Những Môtíp không gian được sử dụng trong ca dao tình yêu đôi lứa

TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN  
Soá 20 - Thaùng 4/2014  
NHỮNG MÔTÍP KHÔNG GIAN ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG  
CA DAO TÌNH YÊU ĐÔI LỨA  
TRƯƠNG THỊ KIM ANH (*)  
TÓM TT  
Ca dao về tình yêu đôi lứa được sáng tác trong mi quan htình cm nam nữ ở nông  
thôn Vit Nam. Vì thế các môtíp không gian được sdụng trong ca dao tình yêu đôi lứa  
thường là không gian gn, gn lin vi nhng hình nh làng quê rất đỗi quen thuộc như  
thuyn bến, chiếc cu, bờ ao, cây đa, giếng nước, sân đình…  
Không gian trong ca dao là gì? Nếu như không gian thuộc về đối tượng phn ánh thì  
đó là không gian thực ti cthể như: xứ Ngh, xHuế, xLạng, sông Hương, sông Lam,  
sông Nhà Bè… còn không gian được nói đến như một yếu tgóp phn to nên hoàn cnh  
để tác gibc lni niềm, tâm tư tình cảm của mình thì đó là không gian mang tính tượng  
trưng do tác giả tưởng tượng theo cm xúc riêng của mình như: cái cầu, bờ ao, cây đa,  
bến nước, sân đình, ngôi chùa, mảnh vườn, cánh đồng, con đường…  
Tkhoá: môtíp không gian, ca dao, trtình  
ABSTRACT  
Folk song is a lyrical folk genre, and it has a great influence on the spiritual life of the  
working people of Vietnam, especially the farmers in rural areas. Most folk songs about  
love are composed in terms of relationships between men and women in rural Vietnam. So  
the motif space used in folk songs about love is usually space close and related to the  
images of village with very familiar objects such as boats, docks, bridges, pond sides,  
trees, water wells, temple court yards...  
What is space depicted in folk songs? In case space functions as an objective to be  
reflected, it is physical space such as the locations of Hue, Lang Son, Nha Be, Huong  
River, Lam River... But if space mentioned as a component element forming an ambience  
that enables the author to express his/her inmost feelings, it can be apprehended as  
symbolic space, the results of the author’s imagination. The latter may include the images  
of a bridge, a pond, a well, a tree, a riverside, a village temple, a pagoda, a village road…  
Keywords: space motif, folk songs, lyric  
1. MỞ ĐẦU *  
làng quê của người Việt thông qua những  
câu hát đối đáp, giao duyên rất bình d ,  
thấm đượm tình quê.  
Ca dao là một thể loại trữ tình dân  
gian, có sức ảnh hưởng rất lớn đến đời  
sống tinh thần của người dân lao động Việt  
Nam, đặc biệt là người nông dân ở các  
vùng nông thôn. Ca dao cũng đã góp phần  
giữ gìn một nét văn hoá sinh hoạt đậm chất  
Cũng như các thể loại văn học dân gian  
khác, ca dao do tập thể nhân dân sáng tác,  
được lưu truyền dưới hình thức bằng miệng  
và được phổ biến rộng rãi trong nhân dân.  
Nhìn tổng quát thì có thể phân ca dao trữ  
tình của người Việt thành năm mảng lớn  
(*) ThS, Trường Đại học Đồng Nai.  
121  
là: Ca dao về thiên nhiên, ca dao về đề tài  
l ch sử, ca dao về gia đình, ca dao về đề tài  
xã hội, ca dao tình yêu đôi lứa.  
đại văn học”[1, tr.208].  
Còn theo Từ điển thuật ngữ văn học  
(Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc  
Phi – Đồng chủ biên) cho rằng, môtíp theo  
nghĩa “ từ Hán Việt là mẫu đề (do người  
Trung Quốc phiên âm chữ motif trong tiếng  
Pháp), có thể chuyển thành các từ khuôn,  
dạng hoặc kiểu trong tiếng Việt, nhằm chỉ  
những thành tố, những bộ phận lớn hoặc  
nhỏ đã được hình thành ổn đ nh bền vững  
và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác  
văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học  
nghệ thuật dân gian” [2, tr.197]. Như vậy ở  
đây, chúng ta có thể hiểu môtíp được xem  
như là một dạng hay một kiểu sáng tác văn  
học dân gian mà chủ thể sáng tác sử dụng  
để bộc lộ tình cảm, suy nghĩ, ước mơ của  
mình. Cũng trong cuốn Từ điển thuật ngữ  
văn học này cho rằng “trong ca dao truyền  
thống cũng có nhiều môtíp quen thuộc lớn  
nhỏ như những tấm bê tông đúc sẵn được  
sử dụng theo kiểu lắp ghép trong nhiều bài  
ca dao khác nhau. Do đó mà có thể sắp xếp  
ca dao thành những nhóm bài cùng khuôn  
cùng kiểu. Ví dụ: những bài trong nhóm ca  
dao than thân của người phụ nữ đều mở  
đầu bằng câu công thức Em như hoặc Thân  
em như, Thân em như thể…” [2, tr.197].  
2.1.2. Không gian trong ca dao  
Trong năm mảng trên thì mảng đề tài  
về tình yêu đôi lứa được nhiều người yêu  
thích và quan tâm nhất, tại sao vậy? Có lẽ,  
chỉ có tình yêu trong ca dao, người ta mới  
thấy hết được cái hương v  tự nhiên, mộc  
mạc, bình d  trong tình yêu đôi lứa. Theo  
Vũ Ngọc Phan “tình yêu trong ca dao là  
thứ tình yêu lành mạnh, thắm thiết, hồn  
nhiên vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến, thứ  
xiềng xích muốn kìm hãm đời đời cho nam  
nữ thụ thụ bất thân”[6, tr.56]. Tình yêu của  
các chàng trai, cô gái trong ca dao là tình  
yêu thường gắn liền với những hoạt động  
trong lao động sản xuất hằng ngày của họ,  
nhiều nhất là trong công việc đồng áng.  
Hầu hết ca dao về tình yêu đôi lứa được  
sáng tác ra trong những điều kiện của mối  
quan hệ nam nữ ở nông thôn Việt Nam. Vì  
thế các môtíp không gian được sử dụng  
trong ca dao tình yêu đôi lứa thường là  
không gian gần, gắn liền với những hình  
ảnh làng quê rất đỗi quen thuộc như thuyền  
– bến, chiếc cầu, bờ ao, cây đa, giếng nước,  
sân đình…  
2. NHỮNG MÔTÍP KHÔNG GIAN  
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG CA DAO  
TÌNH YÊU ĐÔI LỨA  
2.1. Giới thuyết về môtíp, không gian  
trong ca dao  
Không gian trong ca dao là gì? Theo  
Nguyễn Xuân Kính “không gian trong ca  
dao chủ yếu là không gian trần thế, đời  
thường, bình d , phiếm chỉ với những nhân  
vật chưa được cá thể hoá, mang tâm trạng,  
tình cảm chung của nhiều người” [4, tr.307].  
Còn theo Hoàng Tiến Tựu “không gian  
trong ca dao vừa là không gian thực tại  
khách quan, vừa là không gian trong trí  
tưởng tượng mang tính chất tượng trưng  
của tác giả” [7, tr.227].  
2.1.1. Khái niệm môtíp  
Theo cuốn 150 Thuật ngữ văn học của  
Lại Nguyên Ân thì môtíp được hiểu “là  
thành tố bền vững, vừa mang tính hình  
thức, vừa mang tính nội dung của văn bản  
văn học; môtíp có thể được phân xuất ra từ  
trong một hoặc một số tác phẩm văn học  
của một nhà văn hoặc trong văn cảnh toàn  
bộ sáng tác của nhà văn ấy, hoặc trong văn  
cảnh một khuynh hướng văn học, một thời  
Nếu như không gian thuộc về đối  
tượng phản ánh thì đó là không gian thực  
122  
tại như “xứ Nghệ, xứ Huế, xứ Lạng, sông  
Hương, sông Lam, sông Nhà Bè…”, còn  
không gian được nói đến như một yếu tố  
góp phần tạo nên hoàn cảnh để tác giả bộc  
lộ nỗi niềm, tâm tư tình cảm của mình thì  
đó là không gian mang tính tượng trưng do  
tác giả tưởng tượng theo cảm xúc riêng của  
mình như cái cầu, bờ ao, cây đa, bến nước,  
sân đình, ngôi chùa, mảnh vườn, cánh  
đồng, con đường,… Và “Ở đó, người bình  
dân chủ yếu là những chàng trai làng,  
những cô thôn nữ sinh sống, làm lụng, tình  
tự, than thở với nhau” [4, tr.300].  
Tất cả không gian ấy như một không  
gian trữ tình lãng mạn đã làm nảy sinh tình  
cảm yêu thương không biết bao nhiêu  
chàng trai và cô gái nơi thôn quê. Và ở đó,  
cũng chính là nơi bắt đầu tình yêu trong họ.  
Tình yêu ấy được kết tinh từ những hình  
ảnh quen thuộc của làng quê, nơi họ sinh  
ra, lớn lên gắn bó với mảnh đất ấy như một  
phần của cuộc đời mình:  
nhau. Môtíp không gian thuyền – bến  
thường được nhắc đến trong ca dao tình  
yêu đôi lứa dưới hình thức ẩn dụ chỉ chàng  
trai và cô gái. Hơn thế nữa, người Việt  
Nam ta thường coi trọng triết lí Âm -  
Dương, vì vậy mà thuyền thường được gán  
cho thuộc tính dương, di chuyển không cố  
đ nh, còn bến được gán cho thuộc tính âm,  
mang tính cố đ nh. Chính vì vậy, thuyền  
thường là môtíp chỉ người con trai, còn bến  
là môtíp chỉ người con gái trong tình yêu,  
dù cho thuyền có đi đâu thì bến vẫn “khăng  
khăng” đợi thuyền. Đó là lời khẳng đinh sự  
chung thủy trong tình yêu của cô gái dành  
cho chàng trai, cũng là biểu tượng thủy  
chung trong tình yêu của người phụ nữ  
Việt Nam:  
- Thuyền dời nào bến có dời  
Khăng khăng một lời quân tử nhất ngôn.  
- Thuyền ơi, có nhớ bến chăng?  
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.  
[6, tr.312]  
- Qua sông em đứng em chờ  
Qua cầu em đứng ngẩn ngơ vì cầu.  
- Cô kia cắt cỏ bên sông  
Môtíp thuyền – bến còn được dùng  
nhiều dưới hình thức tỏ tình khác nhau của  
các chàng trai và cô gái khi gặp gỡ nhau  
trên một bến sông nào đó, trong cuộc sống  
sinh hoạt hằng ngày của họ:  
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây  
Sang đây anh nắm cổ tay  
Anh hỏi câu này: có lấy anh chăng?  
[4, tr.300]  
- Thuyền ngược hay là thuyền xuôi  
Thuyền về Nam Đ nh cho tôi ghé nhờ?  
Con gái chỉ nói ỡm ờ.  
2.2. Những môtíp không gian được  
sử dụng trong ca dao tình yêu đôi lứa  
2.2.1. Môtíp thuyền – bến  
Thuyền anh chật chội, còn nhờ làm sao?  
Miệng anh nói, tay anh bẻ lái vào:  
Rửa chân cho sạch bước vào trong khoang.  
Thuyền dọc anh trải chiếu ngang  
Trong ca dao trữ tình về tình yêu đôi  
lứa, ta thường gặp những nét sinh hoạt,  
những cảnh vật, không gian quen thuộc  
trong đời sống hằng ngày của người dân  
lao động. Những nét sinh hoạt, những cảnh  
vật, không gian ấy thường làm môtíp để  
biểu hiện tâm trạng hạnh phúc hay đau khổ  
trong tình yêu của các đôi trái gái yêu  
Anh thì nằm giữa hai nàng nằm bên.  
[3, tr.190]  
- Thuyền đà đến bến, anh ơi!  
Sao anh chẳng bắc cầu noi lên bờ?  
Đang cơn nước đục lờ đờ.  
123  
Cắm sào đợi nước bao giờ cho trong?  
Con sông kia nước chảy đôi dòng,  
Đèn khêu đôi ngọn em trông ngọn nào?  
Trông thấp em lại trông cao,  
- Em đang dệt vải quay tơ  
Bỗng đâu có khách đưa thơ tới nhà  
Hẹn giờ ra gốc cây đa  
Phượng hoàng chả thấy thấy gà buồn sao.  
[3, tr.205]  
Ngọn đèn sáng tỏ như sao trên trời,  
Em ơi, gần bến xa vời! [3, tr.191]  
Gặp nhau, rồi hò hẹn nhau, rồi yêu  
nhau, chờ đợi nhau, đó là quá trình diễn ra  
rất tự nhiên của các đôi trái gái khi yêu  
nhau. Tình yêu của họ luôn chứa đựng  
nhiều cảm xúc khác nhau mà chỉ có gốc đa  
là nơi chứng kiến đầy đủ nhất những cung  
bậc cảm xúc đó. Họ có bồi hồi, xao xuyến  
khi mới gặp nhau, có hồi họp khi hẹn hò,  
có nhớ nhung, chờ đợi nhau khi xa cách:  
Đôi khi lại là một lời dặn dò, trách  
móc, một nỗi nhớ nhung da diết của các  
chàng trai, cô gái khi yêu:  
- Bến dặn dò thuyền, trúc dặn dò mai  
Nghe ai quyến rũ, không vãn lai chốn này.  
- Thuyền xuôi neo nọc cũng xuôi  
Nhớ em, anh nhớ cả đôi má hồng.  
[3, tr.221]  
- Cây đa bến cũ năm xưa  
2.2.2. Môtíp cây đa  
Chữ tình ta cũng đón đưa trọn đời.  
Nếu như môtíp thuyền – bến là môtíp  
chỉ hình ảnh người con trai và người con  
gái trong tình yêu thì môtíp cây đa lại chỉ  
nơi gặp gỡ, hò hẹn của đôi lứa đang yêu, là  
phương tiện để họ đến với nhau. Theo lẽ tự  
nhiên thì cây đa thường là biểu tượng cho  
sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Vì vậy mà  
cây đa xuất hiện trong ca dao giống như là  
một minh chứng của thời gian, chứng kiến  
mọi sự đổi thay của làng quê, con người,  
của những đôi trai gái yêu nhau, hò hẹn  
nhau, thề nguyền nhau, có khi là phải chia  
tay nhau trong sự nuối tiếc.  
[3, tr.227]  
- Cây đa cũ, bến đò xưa  
Bộ lệnh có nghĩa, nắng mưa cũng chờ.  
[3, tr.206]  
- Cây đa trốc gốc trôi rồi  
Đò đưa bên thác, em ngồi đợi ai  
[3, tr.227]  
- Cây đa bậc cũ lở rồi,  
Đò đưa bến khác, bạn ngồi chờ ai?  
[3, tr.206]  
Hình ảnh cây đa – mái đình được xem  
như là một biểu tượng văn hoá làng quê  
của người Việt, nhất là ở các làng quê vùng  
đồng bằng Bắc bộ. Ở các vùng đó, mỗi  
làng thường có một mái đình cong vút, một  
gốc đa đầu làng, đây thường là nơi tụ tập,  
hội hè đình đám, vui chơi giải trí, cũng là  
nơi chia sẻ tâm tư tình cảm của người làng  
quê. Vì thế cây đa – mái đình đi vào trong  
ca dao tình yêu đôi lứa rất nhiều, nhưng  
thường là để bộc lộ nỗi niềm thương nhớ  
của các chàng trai, cô gái và đi kèm với nỗi  
nhớ đó là nghệ thuật so sánh:  
Đầu tiên chúng ta thấy cây đa xuất hiện  
trong sự gặp gỡ tình cờ, hẹn hò nhau của  
đôi trai gái:  
- Cây đa trốc gốc  
Thợ mộc đang cưa  
Gặp em đứng bóng ban trưa  
Trách trời vội tối phân chưa hết lời!  
Lên non thiếp cũng lên theo,  
Tay v n, chân trèo, hái trái nuôi nhau.  
[3, tr.205]  
124  
- Cây đa rụng lá đầy đình,  
mái nhà tranh và giữ cả hồn dân tộc. Một  
chiếc cầu tre lắc lẻo là hình ảnh rất quen  
thuộc ở khắp các làng quê, cũng chính từ  
chiếc cầu tre lắt lẻo này mà chàng trai đã  
bộc lộ một nỗi lo lắng cho người mình yêu:  
Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu.  
[3, tr.200]  
- Cây đa cũ, con yến rũ, cây đa tàn  
Bao nhiêu lá rũ thương nàng bấy nhiêu.  
[3, tr.322]  
- Cầu tre lắt lẻo anh thắt thẻo ruột gan  
Sợ em đi chửa quen đàng  
- Qua đình ngả nón trông đình  
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy  
Rủi em có mệnh hệ, lỡ làng duyên anh.  
nhiêu [6, tr.265]  
Cầu tre thì lắt lẻo làm cho chàng trai  
phải “thắt thẻo ruột gan” khi nhìn người  
yêu đi qua, còn cầu ván thì sao? Cầu ván ở  
đây không lắt lẻo nhưng lại vừa mỏng, vừa  
yếu làm cho cô gái không sang được phải  
đợi người yêu cùng sang. Chiếc cầu ván  
vừa mỏng, vừa yếu này không chỉ nối đôi  
nh p bờ sông mà còn nối cả duyên tình của  
cô gái với chàng trai lại với nhau với một  
nỗi niềm ước mơ hạnh phúc trong tình yêu  
của cô gái để được “cùng duyên anh”,  
“cùng có anh”:  
Yêu nhau, thương nhau là thế nhưng vì  
nhiều lí do khác nhau mà có nhiều đôi trái  
gái không đến được với nhau, đành phải  
chia tay nhau trong sự tiếc nuối ở họ. Ở đây,  
có thể là do cha mẹ hai bên không đồng ý,  
hay vì những quan niệm nặng nề của chế độ  
xã hội phong kiến xưa để lại đã tác động rất  
lớn đến duyên tình của họ, hay có thể vì lí  
do nào đó từ cá nhân họ mà cả hai không  
đến được với nhau để rồi đành phải lỗi hẹn  
lời thề nguyền nơi gốc đa năm xưa:  
- Trăm năm đành lỗi hẹn hò,  
- Cầu cao mỏng ván gió rung  
Em sang không được đợi cùng duyên anh.  
Cầu cao ván yếu gió rung  
Cây đa bến cũ, con đò khác đưa. [6, tr.303]  
2.2.3. Môtíp chiếc cầu  
Em qua sông đặng, cậy cùng có anh.  
Nếu như hình ảnh cây đa – mái đình  
chỉ thấy ở vùng đồng bằng Bắc bộ là nhiều  
thì ngược lại hình ảnh chiếc cầu hầu như có  
trên khắp các vùng miền đất nước, nơi đâu  
mà chẳng có chiếc cầu để nối đôi nh p bờ  
sông lại với nhau. Vì thế, người bình dân  
xưa, sử dụng hình ảnh chiếc cầu như một  
môtíp không gian nghệ thuật trong ca dao  
tình yêu đôi lứa, để bày tỏ nỗi lòng của  
những người đang yêu dưới nhiều góc độ  
khác nhau. Bên cạnh chiếc cầu thực đời  
thường, còn có những chiếc cầu mang tính  
trừu tượng nối những trái tim yêu thương  
đang thổn thức lại với nhau.  
[5, tr.213]  
Từ những chiếc cầu thực ngoài đời, tác  
giả dân gian sử dụng phương thức ẩn dụ,  
mượn chiếc cầu trừu tượng để giãi bày tình  
cảm của mình. Chiếc cầu giờ chỉ còn là  
biểu tượng của ước mơ trong tình yêu, mà  
ước mơ của những người đang yêu thì rất  
đa dạng phong phú.  
Khi là lời tỏ tình của chàng trai bằng  
cành hồng:  
- Hai ta cách một con sông,  
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.  
- Cô kia cắt cỏ bên sông,  
Cây tre luôn là biểu tượng sức sống  
mãnh liệt của người dân Việt Nam ta từ  
ngàn đời nay, tre giữ làng, giữ nước, giữ  
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.  
[5, tr.212]  
125  
Khi là lời tỏ tình của chàng trai bằng  
cành trầm:  
- Ước gì sông rộng một gang  
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.  
[5, tr.214]  
- Cách nhau có một vườn trầu  
Muốn sang anh bẻ cành trầm cho sang  
Cành trầm lá dọc lá ngang  
Nỗi niềm ước mơ hạnh phúc trong tình  
yêu của cô gái về một chiếc cầu dải yếm  
cũng là ước mơ chung của người bình dân  
xưa và nay.  
Đố người bên ấy bước sang cành trầm.  
[5, tr.213]  
3. KẾT LUẬN  
Hình ảnh bắc cầu bằng cành hồng,  
cành trầm để tỏ tình của các chàng trai thật  
đáng yêu và tình tứ, nhưng có lẽ nhiều nhất  
là ngọn mồng tơi, bởi vì ngọn mồng tơi nơi  
thôn quê nào mà chẳng có. Cái cầu mồng  
tơi này không phải chàng trai bắc mà là cô  
gái, thế mới thấy ước mơ trong tình yêu  
của người bình dân xưa thật mãnh liệt và  
o bạo. Tình yêu trong cô gái chân thành  
là thế nhưng cô lại sợ chàng trai không đi,  
để “cho tốn công thợ, cho sầu lòng em”:  
Ca dao được xem như là một viên ngọc  
quý trong kho tàng văn học dân gian Việt  
Nam. Thông qua ca dao, người lao động  
bình dân xưa có điều kiện biểu hiện đời  
sống tình cảm một cách tự nhiên nhất. Đặc  
biệt là đời sống tình cảm trong tình yêu  
nam nữ. “Ca dao đã ghi lại tất cả các chặng  
đường của tình yêu, các khía cạnh của tình  
yêu, các trạng thái tình cảm của nam nữ  
thanh niên với những trắc trở, khó khăn, do  
đời sống và chế độ phong kiến gây nên.”  
[6, tr.56].  
Những môtíp không gian được sử dụng  
trong ca dao như là một phương tiện nghệ  
thuật để người bình dân xưa thể hiện các  
trạng thái, khía cạnh khác nhau trong tình  
yêu, nhất là tình yêu nam nữ. Trong cảnh  
sống lầm than cơ cực, thêm vào đó là  
những ràng buộc của lễ giáo phong kiến hà  
khắc ngày xưa, đã làm kiềm hãm không  
biết bao nhiêu duyên tình của các đôi trai  
gái yêu nhau. Chính vì vậy, cái khát khao  
về một tình yêu tự do trong họ là rất lớn, và  
một phần nào đó thì ca dao đã giúp cho họ  
thể hiện được điều ấy. Ca dao trữ tình  
trong tình yêu đôi lứa là một thiên tình ca  
muôn điệu.  
- Gần đây mà chẳng sang chơi  
Để em ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu  
Sợ rằng chàng chả đi cầu  
Cho tốn công thợ, cho sầu lòng em.  
[5, tr.213]  
Nhưng có lẽ chiếc cầu trong ca dao  
tình yêu đôi lứa được cô gái bắc đẹp nhất  
và độc đáo nhất đó là chiếc cầu dải yếm.  
Chiếc cầu bây giờ không còn là cành hồng,  
cành trầm, ngọn mồng tơi nữa mà là một  
chiếc dải yếm rất mềm mại, tình tứ của cô  
gái. Vượt lên trên mọi lễ giáo phong kiến  
ràng buộc thời xưa, với một trái tim đang  
rạo rực tình yêu, cô gái đã quyết đ nh đi  
tìm tình yêu của mình bằng một ước mơ  
khá táo bạo:  
126  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1.  
2.  
3.  
4.  
5.  
6.  
7.  
Lại Nguyên Ân (1999), 150 Thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.  
Lê Bá Hán (chủ biên) (2011), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.  
Nguyễn Bích Hằng (2007), Ca dao Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.  
Nguyễn Xuân Kính (2992), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.  
Thao Nguyễn (2013), Ca dao Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin.  
Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.  
Hoàng Tiến Tựu (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.  
* Ngày nhận bài: 16/10/2013. Biên tập xong: 16/5/2014. Duyệt đăng: 22/5/2014  
127  
pdf 7 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 700
Bạn đang xem tài liệu "Những Môtíp không gian được sử dụng trong ca dao tình yêu đôi lứa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnhung_motip_khong_gian_duoc_su_dung_trong_ca_dao_tinh_yeu_do.pdf