
lịch sử trước hết thể hiện ở việc “phân mảnh đại tự sự thành  
những tiểu tự sự” [3]. Khác với cấu trúc truyền thống của tiểu  
thuyết lịch sử là đi theo cấu trúc chương hồi, mỗi cuốn tiểu  
thuyết chỉ tập trung vào những sự kiện, biến cố nhất định, tiểu  
thuyết lịch sử Việt Nam đương đại có xu hướng chia nhỏ đại  
tự sự và cấu trúc tác phẩm từ những tiểu tự sự và lắp ghép  
chúng bên cạnh nhau. Với Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh  
[5] đã xây dựng cấu trúc tác phẩm bằng việc đan xen kết cấu  
vòng tròn, tác phẩm mở đầu bằng hội thề Đồng Cổ, kết thúc  
là hội Đốn Sơn; kết cấu đầu cuối tương ứng lấy bạo lực làm  
cảnh mở đầu: cuộc hành quyết pháp trường với Nguyên Hàng,  
Nguyên Uyên, và kết thúc cũng bằng bạo lực qua cuộc tàn  
sát phe phái nhà Trần trên kinh đô mới… Với Giàn thiêu, Võ  
Thị Hảo [6] triển khai qua hai câu chuyện: câu chuyện về vua  
Lý Thần Tông (từ chương IX đến chương XV), câu chuyện  
về Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh (từ chương XVI đến chương XXI).  
Mỗi chương mang hình thức của một truyện ngắn hoàn chỉnh  
về mặt nội dung và hình thức thể loại. Với Hùng binh, Đặng  
Ngọc Hưng [7] phân chia thành 20 chương, mỗi chương đều  
được đặt tên, tên của mỗi chương có thể xem là nhan đề của  
20 truyện ngắn được lắp ghép lại với nhau. Mỗi chương đã  
triển khai một nội dung, một tình tiết, có kết cấu đầy đủ cho  
một hình thức của một truyện ngắn. Với tiểu thuyết lịch sử  
Nguyễn Du, Nguyễn Thế Quang [8] cũng chia nhỏ văn bản  
thành những chương gắn với các giai đoạn trong cuộc đời  
của đại thi hào. Người đọc có thể tiệm cận với văn bản từ bất  
cứ giai đoạn nào mà không cần phải theo dõi xuyên suốt tác  
phẩm. Lưu Sơn Minh khi kết thúc tiểu thuyết lịch sử Trần  
Quốc Toản [9] đã đưa vào phụ lục truyện ngắn Nước mắt trúc.  
Theo lời của tác giả, cuốn tiểu thuyết Trần Quốc Toản “vốn có  
Hai hình thức tương tác thể loại tiêu biểu trong tiểu thuyết Việt  
Nam đương đại  
Theo Đào Tuấn Ảnh, “Đối với văn học hậu hiện đại, liên  
văn bản, tức sự tương quan của văn bản chính với các văn  
bản văn học, nghệ thuật khác, trở thành nguyên tắc trung tâm  
trong việc mô hình hóa thế giới” [1]. Trong sự tương quan đó  
của văn bản, các thể loại có thể tương tác với nhau tạo ra tính  
kết nối liên văn bản. Nguyễn Thành Thi trong bài viết Về xu  
hướng tương tác thể loại giữa truyện ngắn và tiểu thuyết hiện  
đại cho rằng “sự tương tác này có thể diễn ra trên các loại  
quan hệ khác nhau (giữa loại với loại, thể với loại, thể với  
thể, yếu tố với yếu tố”. Với tư cách là thể loại lớn, tiểu thuyết  
có thể dung nạp những thể loại khác nhau và có khi làm biến  
đổi chúng, tạo ra sự tương tác mà tiêu biểu nhất chính là sự  
tương tác giữa thể với thể: truyện ngắn trong tiểu thuyết, thơ  
ca trong thiểu thuyết, điện ảnh trong tiểu thuyết, kịch trong  
tiểu thuyết… Tính thể hòa trộn trong tiểu thuyết làm cho tiểu  
thuyết có diện mạo mới, có sức mạnh nội tại để vận động  
trong xu thế chung của thời đại.  
Với đặc trưng bởi tính sử của mình, khuynh hướng tiểu  
thuyết truyền thống với đề tài lịch sử có những cách thức riêng  
để làm mới thể loại, để tạo ra hình thức cho lịch sử được sống.  
Tính hư cấu và phi hư cấu là nguyên tắc trung tâm cho việc  
vận hành tiểu thuyết lịch sử. Ở tiểu thuyết lịch sử, sự tương  
tác giữa thể với thể được xem là hình thức phổ biến nhất và  
có những giá trị nghệ thuật nhất định. Biểu hiện tiêu biểu của  
tương tác thể loại trong tiểu thuyết theo lối viết truyền thống  
với đề tài lịch sử là tương tác giữa truyện ngắn với tiểu thuyết,  
giữa thơ và tiểu thuyết… Lịch sử là câu chuyện đã qua, việc  
tái tạo câu chuyện đã qua trong cái nhìn của con người thời  
hiện đại cũng phải phù hợp với tính cách và tâm lý của con  
người và lịch sử thời quá khứ. Tiểu thuyết lịch sử dung chứa  
trong mình khối lượng lớn của thơ ca bởi đây (ít khi là đối  
tượng cho hành vi nhại như trong tiểu thuyết theo khuynh ý tưởng được gợi ra từ một nhân vật trong truyện ngắn Nước  
57  
63(4) 4.2021  
Khoa học Xã hội và Nhân văn  
mắt trúc”. Việc đưa truyện ngắn này trở thành phụ lục kèm  
theo cuốn tiểu thuyết chính là định hướng cơ bản để độc giả  
hiểu thêm về nội dung của tác phẩm. Thao tác chia nhỏ tự sự  
đã làm cho cấu trúc văn bản không cố định mà luôn linh hoạt,  
biến đổi, từ đó giải phóng tự do cá nhân trong sáng tác mà  
không bị gò bó vào bất cứ khuôn mẫu nào đã được định sẵn,  
đồng thời độc giả cũng được tự do trong việc chọn điểm xuất  
phát để tiếp cận văn bản.  
cùng quan trọng mà nhà văn có thể sử dụng thao tác trích dẫn  
để thực hiện sự kết nối liên văn bản trong tiểu thuyết lịch sử  
Việt Nam đương đại. Vùng trích dẫn này chứa đựng những  
mã mang thông điệp khi được đặt vào trong ngữ cảnh mới.  
Sự xâm nhập của thơ vào vùng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam  
đương đại có những nét đặc trưng riêng vì gắn với đặc thù của  
tiểu thuyết lịch sử.  
Giá trị của thơ khi xuất hiện trong tiểu thuyết lịch sử quan  
trọng nhất vẫn là bộ phận thơ được trích dẫn/viện dẫn trong  
quá trình kể chuyện của tác phẩm. Nguyễn Xuân Khánh  
thường xuyên trích dẫn thơ vào cấu trúc tự sự. Tiêu biểu là  
tiểu thuyết Hồ Quý Ly có 27 lần trích dẫn thơ, trong đó có 3  
bài trích thơ của Nguyễn Trãi, 13 bài trích tuyển từ thơ văn  
Lý Trần, 2 bài trích từ thơ Đường Trung Quốc. Đặc biệt, sự  
viện dẫn liên văn bản thể hiện ở việc nhà văn xử lý chất liệu  
tiền văn bản của các nhà thơ khác để tạo ra một phỏng bản  
có âm hưởng tương đồng. Bài thơ Phượng Hoàng hề của Hồ  
Nguyên Trừng mang ý tứ của Thôi Hiệu trong bài thơ Hoàng  
Hạc lâu. Trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân  
Khánh [11] thực hiện 14 lần trích dẫn thơ và các bài ca có  
nguồn gốc từ ca dao, vè, đồng dao. Sự xuất hiện của yếu tố  
thơ ca này làm cho toàn bộ tiểu thuyết mang âm hưởng của  
dân gian và kết nối không gian văn hóa oai nghiêm, cổ xưa  
của đình làng. Nhà văn Hoàng Quốc Hải trong Bão táp triều  
Trần [12] thực hiện 29 lần trích dẫn thơ; trong Tám triều vua  
[13] thực hiện 32 lần trích dẫn thơ. Điều đặc sắc là trong  
tiểu thuyết lịch sử, màu sắc tôn giáo được thể hiện rất rõ trong  
các bài thơ thiền. Với cảm hứng viết về hai triều đại Lý - Trần  
(thời đại cực thịnh của Phật giáo), Hoàng Quốc Hải kết nối  
liên văn bản với rất nhiều bài thơ thiền của các vị thiền sư  
Vạn Hạnh, Đỗ Pháp Thuận, Viên Chiếu, Huệ Năng, Thần Tú,  
Tịnh Giới, Mãn Giác… Sự xâm nhập của thơ thiền đã làm  
cho tiểu thuyết của Hoàng Quốc Hải có tính triết lý, tính giáo  
huấn cao, vì điều này mà Nguyễn Văn Dân xếp Bão táp triều  
Trần Tám triều vua Lý vào dạng tiểu thuyết lịch sử mang  
tính chất giáo huấn. Võ Thị Hảo trong Giàn thiêu trích dẫn  
nhiều bài thơ của Việt Nam và Trung Quốc, như bài thơ Tiểu  
sơn thiên của Từ Huệ, một phi tần của vua Đường Thái Tông;  
bài thơ Việt Giang ngâm của Tô Dịch Giản, một đại thần đời  
Tống. Sự trích dẫn ngoài việc tạo ra không khí cổ xưa cho bản  
thân tiểu thuyết, nó còn mở rộng kiến thức văn hóa, xã hội  
cho chính độc giả. Ngoài ra, âm hưởng dân ca còn vang vọng  
từ những bài trích dẫn Lời ru cá bơn, trích dẫn Bài ca đầu lâu  
dã nhân, Bài ca chu sa Đỗ Tễ. Qua thơ, nhà văn gửi gắm cảm  
xúc, bộc lộ nội tâm của nhân vật. Hoàng Quốc Hải mượn bài  
thơ Lương Châu Từ của Vương Hàn để giãi bày nỗi lòng của  
công chúa An Tư. Như vậy, thơ vừa tạo không khí cổ xưa của  
lịch sử vừa tạo âm hưởng trữ tình ngọt ngào.  
Biểu hiện của truyện ngắn trong tiểu thuyết lịch sử không  
chỉ thể hiện ở việc chia nhỏ đại tự sự thành những tiểu tự  
sự mà còn thể hiện ở việc lồng ghép những câu chuyện nhỏ  
vào trong mạch tự sự của câu chuyện lớn. Đây không phải là  
thủ pháp mới mẻ, nhưng nhiều nhà văn đã sử dụng thao tác  
này như một thủ thuật để mở rộng tối đa biên độ và phạm vi  
phản ánh. Những tiểu tự sự được lựa chọn tùy theo mục đích  
sáng tác mà có những cách xử lý khác nhau đối với văn bản  
trước đó và đặt vào văn cảnh mới cho phù hợp. Đối với tiểu  
thuyết lịch sử, thao tác này là một biểu hiện của viện dẫn liên  
văn bản, tức xử lý văn bản trước có đôi chút biến đổi nhưng  
không nhằm làm mới ý nghĩa của văn bản đã có, đồng thời  
cũng không nhằm tạo ra tiếng cười đả phá, châm biếm hay  
mỉa mai. Phạm vi viện dẫn này càng rộng thì dung lượng nhân  
vật, sự việc được đề cập càng lớn. Điều này làm cho văn bản  
đang đọc có phạm vi kết nối rất lớn. Tất cả hợp thành một  
bức tranh bao quát của tiểu thuyết trong phản ánh các vấn đề  
lịch sử đã qua và cả các vấn đề của cuộc sống hiện tại. Trong  
tiểu thuyết Trần Khánh Dư, Lưu Sơn Minh [10] đã lồng ghép  
kể câu chuyện về nhân vật Đỗ Vĩ với những chi tiết về sự  
đóng góp và hy sinh oanh liệt của bậc tài hoa này. Chỗ khác,  
Lưu Sơn Minh lồng kể câu chuyện về Trần Văn Lộng, và  
trong câu chuyện về Trần Văn Lộng đó, lại có câu chuyện thật  
ngắn gọn về “bài học “uống nước bùn” của Thái tổ Nguyên  
triều Thành Cát Tư Hãn”. Ngoài ra trong tác phẩm còn có  
câu chuyện của Thiên Thụy, Trần Liễu, Hoàng Chí Hiển, Thị  
Thảo… Vậy là tiểu thuyết được lắp ghép từ nhiều câu chuyện  
tạo nên tính mảnh vỡ, trong sự lắp ghép đó, câu chuyện có  
thể lồng ghép và chia nhỏ hơn nữa. Một ví dụ khác, trong  
Trần Quốc Toản, Lưu Sơn Minh đã lồng ghép câu chuyện về  
tinh thần chiến đấu của Triệu Trung khi đánh quân Thát Đát,  
chuyện về Nguyễn Khoái, câu chuyện về bi kịch trong tộc phả  
họ Trần… Tác giả Đặng Ngọc Hưng trong tiểu thuyết Hùng  
binh ngoài việc đã chia nhỏ tiểu thuyết ra thành các chương,  
thì trong từng chương còn có những câu chuyện nhỏ hơn được  
lồng vào. Đó là câu chuyện của Phạm Quang Ảnh, việc Vua  
Gia Long ra thăm đảo Hoàng Sa, câu chuyện về sự tích cá  
chuồn… Việc lồng ghép, chia nhỏ đại tự sự đã làm cho tiểu  
thuyết mở rộng phạm vi phản ánh, bao quát được nhiều vấn  
đề của lịch sử và thời đại.  
Thơ ca trong tiểu thuyết  
Vị trí trích dẫn của thơ thông thường nhất chính là ngay  
trong phần chính văn, tức ngay trong lời văn kể chuyện. Tuy  
nhiên, đây không phải là vị trí duy nhất. Nhiều tác giả chọn  
Bản chất của thơ ca là yếu tố trữ tình, là sự diễn đạt cô  
đọng có tính ký hiệu cao. Thơ ca xuất hiện trong truyện không  
phải là hiện tượng lạ, đây là kỹ thuật quen thuộc của nhiều vị trích trích dẫn thơ ở lời đề từ, ngay trang mở đầu của sách  
nhà văn khi sáng tác. Hạ bản là thơ ca mang nhiều dữ liệu vô hoặc mở đầu của mỗi chương, mỗi phần của tiểu thuyết, hay ở  
63(4) 4.2021  
58  
Khoa học Xã hội và Nhân văn  
phần chú thích… Nguyễn Xuân Khánh mở đầu lời đề từ bằng ấy cũng làm được. Ngoài ra, trong tiểu thuyết Nguyễn Du,  
hai câu trong bài thiền nổi tiếng Chứng đạo ca của Thiền sư  
Vĩnh Gia Huyền Giác: “Thường độc hành, thường độc bộ/  
Đạt giả đồng du niết bàn lộ…” và hai câu thiền trong Ngữ lục  
vấn đáp của Trần Thế Tông: “Thiên giang hữu thủy, thiêng  
giang nguyệt/Vạn lý vô vân, vạn lý thiên”. Dù không được  
đặt vào trong văn cảnh, nhưng tự hai câu thơ thiền trên đã có  
nghĩa. Để hiểu được ý nghĩa của nó đòi hỏi sự hiểu biết và tư  
duy của người đọc. Tuy nhiên, khi bước đầu tiếp xúc với tiểu  
thuyết, một người đọc thông thái, một người tư duy hiện đại  
có quyền thẩm thấu sự biện giải của mình về vai trò của các  
câu thơ này khi nó được đặt trong ngữ cảnh mới. Bởi vai trò  
của việc trích dẫn liên văn bản không phải đơn giản chỉ là sự  
phát hiện ý nghĩa tự thân mà quan trọng nhất chính là sự phát  
hiện ý nghĩa khi nó nằm trong một hoàn cảnh cụ thể. Khi thực  
hiện việc trích dẫn thơ ở phần đề từ, nhà văn đã tạo ra tín hiệu  
khởi phát ban đầu để cho thấy xu hướng về nội dung, màu sắc  
trong ngôn ngữ của tác phẩm. Từ đó, hình thành ngay từ đầu  
tâm thế tiếp nhận cho người đọc. Tương tự như thế, Nguyễn  
Xuân Khánh cũng bắt đầu Đội gạo lên chùa bằng việc trích  
dẫn 4 câu thơ thiền trích trong Cư trần lạc đạo phú của vua  
Trần Nhân Tông: “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên/Cơ tắc san,  
hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo, hưu tầm mịch/Đối cảnh  
vô tâm, mạc vấn Thiền”…, đây đã trở thành phong cách của  
Nguyễn Xuân Khánh trong các tác phẩm viết về đề tài lịch  
sử. Người đọc phải là người có khả năng nhận ra mã thông  
điệp, biết xâu chuỗi những thông điệp để giải mã các vấn đề  
của văn bản.  
Nguyễn Thế Quang còn tạo ra rất nhiều không gian cho việc  
bình phẩm thơ ca, đó là không gian cho một diễn đàn văn học,  
nơi mà các nhân vật thể hiện suy nghĩ, quan điểm của mình  
đối với văn chương, nghệ thuật. Dẫn chứng trên chỉ là một  
trong rất nhiều dẫn chứng trong cuốn tiểu thuyết này cho thấy  
sự dày đặc trong kết nối thơ vào trong tiểu thuyết. Như vậy,  
thơ ca góp phần làm cho tiểu thuyết có chất thi ca lãng mạn,  
trữ tình. Tính cô đúc, chặt chẽ của thơ ca còn là nơi chứa đựng  
những triết lý nhân sinh cao cả, làm giàu chất trí tuệ cho tiểu  
thuyết và cho đời sống văn chương.  
Kết luận  
Về bản chất, tiểu thuyết (dù viết về đề tài nào) có khả năng  
thu nạp các yếu tố của rất nhiều thể loại khác nhau. Qua khảo  
sát tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại, chúng tôi nhận  
thấy sự tương tác thể loại (truyện ngắn, thơ) vào tiểu thuyết  
lịch sử là một trong những đặc điểm nổi bật. Khi truyện ngắn  
vào tiểu thuyết, nó xuất hiện các yếu tố và kỹ thuật của tự sự  
cỡ nhỏ (cách tạo tình huống, chi tiết, sự kiện, hệ thống câu  
chuyện ngắn trong kết cấu chương hồi...). Thơ vào tiểu thuyết  
chủ yếu bằng con đường của trích dẫn. Tuy thơ vào tiểu thuyết  
không phải là mới mẻ, nhưng với sự xuất hiện khá nhiều thơ  
trong tiểu thuyết, thể loại này đã có những vai trò quan trọng  
nhất định đối với nội dung phản ánh, hình thức thể loại của  
tiểu thuyết. Thơ với nhiều tác phẩm tiểu thuyết lịch sử đã là  
một bộ phận không thể thiếu, có những đóng góp nhất định về  
giá trị nội dung và nghệ thuật riêng. Tóm lại, sự tương tác thể  
loại trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng và tiểu thuyết nói chung  
thể hiện xu thế vận động tất yếu làm cho tiểu thuyết không  
ngừng được làm mới và luôn ở thì hiện tại chưa hoàn thành.  
Ngoài bộc lộ cảm xúc, thơ ca còn là cái cớ cho tính đối  
thoại liên văn bản. Nguyễn Thế Quang [8] trích dẫn chính thơ  
của Hồ Xuân Hương trong tình huống đối thoại giữa Nguyễn  
Du và Hồ Xuân Hương:  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
[1] Đào Tuấn Ảnh (2005), “Quan niệm thực tại và con người trong văn học  
hậu hiện đại”, Nghiên cứu Văn học, 8, tr.55.  
“Nói rồi, nàng cất tiếng đọc: “Đứng chéo trông theo cảnh  
hắt heo, đường đi thiên thẹo quán cheo leo”… Vừa nghe đến  
đó Nguyễn đã reo lên:  
[2] M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch),  
- Ngôn từ dân dã, đường nét sinh động nhưng sao muội lại  
“đứng chéo”, xưa nay có ai thế bao giờ?  
Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.  
[3] Văn Giá (2013), Thử nhận diện loại tiểu thuyết ngắn ở Việt Nam những  
ngan-o-viet-nam-nhung-nam-gan-day/.  
Xuân Hương nhìn thẳng vào mắt Nguyễn:  
- Đúng là không ai bảo thế. Khổng Tử bảo chiếu không  
thẳng không ngồi, việc không ngay không làm, ở đâu cũng gò  
bó nhất là phụ nữ. Muội thấy ngột ngạt quá không chịu được!  
[4] Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học thế giới mở, Nxb Trẻ.  
[5] Nguyễn Xuân Khánh (2013), Hồ Quý Ly, Nxb Trẻ.  
[6] Võ Thị Hảo (2005), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ.  
- Muội muốn đảo lộn tất cả ư?  
[7] Đặng Ngọc Hưng (2018), Hùng binh, Nxb Trẻ.  
- Đảo lộn được thì tốt, nhưng nữ nhi làm được gì?! Hàng  
ngàn năm nay cứ nghe mãi: “nam quý nữ tiện” với tam tòng:  
tòng phụ, tòng phu, tòng tử, tòng cho đến khi xuống mồ”.  
[8] Nguyễn Thế Quang (2015), Nguyễn Du, Nxb Trẻ.  
[9] Lưu Sơn Minh (2017), Trần Quốc Toản, Nxb Văn học.  
[10] Lưu Sơn Minh (2016), Trần Khánh Dư, Nxb Văn học.  
[11] Nguyễn Xuân Khánh (2014), Đội gạo lên chùa, Nxb Trẻ.  
[12] Hoàng Quốc Hải (2016), Bão táp triều Trần, Nxb Phụ nữ.  
[13] Hoàng Quốc Hải (2017), Tám triều vua Lý, Nxb Phụ nữ.  
Việc trích dẫn thơ chỉ là cái cớ ban đầu cho việc đối thoại  
được diễn ra. Từ tứ thơ để lẩy ra suy nghĩ, quan điểm của  
nhân vật, mà cụ thể ở đây là sự mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương  
khi đối thoại về sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Điều  
mà không phải người phụ nữ nào trong xã hội phong kiến  
59  
63(4) 4.2021  
pdf 4 trang baolam 13/05/2022 2620
Bạn đang xem tài liệu "Tương tác thể loại trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftuong_tac_the_loai_trong_tieu_thuyet_lich_su_viet_nam_duong.pdf