Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng vận dụng đối với sinh viên Ngữ văn
ĐỀ XUẤT GIẢI
PHÁP NÂNG CAO
Trƣờng Đại học Bạc Liêu
Điện thoại: 0979.307.147
CHẤT
GIÁO DỤC THEO
HƢỚNG VẬN
LƢỢNG
DỤNG ĐỐI VỚI
SINH VIÊN NGỮ
VĂN
Email:
ThS. TRẦN THỊ NGỌC DIỄM
TÓM TẮT
Đổi mới nội dung, PPDH Ngữ văn là yêu cầu tất yếu. Khảo sát tình hình tại đơn
vị, chúng tôi đề xuất cách dạy học Ngữ văn theo hƣớng vận dụng. Đây là hình thức đảm
bảo khâu chọn lọc kiến thức, phát huy khả năng cảm thụ văn học thông qua đối thoại,
tăng cƣờng nghiên cứu khoa học Văn học, thắt chặt khâu đánh giá và thƣờng xuyên tổ
chức các Hội thảo chuyên ngành giúp SV hoàn thiện năng lực chuyên môn và kỹ năng.
Từ khóa: giải pháp, đổi mới, năng lực
ABSTRACT
Proposed Solutions Improve Quality Education Towards Student Implications for
Language Arts
Renewal content and methods of teaching philology is indispensable
requirement. Surveying the situation in units, we propose learning how to manipulate
the direction of Literature. This form ensures the selection of knowledge, promotion of
literary intuition through dialogue, strengthen scientific research literature, tight
stitching and evaluated regularly organizes specialized workshop to help students
complete their professional capabilities and skills.
Key words: solution, innovation, competency
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, giáo dục Việt Nam đang hƣớng đến việc đổi mới từ cách dạy học đặt
nặng lí thuyết hàn lâm sang dạy học thực hành. Để thực hiện mục tiêu này, đối với các
khối ngành xã hội là một thách thức lớn. Theo chủ trƣơng của Bộ Giáo dục những năm
760
gần đây, các trƣờng Cao đẳng, Đại học trong cả nƣớc dần chuyển từ hình thức đào tạo
từ học chế niên chế sang tín chỉ. Bƣớc chuyển mới này nhằm nâng cao chất lƣợng đào
tạo với sản phẩm đầu ra đáp ứng đƣợc yêu cầu của xã hội. Hay nói cách khác nguồn
nhân lực trong tƣơng lai phải là những con ngƣời sáng tạo, chủ động, nói đi đôi với làm.
Nhƣng làm thế nào để nâng cao chất lƣợng đào tạo? Đó là một vấn đề còn bỏ ngỏ cho
nhà quản lí và cho cả ngƣời dạy lẫn ngƣời học. Ở bài viết này, chúng tôi không có tham
vọng đi sâu tìm ra phƣơng pháp dạy học (PPDH) mới làm chiến lƣợc lâu dài cho giáo
dục Việt Nam mà chỉ đề xuất một số giải pháp tạm thời khắc phục những khó khăn
trƣớc mắt mà các nhà quản lí, các giảng viên (GV), sinh viên (SV) ngành Ngữ Văn vấp
phải khi chuyển từ hình thức đào tạo niên chế sang tín chỉ nhằm nâng cao chất lƣợng
đầu ra phù hợp với yêu cầu tuyển dụng chung của các cơ sở giáo dục cũng nhƣ có
hƣớng điều chỉnh khung chƣơng trình dạy học Ngữ văn trên cơ sở chọn lọc nội dung.
Đó là PPDH theo hƣớng vận dụng.
2. Nội dung
2.1. Khảo sát tình hình thực tế
Chúng ta biết rằng, ngƣời lao động trẻ là một lực lƣợng giữ vai trò nòng cốt của xã
hội. Đặc biệt là đội ngủ nhà giáo trong tƣơng lai. Họ là những ngƣời ƣơm mầm cho bao
thế hệ. Vì thế, việc chú trọng đào tạo chất lƣợng nguồn lao động này là mục tiêu hàng
đầu của giáo dục Việt Nam nói chung và của các cơ sở giáo dục Cao đẳng, Đại học nói
riêng.
Mặt khác, trong thời kì hội nhập, điều kiện cần và đủ ở ngƣời lao động không chỉ
giỏi về năng lực chuyên môn mà còn phải sáng tạo, nhanh nhạy, có khả năng ứng biến
trƣớc mọi tình huống. Điều này chứng tỏ các kỹ năng mềm nhƣ: kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng trình bày vấn đề, thuyết trình, kỹ năng hợp tác, kỹ năng sử dụng các phần mềm
điện tử… có tầm quan trọng không kém mà một ngƣời lao động mới cần có để bƣớc tới
thành công.
Để bám sát tình hình thực tiễn nhằm đƣa ra những đề xuất hợp lí, bản thân ngƣời
viết là giảng viên ngành Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam (trƣớc đây là ngành Ngữ văn),
khoa Sƣ phạm, trƣờng Đại học Bạc Liêu, vì thế ở bài viết này, chúng tôi xin trình bày
phần khảo sát tình hình thực tế ở các lớp đƣợc phụ trách giảng dạy theo học chế tín chỉ
tại đơn vị làm cơ sở thực tiễn. Qua đó, nhằm nêu lên những khó khăn mà GV, SV gặp
phải trong tình hình thực tế khi chuyển từ hình thức dạy học niên chế sang tín chỉ và
đƣa ra giải pháp khắc phục chung cho SV khối ngành này.
Việc chuyển sang học chế tín chỉ tại trƣờng bắt đầu từ năm 2011 đến nay, và đƣợc
áp dụng rộng rải để dạy các lớp khóa mới. Khảo sát thực tế, chúng tôi gặp không ít khó
khăn.
761
Đầu tiên là vấn đề thiết kế đề cương chi tiết học phần.
Về phía người dạy, mở đầu cho học chế tín chỉ yêu cầu ngƣời dạy phải thay đổi
khung chƣơng trình đào tạo. Nghĩa là với một số môn học, hoặc có thể giữ nguyên hoặc
tăng, giảm số tiết trong các học phần tùy theo yêu cầu của khối ngành đào tạo. Qua khảo
sát, chúng tôi có bảng đối chiếu sau:
Bảng 1: Bảng khảo sát sự thay đổi số tiết học ở các học phần đã đƣợc áp dụng vào
thực tiễn giảng dạy các lớp Ngữ văn 2011-2014.
Stt Mã số
Tên học phần
Niên chế
Tín chỉ
Đvht
Số Đv Số
tiết ht tiết
01 NV319 Ngữ pháp tiếng Việt 1
02 NV320 Ngữ pháp tiếng Việt 2
06
02
02
03
90
30
30
45
03 NV649 Đại cƣơng
ngôn ngữ học
04
60
04 NV656 Văn học Việt Nam 1, 2 (Văn học trung 10
đại)
06
06
150
180
90
90
05 NV657 Văn học Việt Nam 3,4,5 (Văn học hiện 12
đại)
06 NV640 Thi pháp học
01
04
04
03
04
06
02
03
03
02
03
02
03
15
60
60
45
60
90
30
45
45
30
45
30
45
07 NV619 Văn học Trung Quốc
08 NV604 Văn học dân gian 1, 2
09 NV611 Ngữ âm tiếng Việt
10 NV653 Làm văn
11 NV607 Lí luận văn học 1
12 NV612 Lí luận văn học 2
762
13 NV318 Từ vựng tiếng Việt
14 NV311 Văn học Nga 1, 2
03
05
02
02
45
75
30
45
15 NV654 Lý thuyết văn bản
03
06
02
03
45
90
30
45
16 NV310 Văn học phƣơng Tây 1, 2
Ghi chú: Đvht: Đơn vị học trình.
Qua đó, chúng ta nhận thấy khung chƣơng trình có sự thay đổi khá lớn. Số môn cắt
giảm số tiết đạt 93.75% so với tổng số 16 môn đạt 100%, còn lại chỉ có một môn (Thi
pháp học) tăng số tiết dạy lên 15 tiết chiếm 6.25 %. Trong đó, đáng kể phải nói đến các
học phần nhƣ: Ngữ pháp tiếng Việt 1,2 với 60 tiết so với trƣớc 90 tiết, giảm 30 tiết; Văn
học Việt Nam 1, 2 (Văn học trung đại) rút lại còn 90 tiết so với trƣớc là 150 tiết (10
đvht); Văn học Việt Nam 3,4,5 (Văn học hiện đại) với 90 tiết so với trƣớc là 180 tiết
tƣơng đƣơng với 12 đvht. Bên cạnh đó, phân môn Văn học Nga, Văn học phƣơng Tây
cũng có sự chênh lệch khá rõ. Văn học Nga 1,2 gồm 75 tiết (5 đvht) gộp lại thành Văn
học Nga còn 45 tiết (3đvht); Văn học phƣơng Tây 1,2 với 90 tiết, gộp lại thành môn
Văn học phƣơng Tây 45 tiết. Các học phần còn lại đều cắt giảm 15 tiết gồm: Đại cƣơng
ngôn ngữ học, Văn học Trung Quốc, Văn học dân gian, Ngữ âm tiếng Việt, Làm văn, Lí
luận văn học , Từ vựng tiếng Việt và Lý thuyết văn bản. Sự thay đổi này là do hai
nguyên nhân khách quan. Một là do tên chuyên ngành có sự thay đổi từ “Ngữ Văn”
sang “Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam”. Hai là do hình thức dạy học chuyển từ niên chế
sang tín chỉ. Vậy vấn đề khó ở đâu? Khi giảm tải hoặc tăng lên số tiết học trong khung
chƣơng trình, GV phải cân nhắc nhiều về mặt nội dung, nên giữ lại hoặc thêm vào nội
dung nào để giảng dạy. Nhất là đối với các môn chuyên ngành. Thêm vào đó, độ khó
còn là khi tƣ duy nhà giáo đã quen với lối dạy theo niên chế luôn muốn truyền thụ thật
nhiều kiến thức cho SV mà quên mất “chìa khóa” của thành công tri thức là dạy người
học biết độc lập nghiên cứu hay nói cách khác là dạy người học biết tự học. Mặt
khác, điều này còn liên quan đến thời gian học tập. Ngƣời dạy phải có chiến lƣợc thời
gian hợp lí cho từng chƣơng, từng bài để tránh tình trạng “cháy giáo án”. Khi dạy theo
tín chỉ đòi hỏi GV phải lựa chọn những điểm nhấn cốt lõi của nội dung bài dạy phù hợp
với việc vận dụng kiến thức sau khi ra trƣờng của SV để trình bày, còn lại để SV tự
nghiên cứu.
Kế tiếp là tình hình giảng dạy lớp đông.
Bảng 2: Bảng thống kê sĩ số SV qua các khóa học theo hệ thống tín chỉ
763
Khối ngành
Khóa
Lớp
5NV1
5NV2
6NV
Số lƣợng (SV)
Tiếng Việt và văn hóa
Việt Nam (Ngữ văn)
V
56
53
90
76
75
VI
VII
7NV1
7NV2
Nguồn: Khoa Sƣ phạm - trƣờng Đại học Bạc Liêu 02/2014
Việc giảng dạy một lớp có quá đông SV (số lƣợng trên 50 SV/ 1 lớp) là một trở ngại
lớn trong quá trình đào tạo chất lƣợng.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, đối với lớp đông SV, thì điều khó nhất là khâu
quản lí lớp học. Một lớp đông, ngƣời dạy khó thu hút sự chú ý của tất cả SV, khó bao
quát hết lớp học, hoặc không thể theo sát từng SV để kịp thời hƣớng dẫn các em giải
quyết vấn đề. Khi thảo luận sẽ phát sinh tình trạng 1 số SV không chăm chú vào bài học
mà chủ yếu làm việc riêng hoặc không làm gì cả (bởi suy nghĩ: đã có nhiều bạn phát
biểu, biết khi nào mới đến lƣợt mình). Hay nói cách khác, GV khó tổ chức các hình thức
học tập tích cực nhằm giúp SV phát triển toàn diện các kỹ năng học tập cơ bản (kỹ năng
nhận thức, kỹ năng suy luận, giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp,…) mà vẫn đảm bảo
lớp trật tự, nghiêm túc học tập, sâu sát trong công việc và đủ thời gian. Riêng đối với
SV thuộc khối ngành xã hội nhƣ Ngữ văn lại là vấn đề nan giải. Đặc trƣng của các em là
lĩnh hội kiến thức ở nhiều cách nhìn. Thêm vào đó, thế mạnh của các em là việc sử dụng
tốt ngôn ngữ nhƣ một phƣơng tiện đắc dụng khi phản luận vấn đề. Vì thế, việc phát sinh
nhiều ý kiến trái chiều khi cùng thảo luận một vấn đề là tất yếu. Điều này ngoài mặt tích
cực đạt đƣợc còn một khuyết điểm là đôi khi tạo nên bầu không khí nặng nề trong lớp
học. GV khó quản lí lớp trật tự và bao quát hết SV. Tuy nhiên, không phải tất cả những
điều trên đều không thể thực hiện tốt ở lớp có đông SV với hình thức đào tạo theo học
chế tín chỉ. Vấn đề là chúng ta tìm ra giải pháp gì hiệu quả để đạt đƣợc mục tiêu bài
học.
Ngƣợc lại về phía người học, họ cũng mắc phải những khó khăn không kém.
Họ phải khá vất vả trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập của mình theo đề cƣơng bài
giảng của GV. Theo quy định, trung bình cứ 1 tín chỉ học ở lớp thì các em sẽ có 2 tín
chỉ tự nghiên cứu. Chẳng hạn, SV học 30 tiết ở lớp thì có 60 tiết tự học. Do đó, ngoài
764
giờ lên lớp, ngƣời học còn phải học thêm và tham gia các lớp học ngoại khóa khác
nhằm nâng cao vốn kiến thức của mình. Điều này thật sự có hiệu quả hay không? Khi
ngày này qua ngày khác, khung thời gian của họ bị bịt kín, phải đầu tƣ quá nhiều môn
cùng một thời điểm bao gồm bài tập trên lớp, đến kiến thức mở rộng dành cho tự học.
Họ sẽ thật sự chiếm lĩnh đƣợc tri thức khoa học hay máy móc ghi nhớ những điều đã có
từ sách vở, từ thầy cô của mình? Và thời gian nào để họ sắp xếp dành cho bản thân, cho
sức khỏe, cho nhu cầu đƣợc nghỉ ngơi?
2.2. Giải pháp
Từ thực tế trên, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp giúp ngƣời học nâng cao
tính tích cực, chủ động tham gia vào bài học, tăng khả năng độc lập, sáng tạo và khám
phá tri thức theo hƣớng vận dụng. Điều này nhằm hƣớng đến mục tiêu giáo dục lâu dài-
cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất, sức
khỏe tốt có thể tham gia vào các vị trí quan trọng thuộc các lĩnh vực mà nhà tuyển dụng
yêu cầu. Nhất là đối với đội ngủ nhà giáo tƣơng lai. SV ra trƣờng không chỉ nắm vững
nền tảng lí thuyết mà còn va chạm với thực tế, ứng dụng linh hoạt bài học vào công việc
của mình một cách hiệu quả nhất với phƣơng châm: học đi đôi với hành.
2.2.1. Dạy học có điểm nhấn và dạy học thực hành
Bất kì một bài học nào thuộc lĩnh vực gì cũng có nhiều nội dung. Vì thế, GV cần xác
định nội dung trọng tâm của bài học. Từ đó, GV đi sâu, mở rộng, liên hệ bài học với thực tiễn.
Đây là phƣơng châm “học phải đi đôi với hành”. Khi thiết kế đề cƣơng chi tiết học phần, GV
cũng nên căn cứ vào tình hình thực tiễn tuyển dụng của xã hội mà có hƣớng biên soạn hợp lí.
Từng chƣơng, từng bài nên có mục tiêu rõ ràng, cụ thể để SV dễ dàng tiếp cận, nắm bắt trọng
tâm bài học. Riêng đối với SV khối ngành Ngữ văn bậc Cao đẳng, Đại học, GV cần phải quán
triệt mục tiêu đào tạo GV theo chuẩn THCS, THPT của Bộ giáo dục để thiết kế khung chƣơng
trình khớp với thực tiễn giảng dạy của các em tại các cơ sở giáo dục. Đồng thời liên hệ khung
chƣơng trình này để chỉ ra những ƣu điểm và hạn chế của nó. Qua đó, giúp các em có cái nhìn
tổng quan hơn, hƣớng tới mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện chƣơng trình giáo dục Ngữ văn
cấp 2, 3. Chẳng hạn, khi dạy môn “Văn học phƣơng Tây”, “Văn học Việt Nam 1, 2, 3, 4”,…,
ngƣời dạy nên tham khảo chƣơng trình Ngữ văn cấp THCS, THPT xem các tác gia, tác giả nào
nên đƣợc đƣa ra giảng dạy (Banzac, Victor Huygo, Tản Đà, Tố Hữu, Huy Cận, Hồ Chí Minh,
Nguyễn Quang Sáng….) và cần giảng dạy những nội dung gì. Từ đó, ngƣời dạy tiến hành soạn
thảo đề cƣơng môn học bao quát đƣợc sự nghiệp sáng tác của các tác gia, tác giả này để cùng
ngƣời học thảo luận, nghiên cứu sâu. Điều này có giá trị thiết thực cho ngƣời học khi ra trƣờng
giảng dạy các bài học có liên quan trực tiếp đến nội dung môn học.
Mặt khác, việc liên hệ thực tiễn bài học này còn có ý nghĩa tầm xa. SV sẽ nhận thấy
môn học thú vị, bổ ích hơn khi nó thiết thực, gắn liền với thực tế ngành nghề đào tạo. Giúp các
em làm tốt công việc đƣợc giao sau khi ra trƣờng.
765
2.2.2. Nâng cao việc dạy học theo hướng đối thoại nhất là đối với lớp có đông SV
Đây là môi trƣờng mà SV luôn đƣợc tƣơng tác, thảo luận. Nó tạo ra sự khác biệt
về nhu cầu học hỏi của từng SV. Họ thấy mình có động lực để đào sâu tìm hiểu kiến
thức từ nhiều nguồn, nhiều góc độ, học tập theo cách của mình chứ không bị giới hạn
trong một khuôn mẫu nào. Trong một trƣờng Đại học, Cao đẳng việc giảng dạy ở bất kì
môn học nào không chỉ đơn thuần là dạy cho SV tiếp nhận, khám phá kiến thức trong
phạm vi bài học mà ngƣời dạy còn chú trọng việc cung cấp thông tin trên cơ sở liên hệ
thực tiễn, cập nhật trong tình hình mới. Và nhất là những thông tin “mở” để ngƣời học
trăn trở. Vì vậy, dạy học theo hƣớng đối thoại là một trong những phƣơng pháp phù hợp
với tiêu chí “dạy ít, học nhiều hơn. Trong đó, chú trọng rèn luyện cho SV cách tự
học, làm việc nhóm và nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngủ GV”. Để việc dạy
học này có hiệu quả, chúng ta tiến hành các bƣớc sau:
Bƣớc 1: Ngƣời dạy lựa chọn và đƣa ra vấn đề cần thảo luận. Ngƣời học sẽ nghiên
cứu tài liệu và chuẩn bị kĩ các vấn đề sẽ thảo luận.
Bƣớc 2: Ngƣời dạy chủ trì thảo luận còn ngƣời học sẽ trình bày cách hiểu, hƣớng
triển khai vấn đề đƣợc giao trƣớc tập thể lớp học.
Bƣớc 3: Ngƣời dạy hƣớng dẫn thảo luận, phát huy tính tích cực chủ động trong
sinh viên. Còn ngƣời học sẽ trình bày ý kiến cá nhân và tranh luận với bạn đồng học
thậm chí là với ngƣời dạy để giải mã vấn đề.
Bƣớc 4: Ngƣời dạy đánh giá ƣu điểm, hạn chế về nội dung, hình thức trình bày của
ngƣời học, chỉ ra vấn đề cần khắc phục và tiếp tục suy nghĩ mở rộng vấn đề. Riêng
ngƣời học sẽ đề xuất hoặc trình bày những băn khoăn để thầy và trò cùng nhau tháo gỡ.
Đối với SV ngành Văn, việc học tập theo hƣớng đối thoại là một đề xuất tích cực.
Theo cách dạy truyền thống đối với riêng môn Ngữ văn, GV thƣờng dạy các em theo
hƣớng ổn định, với khung chƣơng chuẩn gồm các nội dung cho từng bài học. Điều này
vô tình đã khép kín tƣ duy sáng tạo của các em khi chiếm lĩnh, cảm thụ nội dung tác
phẩm. Trong khi đó, ở bậc Đại học SV đứng ở một tầm với cao hơn, các em có thể làm
chủ vấn đề, thỏa sức khám phá tác phẩm theo cách riêng cuả mình, thậm chí có thể phản
bác những cách hiểu truyền thống và đƣa ra những luận điểm mới mẻ buộc ngƣời
nghiên cứu phải trăn trở, nhìn lại. Vì vậy, việc học tập theo hƣớng đối thoại áp dụng cho
SV khối ngành này sẽ khắc phục đƣợc tƣ duy cứng nhắc, một chiều thay bằng tƣ duy
phản biện, sáng tạo, đa chiều góp phần thành công khi chiếm lĩnh kiến thức khoa học
Văn học.
2.2.3. Khuyến khích SV cùng tham gia nghiên cứu khoa học
766
Đây là nhiệm vụ chung không chỉ của ngƣời dạy mà còn cả ngƣời học. Chúng ta
nên khuyến khích, động viên các em cùng tham gia nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực
chuyên ngành. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho việc trao dồi kiến thức, nâng cao chất
lƣợng học tập và là cách để SV khẳng định năng lực của mình ngay khi ngồi trên ghế
nhà trƣờng. Cũng nhƣ góp phần hình thành một phẩm chất tốt của ngƣời lao động trong
thời kì mới: độc lập, tự tin và sáng tạo. Khi làm đƣợc điều này, SV sẽ tự tin hơn khi ra
trƣờng đứng trên bục giảng, luôn có ý thức học tập không ngừng để giảng dạy có chất
lƣợng các phân môn mà mình đảm nhận.
Mặt khác, việc nghiên cứu khoa học chuyên ngành sẽ nung đúc cho các em tinh
thần cầu thị cao về chuyên môn, hiểu rõ cái hay, đỉnh cao của ngành nghề mình đang
theo học. Từ đó, giúp các em thêm yêu nghề, tự tin với nghề. Là SV ngành Ngữ văn, có
thể các em sẽ là những nhà giáo dục tƣơng lai thì việc yêu nghề, tâm huyết với nghề là
vô cùng cần thiết. Chỉ khi các em say mê thật sự với ngành nghề, với tác phẩm mà mình
sẽ dạy thì các em mới “kí gửi” ƣớc mơ chinh phục, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức văn
học cho thế hệ ngƣời học mai sau. Họ sẽ cảm nhận đƣợc sức hút tỏa ra từ bài học và dễ
dàng khắc sâu nội dung bài để cùng khám phá, trăn trở và thắp tiếp “ngọn lửa” ấy cho
bao lớp ngƣời kế tiếp.
2.2.4. Thắt chặt khâu kiểm tra đánh giá. Đảm bảo thực hiện liên tục và kịp thời
Để khuyến khích tinh thần học tập của SV, cũng nhƣ dễ dàng quản lí lớp học
(đối với lớp đông SV), hỗ trợ cho SV làm việc nhóm tích cực, GV nên linh hoạt khi tính
điểm. Chẳng hạn, GV có thể cơ cấu thang điểm cuối kì thành hai cột theo tỉ lệ 3/7. Cột 1
là điểm trên lớp hay còn gọi là điểm điều kiện (chiếm tỉ lệ 30% tổng điểm hết môn). Cột
2 là điểm thi cuối kì tƣơng đƣơng 70% tổng điểm hết môn. Đối với điểm trên lớp, GV
nên chia ra các cột điểm nhỏ hơn bao gồm: 10% điểm cho các SV đi học đều và hoàn
thành bài tập nhóm; 10% cho SV tham gia phát biểu xây dựng bài thƣờng xuyên; 10%
còn lại dành cho cột điểm bài kiểm tra giữa kì. Việc theo dõi đánh giá tính điểm cho SV
đƣợc thực hiện liên tục qua từng buổi học và đƣợc công bố rõ ràng sau khi kết thúc môn
học trƣớc lớp. Điều này sẽ giúp SV có thái độ học tập tích cực và ý chí phấn đấu khi
khám phá nội dung bài học. Nhất là GV cũng có thể quản lí lớp dễ dàng hơn qua từng
tiết học.
2.2.5. Thƣờng xuyên tổ chức các Hội thảo khoa học chuyên ngành (Hội Thảo về phƣơng
pháp dạy học Ngữ Văn, Hội thảo văn học Đồng bằng sông Cửu Long…), hoặc tổ chức
các diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm dạy học trong và ngoài trƣờng. Đồng thời mở các câu
lạc bộ vừa chơi vừa học cho SV chuyên ngành
Việc tổ chức các hội thảo khoa học chuyên ngành và các diễn đàn chia sẻ kinh
nghiệm dạy học, quản lí SV là vô cùng thiết thực. Trong quá trình lên lớp, GV gặp
không ít tình huống bất ngờ, phát sinh khó ứng xử. Đặc biệt là đối với các thầy cô giáo
767
trẻ mới vào nghề. Những buổi hội thảo về chuyên môn, về phƣơng pháp giảng dạy, hay
các diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm daỵ học Ngữ văn sẽ là “chìa khóa vàng” giúp họ khắc
phục đƣợc vấn đề của mình. Bên cạnh đó, hội thảo cũng là dịp để chúng ta nhìn lại một
lần nữa PPDH hiện tại đã đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tiễn hay chƣa thông qua các vấn
vấn đề đƣợc đại biểu đề cập. Mặt khác, khi quy mô hội thảo mở rộng đối tƣợng tham
gia của các trƣờng trong và ngoài khu vực, chúng ta sẽ đƣợc sẻ chia nhiều ý kiến khác
nhau từ trƣờng bạn cùng những tình huống sƣ phạm, những vấn đề khó khăn khi quản lí
lớp học, các vấn đề chuyên môn gắn với nhu cầu của ngƣời học... Từ đó, chúng ta sẽ có
cách nhìn khách quan hơn khi hoàn thiện lại khung chƣơng trình đào tạo tại đơn vị
mình, hƣớng tới việc giáo dục con ngƣời toàn diện phù hợp với yêu cầu mới của xã hội.
Đặc biệt, chúng ta có thể xác lập đƣợc cơ sở lí thuyết và thực tiễn cho việc đổi mới công
tác đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực tƣơng thích với nhu cầu đặt ra. Đây cũng là dịp
để các nhà khoa học, các chuyên gia, các nhà giáo dục đã và đang công tác trao đổi về
tình hình dạy học hiện nay và đề xuất định hƣớng đổi mới chƣơng trình dạy học Ngữ
Văn bậc Đại học, Cao đẳng theo hƣớng phát triển năng lực, chú trọng thực hành. Đồng
thời, việc tổ chức các hội thảo, diễn đàn này còn là nơi trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ
giữa các cơ sở đào tạo và sử dụng giáo viên Ngữ văn ở bậc THPT, THCS. Qua đó, thu
hút sự quan tâm và tạo bƣớc chuyển biến về nhận thức trong giới nghiên cứu và giảng
dạy, chuẩn bị cho việc đổi mới căn bản, toàn diện việc dạy học Ngữ văn nói chung.
Thực hiện đƣợc điều này nghĩa là chúng ta đang “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục theo hƣớng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; đổi mới chƣơng trình, nội dung,
phƣơng pháp dạy học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo, coi
trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ thuật thực hành” mà Nghị
quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đề ra.
Riêng đối với SV, chúng ta nên cùng phối hợp để tổ chức các Câu lạc bộ chuyên
ngành. Đây là một sân chơi lành mạnh, bổ ích dành cho ngƣời dạy lẫn ngƣời học. Sau
thời gian học tập, làm việc mệt mỏi, các câu lạc bộ văn học sẽ là nơi gặp gỡ, giao lƣu,
trao đổi học thuật giữa GV với SV, SV với SV. Môi trƣờng này vừa là sân chơi giúp
ngƣời học giải trí, thƣ giãn mà còn là dịp để họ mở rộng kiến thức, nâng cao tầm nhìn
xã hội, có thể phát huy vai trò chủ đạo của mình khi trình bày ý kiến cá nhân về những
vấn đề khác nhau trong lĩnh vực chuyên môn. Bên cạnh đó, các em cũng có thể rèn
luyện các kỹ năng mềm nhƣ: kỹ năng giao tiếp trƣớc đám đông, kỹ năng trình bày một
vấn đề…một tố chất cần thiết dành cho ngƣời lao động mới. Là SV Văn, các em có thể
tham gia các câu lạc bộ nhƣ: CLB nhà giáo tƣơng lai, CLB văn học, CLB cây bút trẻ,
CLB ngâm thơ, bình thơ… Đây sẽ là bƣớc đệm giúp các em hoàn thiện bản thân, thỏa
sức sáng tạo, nâng cao kỹ năng thực hành đối với chuyên môn của mình để hội nhập tốt
vào môi trƣờng xã hội.
768
3. Kết luận
Chất lƣợng dạy và học do nhiều yếu tố quyết định. Song, PPDH đóng vai trò then
chốt, chủ đạo ảnh hƣởng trực tiếp đến chất lƣợng đầu ra của SV nói chung và SV ngành
Ngữ Văn nói riêng. Sƣ phạm là một ngành mô phạm. Vì thế, chúng ta phải dần khắc
phục và phát huy những ƣu, khuyết điểm trong PPDH làm kiểu mẫu cho giáo dục quốc
gia. Ở bài viết này, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò của thực tiễn gắn liền với
giáo dục. Trong đó, các khối ngành Sƣ phạm sẽ là lực lƣợng chủ lực đối với sự nghiệp
phát triển lâu dài của đất nƣớc. Vì thế, chúng tôi đặc biệt lƣu ý đến các đối tƣợng này
với hi vọng: Họ sẽ là nhịp cầu nối liền khoảng cách giữa lí thuyết và thực hành. Trên
đây là một số giải pháp đề xuất của chúng tôi nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng giáo
dục theo hướng vận dụng dành cho SV khối ngành Ngữ Văn. Chúng tôi rất mong nhận
đƣợc ý kiến chia sẻ của Quý độc giả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Ngọc Hồ (2008), Những vấn đề lí luận giáo dục, Nxb. Đại học quốc gia Tp
HCM.
2. Hồ Tấn Nguyên Minh (2013), “Hƣớng đi mở cho giờ dạy Ngữ văn trong trƣờng trung
học phổ thông”, www.giaoduc.com.vn.
3. Nguyễn Văn Nở, Nguyễn Thị Hồng Nam, Nguyễn Lâm Điền (2011), Những vấn đề
văn học, ngôn ngữ và giảng dạy ngữ văn, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
4. Hà Nhật Thăng (1995), Tổ chức hoạt động giáo dục, Hà Nội.
18/10/2007.
769
Bạn đang xem tài liệu "Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng vận dụng đối với sinh viên Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- de_xuat_giai_phap_nang_cao_chat_luong_giao_duc_theo_huong_va.pdf