Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975

TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
37  
XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA ĐIỂM NHÌN TRẦN THUT  
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM SAU 1975  
Nguyn ThTuyết Minh1  
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2  
Tóm tắt: Trn thuật là phương diện hình thức cơ bản của tác phẩm tsự, có vai trò rất  
quan trng trong vic chuyn tải ý đồ nghthuật cũng như thái độ thẩm mĩ của nhà văn.  
Bài viết này nhằm tng kết, khái quát hóa bình diện điểm nhìn trần thut - một bình diện  
ni bt, thhiện rõ sự đổi mi ca thc tiễn văn xuôi nước ta sau 1975 và góp phần khc  
ha trung thc bc tranh văn học sử mà người đọc, người học, người dy Ngữ văn hiện  
nay đang quan tâm.  
Từ khóa: Điểm nhìn trần thut, văn xuôi sau 1975, Việt Nam  
1. MỞ ĐẦU  
Trn thuật là phương diện hình thức cơ bản của tác phẩm tsự, có vai trò quan trọng  
trong vic chuyn tải ý đồ nghthuật cũng như thái độ thẩm mĩ của nhà văn. Nhân loại thế  
kỉ XXI đạt được thành tựu to lớn trong lĩnh vực ts/ trn thut (hc) - một lĩnh vực khoa  
học liên ngành với rt nhiều lí thuyết được khái quát từ thc tiễn phong phú của sáng tạo  
và tiếp nhận văn chương. Bài viết này không đi sâu vào các vấn đề lí thuyết trn thut hc  
mà vận dng mt số khái niệm công cụ đã được giới nghiên cứu xác lập để nhn din,  
miêu tả và đánh giá về mt chặng đường văn xuôi có nhiều đổi mi quan trng ở nước ta -  
chng đường tsau 1975. Mục đích của chúng tôi nhằm tng kết, khái quát hóa thực tin  
sáng tạo văn xuôi, góp phần vào việc khc ha trung thc bức tranh văn học sử mà người  
đọc, người học, người dy Ngữ văn hiện nay đang rất quan tâm. Trong khuôn khổ gii hn,  
chúng tôi không thể bao quát mọi vấn đề ca nghthut trn thuật mà chỉ tập trung vào  
một khía cạnh ni bt, thhiện rõ sự đổi mi của văn xuôi nước ta 40 năm qua, đó là vấn  
đề điểm nhìn trần thut.  
2. NI DUNG  
1 Nhận bài ngày 25.03.2016; gửi phản biện và duyệt đăng ngày 28.04.2016.  
Liên hệ tác giả: Nguyễn Thị Tuyết Minh; Email: nguyenthituyetminhsp2@gmail.com  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
38  
Điểm nhìn là vấn đề then cht ca kết cấu tác phm nghthuật. Nó hiện din khắp nơi, chi  
phi hu hết các yếu tố trên các cấp độ của văn bản; là “vị trí từ đó người kể nhìn ra và miêu tả sự  
vật trong tác phẩm. Không thể có nghệ thut nếu không có điểm nhìn”. Trên thực tế, giá trị ca  
sáng tạo nghthut mt phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thc một cái nhìn mới  
đối vi cuc sng. Sự thay đổi ca nghthut bắt đầu từ thay đổi điểm nhìn”(1). Mặt khác, thông  
qua điểm nhìn trần thuật, người đọc có dịp đi sâu tìm hiểu cấu trúc tác phẩm nhận ra đc  
điểm phong cách của nhà văn. Khảo sát điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau  
1975, chúng tôi nhận thy những xu hướng vận động như sau:  
2.1. Xu hướng nht dần điểm nhìn đại din cộng đồng, gia tăng điểm nhìn cá thể hoá  
Mi kiểu tư duy văn học là sản phm ca một tâm thức văn hoá, một tâm thế sáng tạo cth.  
Trong giai đoạn đất nước có chiến tranh, nhà văn được đặt vị trí trung tâm của đời sống và đại  
din cho lợi ích cộng đồng. Người kchuyện trong văn xuôi Việt Nam t1945 - 1975 thường  
đồng nhất cái nhìn của mình với chân lí. Đó là cái nhìn “toàn tri”, được bảo đảm bng kinh nghim  
ca cộng đồng. Sau 1975, đất nước phát triển trong hoà bình, nhu cầu đổi mới toàn diện đời sng  
xã hội được ý thức và văn học cũng không thể viết như cũ. Từ đầu thp kỉ 80, văn xuôi bắt đầu  
chuyn mnh sang cm hng thế s- đời tư với điểm nhìn cá thể hoá. Mặc dù vẫn còn những tác  
phẩm duy trì điểm nhìn đại din cộng đồng như Ông cố vấn, Quãng đời xưa in bóng, Đường về Sài  
Gòn… nhưng chúng hầu như bị lấn át so vi những tác phẩm tiếp cn hin thc bằng cái nhìn cá  
thể hóa, tức là bằng kinh nghiệm cá nhân.  
Khảo sát trên các tác phẩm được dư luận chú ý, chúng tôi thấy schuyn dịch điểm nhìn khá  
rõ. Từ 1975 đến 1980, nhìn chung văn xuôi vẫn nghiêng về điểm nhìn đại din cộng đồng. Có thể  
kể đến hàng loạt tác phẩm được bạn đọc yêu thích như: Tháng Ba ở Tây Nguyên (Nguyn Khi),  
Miền cháy, Lửa tnhững ngôi nhà, Những người đi từ trong rng ra (Nguyễn Minh Châu), Năm  
1975 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Đất trng (Nguyn Trọng Oánh)… Từ 1980 đến  
1986, dư luận bắt đầu dành sự quan tâm hơn cho những tác phẩm mang cm hứng đạo đức - thế sự  
hay đời tư với điểm nhìn của kinh nghiệm cá nhân như Đứng trước bin, Cù lao Tràm (Nguyn  
Mnh Tun), Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Người đàn bà trên chuyến  
tàu tốc hành, Bến quê (Nguyễn Minh Châu), Gp gcui năm, Thi gian của người (Nguyn  
Khi), Thi xa vng (Lê Lựu)… Từ 1986 trở đi, người đọc hầu như chỉ còn bị cuốn hút bởi nhng  
tác phẩm mà ở đó, số phận cá nhân trở thành đối tượng khám phá chủ yếu. Trong nhng cun tiu  
thuyết được giải thưởng ca Hội Nhà văn Việt Nam hai năm 1988 - 1989, chỉ có Ông cố vn ca  
Hữu Mai là còn thấy rõ sự chi phi của điểm nhìn cộng đồng, nhưng nó được dư luận đánh giá cao  
(1) Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2010), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo  
dục Việt Nam, tr.113.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
39  
trước hết khối lượng tư liệu lch sử và nhân vật Vũ Ngọc Nhạ đã được thhin rất “đời thường”.  
Ba cun tiu thuyết được gii ca Hội Nhà văn mùa giải 1990 - 1991 cùng hàng loạt tác phẩm  
được chú ý khác, và những tiu thuyết được giải các năm 2000, 2005, 2006, 2007, 2009, 2011,  
2012 sau này, đều được viết bi cm hng thế svới điểm nhìn cá thể hoá. Đó là Ni bun chiến  
tranh, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Cát bụi chân ai, Bến trn gian, Hi c  
binh nhì, Ánh trăng, Cuốn gia phả để li, Bi kch nh, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Hậu thiên đường,  
Cánh đồng bt tận, Và khi tro bụi, Một mình một ngựa, Đội gạo lên chùa, Trò chơi hủy dit cm  
xúc…  
Sdch chuyn từ điểm nhìn đại din cộng đồng sang điểm nhìn cá nhân trong truyện ngn  
còn rõ rệt hơn nữa. Tnhng truyn ngắn gây bất ngờ đầu tiên như Hai người trlại trung đoàn  
(Thái Bá Lợi), Bc tranh, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)… đến các truyện  
ngắn được giải thưởng của Báo Văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tạp chí Thế gii mi… rồi  
đến truyn ca Nguyn Huy Thip (Tướng về hưu, Muối ca rng), truyn ca Y Ban (Bức thư  
gi mẹ Âu Cơ), truyn ca Lại Văn Long (Kẻ sát nhân lương thiện), truyn ca Nguyn Bn (Ánh  
trăng), truyn ca Phm Hoa (Đùa của tạo hoá), truyn ca Phan Thị Vàng Anh (Hoa mun),  
truyn ca Nguyn ThThu Hu(Hậu thiên đường, Thành phố đi vắng)… đều đề cập đến ni  
dung thế s- đời tư với điểm nhìn cá thể hoá. Khảo sát trên một stp truyn ngắn tiêu biểu giai  
đoạn sau 1975, đặc biệt là sau 1986, chúng tôi thu được kết quả như sau:  
- Ánh trăng (tp truyn ngắn được giải Báo Văn nghệ 1991) có 12 truyện, không một truyn  
nào được kbởi điểm nhìn đại din cộng đồng.  
- Bến trn gian (tuyn nhng truyn ngắn được gii cuc thi ca Tạp chí Văn nghệ  
Quân đội hai năm 1992 - 1994) có 21 truyện, chduy nht mt truyn Vt trời lông tía bay  
vlà kết hợp điểm nhìn đại din cộng đồng vi việc miêu tả phong tc, tập quán một vùng  
đầm phá miền Trung. Tập này có nhiều truyn viết về đề tài chiến tranh nhưng chủ yếu gn  
với điểm nhìn cá thể hoá - nhng tri nghim của cá nhân nên ấn tượng về “nỗi bun chiến  
tranh” rất rõ và rất khác với các truyện thời trước 1975.  
- Truyn ngn hay 1993 (tp truyện do Nxb Văn học và Báo Văn nghệ ấn hành) có 15  
truyện, không một truyện nào được kbởi điểm nhìn đại din cộng đồng.  
- 40 truyn rt ngn (tác phẩm chung kho cuc thi truyn mini ca Tạp chí Thế gii  
mi- Nxb Hội Nhà văn 1994) không có truyện nào được kbởi điểm nhìn đại din cng  
đng.  
- Truyn ngn hay Bc Trung - Nam (tuyn chn những tác phẩm được gii trong  
các cuộc thi 3 min, Nxb Hội Nhà văn, 1995) có 28 truyện, cũng chỉ mt truyn Vt tri  
lông tía bay về là không hoàn toàn chịu chi phi ca cm hng thế svới điểm nhìn cá thể  
hoá.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
40  
- Nhng truyn ngn hay (tp truyện do Nxb Công an Nhân dân ấn hành 1995) có 12  
truyện, không một truyện nào được ktừ điểm nhìn đại din cộng đồng.  
- Tác phẩm được giải Cây bút vàng 1996 -1998 (tp truyn do Nxb Hội Nhà văn và  
Tạp chí Văn hoá văn nghệ Công an ấn hành) gồm 19 tác phẩm, có một tác phẩm được kể  
bằng điểm nhìn đại din cộng đồng là Cm nhận hương hi (bút kí của Vương Trọng).  
- Truyn ngn hay 2000 (tp truyn do Nxb Hội Nhà văn ấn hành) có 15 truyện, duy  
nht truyn Trn Quang Diu ca Trn ThHuyền Trang được kbằng điểm nhìn đại din  
cộng đồng.  
- Truyn ngn hay 2004 (tp truyn do Nxb Hội Nhà văn ấn hành) có 28 truyện, không  
có truyện nào được kbằng điểm nhìn đại din cộng đồng.  
- Truyn ngn hay 2005 (tp truyện do Nxb Thanh Hoá ấn hành) có 27 truyện, không truyện  
nào được kbằng điểm nhìn đại din cộng đồng.  
- Văn mới 2007-2008 (tuyn chọn văn xuôi của những tác giả mới và tác giả đang được mến  
m, Nxb Hội Nhà văn và Công ty Văn hoá Đông A ấn hành) có 27 tác phẩm, không tác phẩm nào  
được kbằng điểm nhìn đại din cộng đồng.  
- Truyn ngn hay 2009 (tp truyện do Nxb Văn học ấn hành) có 27 truyện, không truyện nào  
được kbằng điểm nhìn đại din cộng đồng.  
- Văn mới 2012-2013 (tuyn chọn văn xuôi của những tác giả mới và tác giả đang được mến  
m, Nxb Hội Nhà văn và Công ty Văn hoá Đông A ấn hành) có 27 tác phẩm, không tác phẩm nào  
được kbằng điểm nhìn đại din cộng đồng.  
Như vậy, thc tế khảo sát cho thấy: xu hướng sdụng điểm nhìn đại din cộng đồng chiếm số  
lượng rất ít mà chủ yếu là điểm nhìn cá thể hoá. Điều này chng tỏ nhà văn đương đại ít có nhu cầu  
kli những câu chuyện “mọi người đã biết” mà chủ yếu kể câu chuyện “như tôi biết”. Trải  
nghiệm riêng, kinh nghiệm riêng trở thành nhu cầu diễn đạt chính yếu. Chng hn, vẫn câu chuyện  
vsự tích Sơn Tinh Thuỷ Tinh nhưng người đọc lại đầy bt ngờ thích thú trước cách cắt nghĩa, lí  
gii từ điểm nhìn cá thể hoá của nhà văn Hòa Vang. Tác giả mở đầu bng mt kinh nghim của cá  
nhân: “Như mọi người đều biết… Nhưng (tôi biết) còn có một (stht) lcố nhiên khác  
nữa”(2). Và niềm tin quen thuc của độc gibắt đầu bthử thách, để ri cuối cùng; dù họ chp  
nhận hay không cái sự tht giả định mà người viết nêu ra, thì họ cũng buộc phi biết đến mt nim  
tin khác. Người kchuyn trong truyn ngn ca Nguyn Huy Thiệp thường đưa ra phản đề: “Tôi  
skchuyện này cho anh… Tôi không chắc…”(3). Đọc Ni bun chiến tranh, người ta nhn thy,  
(2)  
Hòa Vang (1996), Sự tích những ngày đẹp trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.5.  
(3) Nguyễn Huy Thiệp (2001), Mưa Nhã Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.296.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
41  
đó dường như là cuộc chiến tranh của riêng Bảo Ninh chứ không phải là cuộc chiến tranh đã từng  
din ra trong lch s. Truyện được kbằng cái nhìn cá biệt của nhân vật Kiên - mt cu chiến binh  
bchấn thương tâm lí nặng. Toàn bộ hin thc ấy là hiện thc o. Những kí ức đứt quãng lần lượt  
hin về. Nhà văn như muốn nói với bạn đọc: đây không phải là câu chuyện khách quan đã xảy ra  
như mọi người đều biết mà là những gì ám ảnh nhất còn đọng lại trong kí ức riêng của mt con  
người. Và chiến tranh được kbng kinh nghiệm cá biệt rất khác với truyn thống. Điều đó khiến  
người đọc thấm thía nỗi đau đắng tận cùng của thân phận con người trong chiến tranh, để rồi càng  
trân trọng hơn giá trị của độc lp tự do hôm nay. Rõ ràng, cá thể hoá điểm nhìn trần thut khiến  
mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư, độc đáo và quan niệm ca mỗi cá nhân nhiều khi không hoàn  
toàn trùng hợp vi quan nim ca cộng đồng. Khi điểm nhìn được cá thể hoá cao độ, cũng đồng  
nghĩa với việc nhà văn chú ý nhiều hơn đến cái ngẫu nhiên, cái không tất yếu. Nhà văn không kể  
những câu chuyện mọi người đã biết, không đưa ra những chân lí tuyệt đối mà muốn đối thoi  
nhiều hơn với bạn đọc để cùng suy ngẫm. Điều đó khiến điểm nhìn trần thuật vô cùng đa dạng,  
phong phú.  
2.2. Xu hướng đa dạng hoá điểm nhìn trần thut  
Đây là xu hướng trn thuật khá phổ biến của văn xuôi Việt Nam sau 1975. Nếu trong văn xuôi  
giai đoạn trước 1975, điểm nhìn trần thut ca một tác phẩm thường rt dễ xác định, vì nó nhất  
quán, nó đồng nht với điểm nhìn của tác giả. Từ điểm nhìn thấu sut ấy, tác giả scất lên tiếng nói  
“hướng đạo” cho người đọc. Nghĩa là chân lí cuộc đời luôn được chra một cách rõ ràng, mạch lc.  
Người đọc tiếp nhn nhng những giá trị đã được thẩm định. Nhưng cách nói hộ, nghĩ hộ của nhà  
văn một thi giờ đây dường như không còn thích hợp nữa. Trình độ ca bạn đọc ngày càng không  
ngừng được nâng cao. Cái tôi cá nhân của người đọc đòi hỏi được xác lập như một nhân vị. Hơn  
na, cuc sống đương đại hin ra phc tạp muôn hình, muôn vẻ và người đọc có nhu cầu đánh giá,  
xem xét mọi điều bng nhng tri nghim của riêng mình. Mặt khác, văn xuôi hôm nay không chỉ  
phản ánh hiện thực mà còn suy ngẫm vhin thc. Hin thực được mra với biên độ vô cùng rộng  
lớn: có hiện thc quen thuc khkim, khả tín, nhưng cũng có vùng hiện thc xa lạ, mơ hồ, bí ẩn,  
bt khả tín… Đối vi mt số tác phẩm thì hiện thực không còn là mục đích tối thượng mà chỉ là  
phương tiện để thhiện tư tưởng của nhà văn. Đối vi nhiều nhà văn thì không chỉ “kể nội dung”  
mà còn là “viết nội dung”; điều quan trọng không phải là kể chuyện gì mà chính là cách thức kể  
câu chuyện ấy như thế nào. Cùng viết vmột đề tài, cùng kể vmột câu chuyện nhưng nhà văn  
này kể thì hấp dẫn, lôi cuốn độc giả; còn nhà văn kia thì không. Điều này trước hết do sự đa dạng  
hoá điểm nhìn trần thut mang li. Việc đa dạng hoá điểm nhìn trần thut khiến cho “khối vuông  
rubic” của hin thc, của lòng người được phơi lộ; thhin nhu cầu khám phá bản cht cuc sng  
một cách sâu sắc, thn trng; nhu cầu bình đẳng giữa nhà văn với độc giả… Đa dạng hoá điểm  
nhìn trần thuật trong văn xuôi sau 1975 được biu hin việc gia tăng số lượng người kchuyn,  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
42  
và nhà văn trao điểm nhìn trần thut cho mọi nhân vật, không phân biệt nhân vật chính - phụ, nhân  
vt tin cy - không tin cậy… Nổi bật là các dạng thức sau đây:  
2.2.1. Luân phiên, lồng ghép điểm nhìn trần thut  
Đây là hiện tượng tác phẩm không mặc định một điểm nhìn mà luôn đan xen, dịch chuyn  
từ điểm nhìn này sang điểm nhìn khác. Nhiều nhân vật trong tác phẩm luân phiên nhau đóng vai  
trò người kchuyện, và từng nhân vật ấy bày tỏ cách nhìn riêng của mình về hin thực. Cũng có  
khi, cùng lúc tồn ti nhiều điểm nhìn, các điểm nhìn chồng lên nhau, đan chéo, móc nối vi nhau  
để mở ra cho người đọc những khám phá mới về đối tượng. Điều này tạo nên tính phức điệu, đa  
âm cho câu chuyện và tác phẩm văn xuôi trở thành một cấu trúc đa tầng, cùng lúc vang lên nhiều  
tiếng nói khác nhau. Chng hạn, trước sphận cơ cực, bt hnh của người đàn bà trong  
truyn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu để cho nhiều điểm nhìn cùng soi rọi vào  
cái nhìn trẻ thơ, non nớt của đứa con trai kết án ông bố tàn bạo, và thề sgiết ông ta để bo  
vm. Nhưng con chị thì hiểu biết hơn, vừa khóc lóc vừa can ngăn em. Nhà nhiếp ảnh thì  
sẵn sàng “giữa đường du thy bt bằng mà tha”. Viên thẩm phán thì khăng khăng: ly hôn  
là giải pháp đúng đắn nhất. Nhưng người đàn bà, kẻ hng chu nhng trận đòn roi tàn nhẫn  
và phi lý của chng lại nhìn nhận khác hẳn: bà hiểu chồng, thương con, hiểu tình cảnh nan  
gii của gia đình mình; biết mình phải nhn nhc, cam chịu để bầy con đông đúc khỏi chết  
đói. Bi kịch ca mẹ con bà không dễ dàng giải quyết được nếu chỉ trông cậy vào thiện chí  
cá nhân. Người đàn bà ấy có cái trí khôn của đời sống. Bà ta không ảo tưởng: “Lòng các  
chú tốt, nhưng các chú đâu có hiểu được người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”(4). Rõ ràng,  
nhân vật người đàn bà hiện diện trước ống kính “vạn hoa” của tác phẩm. Và bạn đọc không  
dễ dàng phán xét đơn giản đúng - sai tmột phía, mà phải thn trọng cân nhắc tnhiu  
phía để cắt nghĩa sao cho thấu tình đạt lí. Người đàn bà ấy vừa đáng giận li vừa đáng  
thương. Phía sau gương mặt xấu xí của bà ta là vẻ đẹp n khut trong tâm hồn, vẻ đẹp ca  
mẫu tính: dám hy sinh và chịu trách nhiệm trước đàn con của mình. Trong tiểu thuyết Sông  
Côn mùa lũ (5), điểm nhìn trần thuật liên tục di chuyn từ nhân vật này đến nhân vật khác.  
Có lúc tác phẩm được kể dưới điểm nhìn của nhân vật lch sNguyn Huệ (các chương 17,  
19, 30, 32…); có khi được kể dưới điểm nhìn của thầy giáo Hiến (các chương 1,7, 15); có  
lúc lại kể dưới điểm nhìn của An - người yêu Nguyễn Huệ (các chương 75, 92, 97); có lúc  
điểm nhìn lại được giao cho nhân vật Lãng - em trai An (các chương 87, 99)… Rất nhiu  
biến cố được lí giải khác nhau từ điểm nhìn của mỗi nhân vật. Và sự kết hp linh hoạt các  
điểm nhìn trần thut khiến mi skin của đời sống được cắt nghĩa thấu đáo, khách quan  
(4) Nguyễn Minh Châu (1999), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.129.  
(5) Nguyễn Mộng Giác (2003), Sông Côn mùa lũ (2 tập), Nxb Văn học & Trung tâm nghiên cứu  
Quốc học  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
43  
và đa diện hơn. Tác phẩm văn học khi ấy mang dáng dấp “một bản giao hưởng” nhiều bè, nhiều  
điệu; đạt ti hiu quthẩm mĩ phong phú, bất ng.  
Không chỉ luân phiên, nhiều tác phẩm văn xuôi Việt Nam sau 1975, đặc biệt là sau  
1986 còn lồng ghép điểm nhìn trần thuật để làm mới kĩ thuật ts. Trong tác phẩm có sự  
tương tác giữa điểm nhìn của người kchuyn vi mt hoc nhiều nhân vật, to ra sự hoà  
phối, đan xen, phức hp ca nhiu kinh nghim, nhiu luồng tư tưởng, có khi cùng chiều,  
có khi đối nghch. Tiu thuyết Hồ Quý Ly(6) ca Nguyễn Xuân Khánh là một ví dụ. Ở đây,  
người trn thuật xưng “tôi” mà nhân vật cũng xưng “tôi” giành quyền tk(Chương II:  
Hồ Nguyên Trừng; chương V: Trần Khát Chân; chương VI: Cô gái vườn mai; chương XII:  
Đường lên Yên Tử; chương XIII: Hội thề Đốn Sơn). Ta đều biết, những nhân vật lch sử  
như Hồ Nguyên Trừng, Trần Khát Chân… là những con người của quá khứ, cách xa ngày  
nay đã sáu thế k. Họ đã “an nghỉ dưới mồ” từ lâu, vậy mà trong tác phẩm, nhà văn cho họ  
“sống lại” để kchuyện mình và chuyện ca thời đại mình. Câu chuyn lch sử được “hiện  
tại hoá” như đang vận động, đang diễn ra, đang song hành cùng con người hôm nay.  
Nguyễn Xuân Khánh đã tạo ra sự hoà phối ca hai loại điểm nhìn: điểm nhìn trần thut  
khách quan và điểm nhìn chủ quan ca từng nhân vật lch sử. Tác phẩm, do đó, có cấu trúc  
mở, giàu tính đối thoại; nói về quá khứ nhưng chất cha nhng suy ngẫm sâu sắc vhin  
tại. Và những skin ca lch sử luôn hiện diện trong tư thế đang vận động ở thì “hiện ti  
chưa hoàn thành”. Trong nhiều truyn ngn ca Nguyn Huy Thiệp, vai trò bình đẳng  
trong điểm nhìn của mỗi nhân vật khiến cho tác phẩm luôn là một cấu trúc đa tầng, đa  
nghĩa. Đọc văn Nguyễn Huy Thiệp đầy bt ngờ, “tiền văn” không đoán được “hậu văn”.  
Chi tiết nào cũng đa nghĩa, đầy sc gợi và có khả năng kích thích đối thoi rt mnh. Tiu  
(7)  
thuyết Chinatown cũng sử dụng kĩ thuật lồng ghép điểm nhìn cực kì phức tạp: “tôi” và  
“hắn” là hai mà thực ra là một; “tôi” và “chị ta” cũng vừa đồng nhp vừa phân li như thế.  
Rõ ràng, luân phiên, lồng ghép điểm nhìn khiến chủ đề tác phẩm và tư tưởng tác giả  
không lộ diện, khó nắm bắt; đòi hỏi người thưởng thc nhiều suy nghĩ, nhưng cũng gợi  
nhiều liên tưởng khác nhau. Điều này khiến tác phẩm thc sự “là một quá trình”, khơi gợi  
bạn đọc sự “đồng sáng tạo”; đến vi mi bạn đọc, tác phẩm không ngừng “sinh sôi” về  
nghĩa. Và tất yếu, xung quanh một tác phẩm dễ gây ra tranh luận trái chiu.  
2.2.2. Giao điểm nhìn trần thut cho những nhân vật “không đáng tin cậy”  
Đây là hiện tượng trong tác phẩm, nhà văn giao nhiệm vkchuyn cho những nhân vật dị  
biệt, đặc bit - kiểu nhân vật “không đáng tin cậy”. Đó có thể là một thương binh bị chấn thương  
(6) Nguyễn Xuân Khánh (2000), Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ.  
(7) Thuận (2005), Chinatown, Nxb Đà Nẵng.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
44  
thần kinh như Kiên (Ni bun chiến tranh - Bảo Ninh); có thể là một hồn ma đã uống nước Bến  
Lú, Sông Mê nên nhớ nhớ, quên quên như các nhân vật Hương và Hoa (Người sông Mê - Châu  
Diên); có thể là nhân vật bào thai đang nằm trong bng m(Thiên thần sám hối - Tạ Duy Anh); có  
khi là một thanh niên bị điện git chết ht ri bỗng có khả năng đi ngược về quá khứ (Trong sương  
hng hin ra - Hồ Anh Thái)…  
Ni bun chiến tranh(8) sdụng người trn thuật không phải là cái tôi bình thường mà là cái  
tôi tâm hồn đã bị chấn thương tâm lí. Anh ta cũng không phải kvchiến tranh như đang diễn ra  
mà là câu chuyện được nhli; nhli những gì ấn tượng nhất. Trong tư cách một “nhà văn  
phường”, Kiên luôn nhắc đi nhắc li lời thú nhận rằng: mình viết trong trạng thái “rối bời”, “bấn  
loạn”. Câu chuyện vchiến tranh được hiện lên trong dòng kí ức “chập chn bất định” của Kiên…  
Điểm nhìn chủ quan hóa triệt để như thế, đòi hỏi ở người đọc sngvc, sphn biện. Giao điểm  
nhìn trần thut cho một nhân vật bchấn thương như vậy, nhà văn Bảo Ninh muốn độc giả cùng  
tri nghim vi một người lính “vô danh” nỗi đau đắng tận cùng của thân phận con người trong  
chiến tranh, để ri tri nhận đầy đủ hơn giá trị ca cuc sống hòa bình. Mở đầu tiu thuyết Người  
sông Mê, tác giả Châu Diên công khai rằng: ông không định “kể li một câu chuyện” giống vi  
hin thực, không nhằm ging gii, cắt nghĩa câu chuyện bằng lôgic đời sống mà đang trình bày một  
“trò chơi” của văn chương: “Trời và Đất đã cho sinh ra một ngày Đầu tiên, trong ngày đó có câu  
chuyện liên quan đến cô gái tên là Hoa… Có điều khó hiểu và cũng gây khó dễ cho người kể  
chuyn, ấy là khi thì cô này nghĩ mình là Hoa, có khi chính cô lại cho rằng mình là Hương”; “Cô  
nhớ và không nhớ. Thực tình cô cũng có nhớ, nhưng rồi nhnhớ quên quên, thành thử là quên và  
nhln lộn. Cô làm cho nhiều người ra trình diện trong cuốn sách này cũng có tật giống cô, ấy là  
cnhnhớ quên quên. Và có khi cô còn làm cho cả nhng ai tiếp xúc với các nhân vật trong sách  
này cũng lây cái tật quên quên nhớ nhớ ấy…(9). Nhân vật kchuyn ở đây thật “không đáng tin  
cậy”. Cô ta chỉ là một hn ma. Ngay từ đầu tác phẩm, tính chất hư cấu, ba đặt cố ý lộ liu nhm  
gây ra sự ngvc với người đọc. Thậm chí tính “trò chơi” được tiết lngay từ tên truyện: Người  
sông Mê. Tác phẩm không chia chương mà chia khúc, vừa theo trình tự kiếp luân hồi như quan  
niệm nhà Phật, va ngu hứng, vu vơ: Kiếp o, Kiếp gc, Kiếp thc… Hiện thc giả định này buộc  
người đọc phải có cách ứng xử khác: văn chương có nhất thiết chỉ có mục đích phản ánh hiện thc  
không? Văn chương còn có thể phản ánh những suy tư, mơ mộng vnhững vùng hiện thc bt khả  
tri - hin thc của tâm linh, ảo giác. Nhân vật trn thut ở đây không được điển hình hoá mà rất dị  
biệt, cá biệt, nhưng lại to ra mt hiu ng thẩm mĩ bất ngvới người đọc. Đọc xong câu chuyện,  
người ta bng thấy “thương người và lại thương thân”. Tiểu thuyết Thiên thn sám hối xác nhận  
“trò chơi” bằng chính lời Tựa: “Câu chuyện khó tin này là của một đứa trẻ còn ở trong bng m.  
(8) Bảo Ninh (2005), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội Nhà văn.  
(9) Châu Diên (2005), Người sông Mê, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.5.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
45  
Nếu đọc xong mà quý vị vẫn không tin thì cũng không sao(10). Và người trn thuật xưng “tôi”  
chính là cái bào thai ấy. Chỉ còn 72 giờ nữa là thai nhi phải chào đời. Nó đang trăn trở: có nên ra  
đời hay không? Ban đầu thai nhi “khao khát chờ đến cái ngày vĩ đại ấy”, nhưng rồi nó quyết định  
cứ ở trong bng m. Bởi nó đã nghe được câu chuyện một bà mẹ sinh con ri bcon ti bnh vin;  
chuyn một cô gái liên tục bsảy thai vì quả báo do người chồng độc ác đã từng giết người; chuyn  
một gã thanh niên coi đứa con là tội nợ… Từ đó, tác phẩm gợi ám ảnh nơi độc givmt hin  
thc trớ trêu rất đáng bận tâm của đời sống đương đại: nhng nhm lẫn đáng buồn của con người,  
nhng dc vọng tăm tối đang hủy hoại cái đẹp và ăn mòn các giá trị sống…  
3. KT LUN  
Có thể thấy, xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975  
là không ngừng gia tăng điểm nhìn cá thể, và đa dạng hóa điểm nhìn trn thuật. Trước áp lc  
cnh tranh từ các phương tiện giải trí - truyền thông, lối sống và nhịp độ sng ca thời đại  
ktrị… buộc người viết văn phải nlc kiếm tìm hình thức mới cho văn xuôi Việt Nam đương  
đại. Dường như nhà văn hôm nay đang cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Có thể viết văn như  
thế nào? Khi tái hiện hin thực đời sng, nhiều nhà văn có xu hướng vượt khỏi mô hình trần thut  
quen thuộc, xác lập mi quan hmi giữa văn chương với hin thc, giữa nhà văn với bạn đọc để  
to ra nhng kinh nghiệm đọc mới. Đa dạng hóa điểm nhìn, phá vỡ cái nhìn toàn tri; văn xuôi  
đương đại tìm đến những điểm nhìn mang rõ dấu ấn cá nhân, cá thể. Văn học của điểm nhìn nhìn  
trn thuật như vậy đúng là không dễ đọc vi mọi độc giả, đặc biệt là những độc giả yêu thích sự  
mực thước, hiền lành.  
TÀI LIU THAM KHO  
1. Nguyn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.  
2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyn Khc Phi (1999), Từ điển thut ngữ văn học, Nxb Đại hc  
Quốc gia Hà Nội.  
3. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Vit Nam sau 1975 - Nhng vấn đề nghiên  
cứu và giảng dy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.  
4. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2004), Tshc - mt svấn đề lý luận và lịch s, Nxb Đại học Sư  
phạm Hà Nội.  
5. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2008), Tshc - mt svấn đề lý luận và lịch s, Phn 2, Nxb  
Đại học Sư phạm Hà Nội.  
6. Các tuyển tp truyn ngn, tiu thuyết, kí Việt Nam sau 1975.  
(10) Tạ Duy Anh (2004), Thiên thần sám hối, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.5.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
46  
THE MOVEMENT OF THE TREND WITH THE NARRATIVE  
OVERVIEW IN VIETNAMESE PROSE AFTER 1975  
Abstract:Narration is an aspect of the basic form of narrative works of art, plays a  
important role in conveying the artistic purpose and aesthetic attitude of the writer. This  
article is used for the purpose of summarizing, generalizing the narrative point of view-a  
prominent level. Futhermore, this article also reflects the innovation of practical prose in  
Vietnam after 1975 and contributes to portraying honestly the painting of literature and  
history which the reader, the learner, the literature lecturer are now interested in.  
Keywords: Narrative point of view, prose after 1975, Vietnam.  
pdf 10 trang baolam 12/05/2022 5640
Bạn đang xem tài liệu "Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfxu_huong_van_dong_cua_diem_nhin_tran_thuat_trong_van_xuoi_vi.pdf