Đề xuất mô hình sản xuất canh tác tích hợp hướng tới không phát thải cho hộ chăn nuôi - Áp dụng điển hình cho hộ chăn nuôi bò ở khu vực Bảy Núi
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 3(2):75- 84
Bài nghiên cứu
Open Access Full Text Article
Đề xuất mô hình sản xuất canh tác tích hợp hướng tới không phát
thải cho hộ chăn nuôi: áp dụng điển hình cho hộ chăn nuôi bò ở
khu vực Bảy Núi
Lê Trọng Nhân1,*, Đồng Thị Thu Huyền2, Lê Thanh Hải3, Lê Quốc Vĩ3, Trần Thị Hiệu3,
Nguyễn Thị Phương Thảo3, Phạm Đắc Tín3, Võ Thị Lý Thu Thảo3
TÓM TẮT
Nghiên cứu đã đề xuất được mô hình sản xuất canh tác tích hợp hướng tới không phát thải dựa trên
nền tảng của hoạt động chăn nuôi. Mô hình áp dụng các giải pháp sinh thái, các giải pháp quay
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
vòng, khép kín các dòng vật chất năng lượng cùng với tận dụng điều kiện sinh thái môi trường sẵn
có của địa phương giúp duy trì sinh kế cho người dân. Mô hình áp dụng điển hình cho hộ Nguyễn
Văn Hai tại ấp Trung An, xã Lê Trì, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Kết quả cho thấy 3,18 m3/ngày nước
thải chăn nuôi và sinh hoạt được xử lý và tái sử dụng cho nông nghiệp, 39.065,31 tấn CO2 tđ/năm
được thu gom dưới dạng khí sinh học phục vụ nấu ăn, mô hình giúp duy trì sinh kế hiện hữu, tạo
ra một số sinh kế mới giúp hộ gia tăng thu nhập 45.200.000 đ/năm, đảm bảo các yêu cầu về bảo
vệ môi trường, giảm sự lệ thuộc của sinh kế hiện hữu đối với các tác nhân bên ngoài như giá cả,
thức ăn, nhân lực,… Đây có thể được xem là mô hình mẫu tốt nhất cho các hộ chăn nuôi bò; có
thể khắc phục được những nhược điểm của những mô hình sinh kế trước đó tại địa phương; cả về
khả năng áp dụng lâu dài cũng như phát triển quy mô nhiều hộ dân tăng khả năng liên kết giữa
các hộ dân nhằm tạo sự hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp là một khu vực dân cư có cùng sinh kế
chính là chăn nuôi bò.
Từ khoá: sản xuất canh tác tích hợp, không phát thải, chăn nuôi
Đặc điểm nổi bật của nông nghiệp Việt Nam là hệ
ĐẶT VẤN ĐỀ
1Trường Đại học Tôn Đức ắng
thống sản xuất kết hợp, rõ ràng nhất là sự kết hợp mật
thiết giữa chăn nuôi và trồng trọt, trong đó trâu bò
được sử dụng làm sức cày kéo trong trồng trọt, cũng
chăn nuôi gây ra các loại ô nhiễm khác nhau, bao gồm
chất thải chăn nuôi cũng gây ra những tác động đến
kinh tế - xã hội như tác động lên sức khỏe con người,
động vật, tác động đến kinh tế. Diện tích các bãi chăn
thả tự nhiên ngày càng bị thu hẹp, ảnh hưởng đến
nguồn cung cấp thức ăn cho hoạt động chăn nuôi bò,
vấn đề xử lý chất thải trong chăn nuôi cũng như các
mâu thuẫn trong quá trình chăn thả cũng gây bức xúc
(không kiểm soát để bò vào ruộng, rẫy người khác,
chất thải bò phát tán xung quanh,...) đang là những
tác nhân ảnh hưởng đến sinh kế của các hộ dân.
Tuy nhiên, phân động vật được coi là nguồn dinh
dưỡng quý giá cho đất với tỷ lệ phù hợp. Hàm lượng
chất hữu cơ của đất phụ thuộc vào lượng chất hữu cơ
được đưa vào đất bằng cách hấp thụ tự nhiên thông
qua rễ, gốc cây, nốt sần của rễ và thoát ra rễ hoặc do
con người tạo ra dưới dạng phân hữu cơ. Trong thời
gian gần đây, phân hữu cơ có thể kết hợp hoặc thay
2Trường Đại học Công nghệ Đồng Nai
3Viện Môi trường và Tài nguyên, Đại
học Quốc gia TP.HCM
Chăn nuôi đã từ lâu đóng vai trò quan trọng trong
chiến lược sinh kế của các hộ dân nông thôn ở Châu
gần đây, người ta mới chú ý hơn đến vai trò của vật
Liên hệ
Lê Trọng Nhân, Trường Đại học Tôn Đức
Thắng
Ngành chăn nuôi của Việt Nam từ lâu đã là một bộ
phận gắn kết chặt chẽ với cây trồng trong kinh tế hộ
kết hợp với trồng trọt như vậy nó có thể sử dụng tốt
hơn các nguồn thức ăn có sẵn tại địa phương, tạo ra
sự quay vòng về năng lượng. Đòi hỏi đầu tư thấp và
là ngành sản xuất đa dạng có thể hạn chế tối đa sự
rủi ro. Có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm cho lao
động ở nông thôn, đóng góp lớn lao vào công cuộc xóa
đói giảm nghèo. Điểm yếu của chăn nuôi nông hộ là:
Phân tán, nhỏ lẻ, khối lương sản phẩm không lớn và
chất lượng thấp nên khó tiếp cận thị trường. Chăn
nuôi nông hộ phân bổ ngay trong khu dân cư thì rất
khó kiểm soát dịch bệnh cho cả người lẫn gia súc, khó
áp dụng các kỹ thuật an toàn sinh học để phòng tránh
các bệnh truyền nhiễm (như lở mồm long móng, cúm
gia cầm, v.v).
Email: letrongnhanangiang1995@gmail.com
Lịch sử
• Ngày nhận: 25-04-2019
• Ngày chấp nhận: 15-8-2019
• Ngày đăng: 31-12-2019
DOI : 10.32508/stdjsee.v3i2.481
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Trích dẫn bài báo này: Nhân L T, Thu Huyền D T, Hải L T, Quốc Vĩ L, Thị Hiệu T, Thị Phương Thảo N, Đắc Tín
P, Thu Thảo V T L. Đề xuất mô hình sản xuất canh tác tích hợp hướng tới không phát thải cho hộ chăn
nuôi: áp dụng điển hình cho hộ chăn nuôi bò ở khu vực Bảy Núi. Sci. Tech. Dev. J. - Sci. Earth Environ.;
3(2):75-84.
75
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 3(2):75- 84
thế cho phân bón hóa học như một nguồn dinh dưỡng - Hệ thống Biogas và các giải pháp thu hồi tái chế -
trong trồng trọt do phân hóa học có chi phí tăng, mất Nhà - Xưởng sản xuất - Trạm xử lý nước thải, mô
phân dinh dưỡng nhanh chóng và tác động xấu đến hình tận dụng tối đa hệ sinh thái tự nhiên để xử lý
chất thải giúp các hộ sản xuất tinh bột kết hợp chăn
Mặt khác, các trang trại tạo ra một lượng phân khổng nuôi heo đáp ứng được yêu cầu về bảo vệ môi trường
lồ. Việc xử lý các chất thải này là một trong những vấn và thu được những hiệu quả kinh tế từ các sản phẩm
đề môi trường chính liên quan đến chăn nuôi thâm của mô hình góp phần phát triển bền vững, xóa đói
canh. Việc sử dụng phân làm phân bón hữu cơ có thể giảm nghèo. Tương tự nhóm nghiên cứu cũng đã đề
mang lại lợi ích cho nông nghiệp, bảo vệ môi trường xuất mô hình sản xuất theo hướng sinh thái khép kín
và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Những nhà nghiên cho nghề dệt nhuộm chiếu13, mô hình đề xuất khuyến
cứu đã chi ra rằng phân gia súc dùng làm mục đích tái khích các hộ dệt chiếu kết hợp với sinh kế mới là chăn
tạo độ phì nhiêu của đất và đã được thực hiện ở nơi nuôi để tận dụng chất thải tạo ra các sản phẩm có ích
khác. Do đó hệ thống kép kín giữa trồng trọt và chăn như khí sinh học, phân compost vừa giúp đảm bảo các
nuôi là một thuận lợi đáng kể của hệ thống canh tác, yêu cầu về BVMT, vừa giảm chi phí sản xuất, vừa giúp
cần được cải tiến với điều kiện mới để đạt được hiệu gia tăng thu nhập cho người dân, giúp duy trì nghề
dệt nhuộm chiếu. Mô hình tích hợp theo hướng sinh
Đã có những nghiên cứu về các mô hình liên quan thái khép kín gắn với bảo vệ môi trường nhằm duy
đến chăn nuôi trong thời gian qua theo hướng không trì sinh kế bền vững cho người dân nông thôn ĐB-
phải là số không (‘0’) tuyệt đối trong phân tích, mà là hình tích hợp các thành phần như cây trồng, ao cá,
không tồn tại dòng thải có khả năng gây ra ô nhiễm chuồng nuôi, hầm biogas, nhà, sản xuất tiểu thủ công
môi trường9. Không chất thải là một khái niệm hợp nghiệp,... giúp mang lại lợi ích kinh tế và môi trường
nhất những công nghệ hiện hữu hướng tới loại trừ cho người dân.
tạo ra chất thải bằng phương châm tăng cường tối đa “nông nghiệp sinh thái” hay nói cụ thể hơn là “chăn
tái chế, giảm thiểu chất thải, hạn chế tiêu thụ và bảo nuôi sinh thái” là hướng đi giúp ngành chăn nuôi Việt
đảm khả năng tái sử dụng, sửa chữa hay quay vòng trở Nam phát triển bền vững mà không làm ảnh hưởng
lại vào tự nhiên hay thị trường của sản phẩm tạo ra. đến môi trường sinh thái và sức khỏe, cuộc sống của
Định nghĩa không chất thải được xác định bởi Grass con người. Chăn nuôi theo hướng sinh thái được hiểu
Roots Recycling Network10, nó bao gồm các cách “tái là những hộ chăn nuôi có các đặc điểm sau: Có ứng
chế” nhưng vượt ra ngoài tái chế bằng cách tiếp cận dụng toàn bộ hay một phần của mô hình V-A-C (vườn
toàn diện đến các dòng tài nguyên và dòng chất thải – ao – chuồng). Có ứng dụng toàn bộ hoặc một phần
trong xã hội. “Không chất thải” không xem chất thải kỹ thuật chăn nuôi sinh thái. Trong khi đó chăn nuôi
như một loại rác phải được thải bỏ hoặc tiêu hủy, mà truyền thống có đặc điểm là hoạt động theo tập quán
xem chất thải như một tài nguyên có thể được sử dụng và thói quen, không áp dụng các tiến bộ của khoa học
một lần nữa và nên tận dụng tối đa tiềm năng của chất kỹ thuật như: không chú trọng xử lý chất thải trong
thải.
chăn nuôi, chỉ sử dụng thức ăn chăn nuôi tổng hợp
Lê anh Hải và cộng sự đã đánh giá được tiềm năng mà không sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên (rau xanh,
xây dựng mô hình sản xuất tích hợp theo hướng sinh bã hèm,...).
thái khép kín cho các nhóm nghề ở đồng bằng sông Trần Vũ Phến và Lê Văn Xiêm đã cho thấy hiệu quả
Cửu Long gồm: đan đát, khoáng phi kim, chế biến của việc trồng cây phủ đất trong việc kiểm soát cỏ dại
thực phẩm, sản xuất tinh bột, dệt chiếu và trồng trọt, và cung cấp thức ăn cho chăn nuôi trong vườn cây ăn
hoa kiểng11. Mô hình cũng dựa vào chủ yếu các chất trái16. Các biện pháp xử lý cỏ không làm ảnh hưởng
thải từ quá trình sản xuất cũng như chăn nuôi để đến trùn đất và côn trùn có lợi. Có thể trồng cỏ ruzi
tạo các dòng năng lượng, vật chất hữu ích cho từng trong vườn cây ăn trái để kiểm soát cỏ dại đồng thời
hoạt động để hướng tới không phát thải. Nhóm tác tận dụng làm cây thức ăn gia súc tăng thêm thu nhập
giả cũng đã đề xuất mô hình sản xuất tích hợp cho cho người dân. Sử dụng cỏ Ruzi (Brachiaria ruzizien-
nghề sản xuất tinh bột ở nông thôn đồng bằng sông sis) có thể làm tăng 14% lượng sữa và giảm 9,4% tiềm
Cửu Long12, mô hình gọi tắt là VACBNXT- Mô hình năng gây hiệu ứng nhà kính so với cỏ Voi (Pennisetum
VACBNXT đã được xây dựng dựa trên cơ sở khoa học purpureum) và cỏ Guinea (Panicum maximum) hoặc
nghiệm thu thông qua đề tài KC08.33/11-15. Mô hình Lê ị Hồng Nhung đã đánh giá khả năng áp dụng
có tên là VACBNXT bao gồm: Vườn - Ao - Chuồng mô hình nông nghiệp không chất thải tại xã Giao Lạc,
76
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 3(2):75- 84
nghiệp không chất thải là mô hình nông nghiệp bền của cơ quan sở tại.
vững, trong đó người nông dân chủ động phát triển
các mô hình trồng trọt, chăn nuôi, giải quyết rác thải
nông nghiệp của mình mà không cần phụ thuộc vào
nhà cung cấp dịch vụ. Trong mô hình này, chất thải
của hoạt động này lại là đầu vào của hoạt động kia, kết
hợp với một số kỹ thuật xanh, mô hình nông nghiệp
không chất thải đem lại năng suất cao và lợi nhuận lớn
cũng như sự chủ động hoàn toàn cho người nông dân.
Tận dụng nguồn chất thải sinh hoạt hữu cơ từ nông
nghiệp và sinh hoạt để làm biogas là giải pháp hữu ích
vì không chỉ tạo ra được sản phẩm phân bón hữu cơ có
lợi cho cây trồng, mà còn cung cấp lượng khí đốt nhất
định phục vụ cho gia đình, tiết kiệm được chi phí cũng
như là lượng phân bón hóa học, giảm được ô nhiễm
môi trường. Tác giả đã đề xuất mô hình VACB (Vườn
– Ao - Chuồng - Biogas) xử lý chất thải chăn nuôi và
trồng trọt trong gia đình, đưa ra mô hình trồng nấm
từ rơm rạ và xử lý bả thải sau trồng nấm thành phân
hữu cơ có những lợi ích thiết thực về mặt kinh tế, kỹ
thuật và môi trường cho địa phương.
Từ tổng quan các nghiên cứu trên cho thấy việc cải
tiến các mô hình chăn nuôi hiện hữu thành một mô
hình sản xuất canh tác tích hợp hướng tới không phát
thải cho các hộ chăn nuôi bò là điều cần thiết.
PHƯƠNG PHÁP
Cách tiếp cận của mô hình là áp dụng các hệ thống và
kỹ thuật không phát thải như kiểm toán môi trường,
tận dụng và tái chế, hệ thống sinh học tích hợp, tài
nhằm đề xuất được mô hình sản xuất canh tác tích
hợp nhằm giúp cho các hộ chăn nuôi bò duy trì được
sinh kế, gia tăng thu nhập và đảm bảo được các yêu
cầu về BVMT hướng tới phát triển bền vững.
Mô hình được đề xuất theo các bước sau:
• Bước 1: Điều tra khảo sát, thu thập số liệu, đánh giá
hiện trạng đối tượng nghiên cứu;
• Bước 2: Kiểm toán đối tượng nghiên cứu về vật chất,
năng lượng, kinh tế, năng lực sinh kế;
Nhóm tác giả Vũ ị anh Hương và cộng sự đã điều
tra hiện trạng quản lý môi trường trong chăn nuôi tại
trường chăn nuôi: Chưa có các qui chế, biện pháp
chế tài để huy động và bắt buộc người chăn nuôi thực
hiện. Nhận thức của người dân về trách nhiệm trong
bảo vệ môi trường chăn nuôi còn hạn chế. Việc sử
dụng chế phẩm vi sinh để khử mùi hôi, xử lý chất thải
chăn nuôi làm phân bón nông nghiệp chưa được chú
trọng... đồng thời cũng đề xuất một số biện pháp huy
động cộng đồng quản lý môi trường trong chăn nuôi
hộ gia đình và trang trại nhỏ ở khu vực miền Bắc như:
(i) Giải pháp về chính sách; (ii) tổ chức quản lý môi
trường trong chăn nuôi; (iii) Giải pháp công nghệ xử
lý ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi; (iv) Giải pháp
truyền thông để nâng cao nhận thức của người chăn
nuôi.
Phần lớn đề tài nghiên cứu nào trước đây thường bàn
về vấn đề các trang trại chăn nuôi bò hướng nông
nghiệp bền vững, chỉ thường tập trung vào các thay
đổi về xử lý khá riêng biệt và mang tính chất tập trung
vào một vấn đề tách biệt như tái sử dụng khí thải
tạo khí sinh học; tái sử dụng chất thải; nhưng ít có
mô hình tổng hợp nhiều phương pháp riêng biệt với
nhau, theo tìm hiểu thì ít có những mô hình riêng biệt
như vậy có thể vận hàng lâu dài vì phần lớn là những
hướng phát triển khá hạn chế cũng như vấn đề tâm
lý của người nuôi ngại việc đổi mới; nên đề tài này
muốn kế thừa cũng như có tính mới trong việc tổng
hợp và thực nghiệm tại khu vực có một định hướng
• Bước 3: Áp dụng các biện pháp tận dụng và tái chế,
tái tạo, quay vòng khép kín, kỹ thuật sinh thái,... để đề
xuất ra mô hình canh tác tích hợp hướng tới không
phát thải;
• Bước 4: Tính toán, thiết kế chi tiết từng hạng mục
của mô hình;
• Bước 5: Đánh giá hiệu quả mô hình về mặt môi
trường, kinh tế, sinh kế.
Quy trình tính toán, thiết kế mô hình được thực hiện
phần chính của mô hình cần thiết kế, bao gồm 3 phần
chính là vườn, chuồng và nhà (hộ dân). Tại vườn sẽ
cung cấp cỏ cho bò và cây trồng phục vụ cho hộ dân cư
tại đó, phần chuồng bò sẽ cung cấp phân bò cho việc ủ
phân và nuôi trùn, phần nước thải từ chuồng sẽ cùng
với nước thải sinh hoạt được xử lý để tạo ra khí sinh
học phục vụ cho hộ dân. Phần phân ủ và phân trùn
từ chuồng nuôi trùn được tái sử dụng cho vườn cây,
nhằm tạo thành một vòng luân chuyển giữa các thành
phần.
KẾT QUẢ
Mô tả đối tượng điển hình
Hộ: Nguyễn Văn Hai, địa chỉ ấp Trung An, xã
Lê Trì, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, điện thoại:
0767926344. Số nhân khẩu: 3 người (2 người làm việc
tại địa phương, 1 người làm việc nơi khác). Tổng diện
tích đất: 1.000 m2 . Nguồn cung cấp điện: Mạng lưới
phát triển rõ rệt và cụ thể hơn những mô hình trước điện quốc gia, chi phí điện năng: 250.000 VNĐ/tháng.
77
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 3(2):75- 84
Hình 1: Lưu đồ tính toán, thiết kế mô hình.
Nguồn cung cấp nước: nước giếng khoan dùng cho 0,0006mg/l, Cd: < 0,0003mg/l, Pb: < 0,004g/l, Dầu
sinh hoạt, chăn nuôi và vườn trồng cây; nước mưa mỡ khoáng: < 0,3mg/l, Chất hoạt động bề mặt: <
dùng cho sinh hoạt. Nước thải được thải trực tiếp ra 0,01mg/l, E.Coli: 9,5 x 102 MPN/100mL. (Nguồn:
Viện Môi trường và Tài nguyên, 2018). Lượng nước
thải này chưa được thu gom xử lý mà thải thẳng ra
môi trường đất.
• Chất thải rắn bao gồm chất thải rắn sinh hoạt với
khối lượng khoảng 1,5 kg/ngày, chất thải rắn chăn
nuôi khoảng 300 kg/ngày. Chất thải rắn được thu gom
chôn lấp hoặc đốt, chất thải chăn nuôi được thu gom
bán cho thương lái.
• Khí thải phát sinh tại hộ chủ yếu là khí nhà kính
(CH4 , N2O) từ quá trình quản lý phân bò. Áp dụng
phương pháp luận của Uỷ ban liên chính phủ về biến
đổi khí hậu (IPCC) trong việc tính toán phát thải khí
nhà kính từ hoạt động chăn nuôi, tổng hợp lượng phát
thải của hộ tính theo CO2 tương đương là 39.065,31
tấn CO2 tđ/năm. Khí thải chưa được thu gom mà phát
tán ra môi trường xung quanh gây mùi khó chịu.
đất rồi cho tự thấm.
Sinh kế chính của hộ là chăn nuôi bò quy mô 30 con,
nuôi theo hình thức chăn thả kết hợp nuôi nhốt với
diện tích khu vực chuồng trại khoảng 500 m2 . Đây
chính là nguồn thu chủ yếu của hộ. Ngoài ra hộ còn
có thêm thu nhập từ sinh kế phụ đó là vườn trồng
xoài, dừa và thuê đất trồng cỏ, nhưng khoản thu nhập
này khá thấp và không ổn định, không mang lại hiệu
quả kinh tế cao, chỉ mang tính chất nhỏ lẻ và ngẫu
nhiên. u nhập hiện tại từ sinh kế của hộ khoảng
85.600.000 đ. Dựa theo yêu cầu ban đầu từ thiết kế mô
Văn Hai có đủ những thành phần để có thể áp dụng
ăn trái và chuồng nuôi bò.
Các nguồn thải phát sinh tại hộ gồm nước thải, khí
thải và chất thải rắn.
Đề xuất mô hình cho đối tượng điển hình
• Lượng nước thải bao gồm nước thải sinh hoạt (Q
= 0,18 m3 /ngày, BOD5 : 45 – 54 mg/l, SS: 70 – 145
Mô hình sản xuất canh tác tích hợp hướng tới không
phát thải cho các hộ chăn nuôi bò được đề xuất như
+
mg/l, Tổng nitơ:−6 – 12 mg/l, N-NH4 : 0,6 x tổng
N mg/l, N-NO3 : 0,05 x tổng N mg/l, Tổng phot-
3−
spho: 0,6- 4,5 mg/l, Phosphat (PO4 ): 0,7 x tổng
Thuyết minh mô hình
P mg/l, Dầu mỡ động thực vật: 10 – 30 mg/l, Col-
iform (MPN/100ml): 106 – 109. (Nguồn: Assessment
of Source of Air, Water and Land Pollution, WHO,
1993), nước thải chăn nuôi (Q = 3 m3 /ngày, pH: 7,27;
EC: 3930 µ S/cm, Độ cứng: 720 mgCaCO3 /l, BOD5
Mô hình được đề xuất dựa trên nền tảng là dòng thải
từ sinh kế chính của hoạt động chăn nuôi bò của hộ
dân đó là chất thải chăn nuôi nhằm duy trì sinh kế
hiện hữu, tạo thêm sinh kế mới, gia tăng thu nhập,
đảm bảo yêu cầu về bảo vệ môi trường. eo đó, nước
(20oC): 2219 mg/l, COD: 3637 mg/l, TSS: 3460mg/l,
Clo dư: < 0,01mg/l, Cl− : 467mg/l, N-NH4 : 23,52 thải vệ sinh chuồng và nước thải sinh hoạt được xử lý
+
−
−
mg/l, N-NO2 : < 0,004 mg/l, N-NO3 : 0,69 mg/l, bằng hệ thống biogas, khí sinh học thu hồi từ biogas
2−
Tổng Nitơ: 55,53mg/l, SO4
: 740,25mg/l, As:< cấp cho hoạt động nấu ăn của hộ, nước thải sau biogas
78
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 3(2):75- 84
chứa hàm lượng dinh dưỡng cao nhưng vẫn còn tiềm còn nguồn thải có tác động đến môi trường được thải
ẩn các vi khuẩn gây bệnh nên tiếp tục được xử lý bằng ra ngoài. Hộ gia đình cũng đã có nhận xét là sau khi
ao sinh học, nước thải sau xử lý với hàm lượng dinh
dưỡng cao sẽ được dùng để tưới vườn giúp giảm chi
phí phân bón hóa học và cải tạo môi trường đất, bùn
cặn từ hệ thống biogas và xử lý nước được dùng để ủ
phân compost, phân bò được thu gom dùng để ủ phân
compost và nuôi trùn quế, phân compost và phân trùn
quế dùng để bón cho cây trồng, trùn quế là sản phẩm
có thể thương mại hoặc dùng làm thức ăn cho bò.
Mô hình khuyến khích người dân tận dụng quỹ đất
trống của hộ hoặc khu vực lân cận để tăng gia sản xuất
nhờ có lượng chất thải giàu dinh dưỡng từ hoạt động
chăn nuôi bò.
Mô hình giúp giải quyết được các vấn đề bất cập hiện
tại của hoạt động chăn nuôi bò (nguồn thức ăn, ô
nhiễm môi trường, thu nhập,...). Khi áp dụng mô
hình các hộ dân sẽ không còn phải phụ thuộc vào
nguồn thức ăn tự nhiên quá nhiều như trước có thể
ảnh hưởng đến sinh kế của họ, họ có thể tạo ra thêm
những nguồn cung về nguồn thức ăn, tiết kiệm một
khoản chi phí để phục vụ cho cuộc sống mà vẫn đảm
bảo các yêu cầu pháp luật về bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó mô hình còn giúp gia tăng thu nhập
thông qua các sản phẩm phụ của mô hình như sản
phẩm từ Rẫy, Phân compost, Trùn quế và Phân trùn,
Khí sinh học.
thực hiện mô hình, mùi hôi từ việc ủ phân trước đây
đã không còn, ngoài ra, vấn đề cây cỏ từ vườn cây cũng
đã thu dọn và có một mục đích sử dụng hợp lý tạo
ra nguồn lợi trong việc thúc đẩy quá trình ủ phân tốt
hơn.
Sản lượng khí sinh học (CH4) trong một ngày: 300kg
phân bò với mức 1 kg phân sản sinh từ 20-35 lít khí
tương đương 6-10,5m3 khí sinh ra/ngày đã tạo một
lượng khí dồi dào để cung cấp cho sinh hoạt gia đình
hộ dân nếu chúng ta có thể tái sử dụng hợp lý nguồn
khí đó. Chất lượng phân compost sử dụng có thể bổ
sung cho phân bón hiện tại và giảm lượng phân hoá
học. Kết quả của việc bón phân và phân compost được
thể hiện qua mùa vụ bắp, chất lượng quả và tạo ra mức
thu nhập lợi nhuận của rẫy trồng cây. Về nước sau
biogas có pH nằm ở mức 8,23; khá phù hợp với việc
tưới tiêu rẫy trồng, ngoài ra còn sử dụng thêm máy
sục ozone ở ao lắng để hỗ trợ tốt hơn cho việc xử lý
nước sau biogas (theo QCVN 39:2011/BTNMT - Quy
chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước dùng cho
tưới tiêu).
Hiệu quả về sinh kế
Trước khi triển khai mô hình, sinh kế của hộ chủ yếu
là chăn nuôi bò và một số sinh kế phụ như vườn trồng
cây ăn trái, trồng cỏ; nhưng nếu xét về hiệu quả kinh
tế của sinh kế hiện tại thì không cao và không hiệu
quả. Về chăn nuôi bò thì vẫn đi theo phương cách cũ;
phân bò vẫn chưa được vận dụng triệt để để tạo nên
một nguồn thu lớn hơn, các loại cây trồng khác nhiều,
bao gồm xoài và dừa, nhưng chỉ mang tính chất “lấp
đầy” vườn trống, không dành nhiều thời gian chăm
sóc, chỉ chăm sóc sơ sài khi nhàn rỗi vì hộ gia đình chỉ
tập trung vào nuôi bò và bán phân. ời gian nhàn rỗi
của các thành viên trong gia đình là tương đối nhiều.
Chính vì những lí do trên cũng như hiện trạng hiệu
quả kinh tế trong thời gian hiện tại, mô hình tận dụng
thời gian nhàn rỗi của các thành viên trong hộ dân để
phát triển một số sinh kế khác gắn liền với sinh kế
cũ, đồng thời thay đổi, giải quyết những hạn chế hiện
tại trong sinh kế để tăng thu nhập cho người dân. Hộ
dân đã có thể phân bổ thời gian hợp lý hơn và sử dụng
thời gian để có thể phát triển hơn những sinh kế phụ
như trồng trọt để tăng thu nhập và hỗ trợ cho sinh
kế chính. Bao gồm trồng rẫy bắp (giống M10 chống
chịu bệnh tốt) để tăng thêm thu nhập; nuôi thêm trùn
quế, trùn được sử dụng bao gồm trùn quế và trùn lai
Ấn Độ (do 2 loài này có thể sống chung và năng suất
Mô hình hướng tới sử dụng phân hữu cơ, hoàn toàn
không sử dụng phân hóa học, nếu nhìn theo hướng
khả quan, có thể tạo ra một thương hiệu Phân ủ nhỏ
lẻ theo nhóm hộ dân có cùng một kiểu vận dụng mô
hình nêu trên; tăng thu nhập, phát triển kinh tế nông
nghiệp sạch hơn.
• Các giải pháp của mô hình vừa giúp duy trì sinh kế
cho các hộ, vừa tạo ra sinh kế mới, vừa đảm bảo các
quy định về bảo vệ môi trường đồng thời gia tăng thu
nhập cho các hộ dân.
Đánh giá hiệu quả khi áp dụng mô hình cho
hộ điển hình
Hiệu quả về môi trường
Hiệu quả về môi trường sau khi áp dụng mô hình cho
Các nguồn thải của hộ đều được tận dụng, chuyển hóa
thành các dòng năng lượng, vật chất cho các quá trình,
hoạt động khác nhau của hộ. Giải quyết được các vấn
đề đặt ra ban đầu của hộ chăn nuôi bao gồm hai vấn
đề chính được chung quy lại là nâng cao hiệu quả kinh
tế cho mô hình sinh kế, bao gồm bổ sung hoạt động
sản xuất, nâng cao chất lượng quá trình sản xuất cũ; đi
kèm theo đó là giải quyết được các vấn đề chất thải từ trùn cao hơn so với chỉ một loại trùn); tạo ra phân
hoạt động sinh kế thải ra môi trường. Hầu như không bón chất lượng để bón cho vườn cây; ngoài ra trồng
80
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 3(2):75- 84
Bảng 1: Hiệu quả về môi trường khi áp dụng mô hình cho hộ điển hình
TT
Trước khi triển khai mô hình
Sau khi triển khai mô hình
1
Phân bò lưu chứa không hợp vệ sinh gây mùi, Phân bò được tách để ủ phân compost hợp vệ sinh,
mất mỹ quan
không gây mùi, đảm bảo mỹ quan; tạo thêm sản phẩm
kinh tế hiệu quả cao
2
3
4
5
Nước thải từ chuồng nuôi gây ô nhiễm môi Nước thải từ chuồng nuôi được thu gom và xử lý qua hệ
trường đất, nước
thống biogas
Nước rỉ từ khu lưu chứa phân gây ô nhiễm môi
trường
Không còn nước rỉ vì phân đã được thu gom để ủ phân
compost hợp vệ sinh
Nước thải sinh hoạt gây ô nhiễm môi trường đất, Nước thải sinh hoạt được thu gom xử lý chung với nước
nước
thải chăn nuôi tại hệ thống biogas
Mùi, khí nhà kính từ hoạt động chăn nuôi gây ô
nhiễm môi trường, góp phần gia tăng hiệu ứng
nhà kính
Không còn mùi, khí nhà kính được thu gom dưới dạng
khí sinh học phục vụ hoạt động nấu ăn
thêm cỏ voi – giống cỏ năng suất cao để xem như một năng tiếp nhận, sản sinh khí sinh học dành cho hộ gia
đình, với mức sảnlượng khí sinh học (CH4) trong một
ngày tương đương 6-10,5m3 . Mô hình đã tạo ra một
lượng khí dồi dào để cung cấp cho sinh hoạt gia đình
hộ dân, cũng như khả năng tiêu thụ phân compost
dành cho rẫy trồng trọt. Qua đó ta cũng thấy được
những lợi ích mà mô hình mang lại cho hộ dân cả về
sinh kế lẫn bảo vệ môi trường.
Sau khi áp dụng mô hình, người dân nhận xét rằng
đã có sự thay đổi hợp lí hơn, tự chủ hơn trong các
sản phẩm từ sinh kế chính cũng như sinh kế phụ, tận
dụng sản phẩm thải để cung cấp lại cho chính hoạt
động sản xuất của gia đình mình, đi kèm tiết kiệm chi
phí và bảo vệ môi trường, góp tay vào xu hướng sản
xuất mới hơn, bền vững và hiệu quả hơn.
nguồn thức ăn phụ chứa hàm lượng dinh dưỡng cho
bò thay vì chỉ có rơm khô như trước. Tổng hợp sinh
Hiệu quả về kinh tế
Mô hình đề xuất bổ sung thêm các thành phần gồm
hệ thống biogas, ao sinh học, khu vực ủ phân, chuồng
nuôi trùn quế (20 m2 ), thuê đất (5.000 m2 ) với chi
phí đầu tư ban đầu là 35.000.000 đ và chi phí vận hành
mô hình khoảng 66.000.000 đ (chủ yếu là chi phí thuê
nhân công làm đất trồng cây, thu hoạch).
Lợi ích kinh tế thu được từ mô hình tổng hợp trong
Vậy thời gian hoàn vốn sau khi đầu tư mô hình là dưới
1 năm; do mức đầu tư chỉ cố định ở các công trình nhà
ủ phân và nuôi trùn; ngoài ra đi kèm là chi phí sửa
chữa, gia cố các công trình với mức dao động chi phí
khá thấp. Lúc này, trồng cây ăn trái vẫn chưa mang lại
một nguồn lợi ổn định cho 1 năm, nên sẽ được quy
về cho năm thứ 2. Từ năm thứ 2 trở đi trung bình
hộ tăng thêm thu nhập là 45.200.000 đ/năm bằng với
mức tính toán chênh lệch chi phí, lợi ích đã được tính
toán từ ban đầu. Về mặt kinh tế, đây có thể xem là
một thay đổi khá rõ rệt về mức thu nhập của gia đình
chủ hộ Nguyễn Văn Hai.
Tuy nhiên, mô hình vẫn có một vài điểm thiếu sót:
vấn đề lượng phân tích trữ vượt quá khả năng thu
chứa của hộ dân chăn nuôi bò chưa thật sự được xử lý
triệt để; sản lượng và lợi nhuận thu lại của rẫy vẫn dễ
dàng bị biến động từ thị trường do khó có một nguồn
thu ổn định và lâu dài hơn; tâm lý, cũng như kinh
nghiệm của người dân vẫn thời gian để thay đổi, cũng
như khuyến khích và vận động để áp dụng mô hình.
KẾT LUẬN
Nhóm thực hiện tiến hành điều tra, khảo sát thực địa,
dựa trên các tài liệu tổng quan để từ đó đề xuất được
mô hình sản xuất canh tác tích hợp hướng tới không
phát thải cho các hộ chăn nuôi bò. Mô hình áp dụng
các giải pháp sinh thái (biogas, ủ phân compost,...),
các giải pháp quay vòng, khép kín các dòng vật chất
năng lượng (thu hồi khí sinh học, tái sử dụng nước
sau xử lý,...). Mô hình này đã được áp dụng cho đối
tượng điển hình là hộ Nguyễn Văn Hai tại ấp Trung
An, xã Lê Trì, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Kết quả
THẢO LUẬN
Mô hình được thực nghiệm là một mô hình sinh kế
gắn với bảo vệ môi trường dành cho một hộ dân cư có
sinh kế chính là chăn nuôi bò. Hộ dân Nguyễn Văn
Hai được chọn là hộ dân điển hình để làm nơi xây
dựng cũng như vận hành mô hình nhằm tính toán
khả năng xử lý các chất thải chuồng thải thành phân
compost (với mức khoảng 300 kg phân mỗi ngày); khả cho thấy mô hình giúp hộ điển hình đảm bảo các yêu
81
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 3(2):75- 84
Bảng 2: Tổng hợp sinh kế trước và sau khi triển khai mô hình
TT
1
Trước khi triển khai mô hình
Sau khi triển khai mô hình
Chăn nuôi bò
Chăn nuôi bò
2
Trồng cây ăn trái quy mô nhỏ, nhiều loại cây trồng,
kém hiệu quả
Cải tạo vườn trồng cây ăn trái tăng hiệu quả
3
4
uê đất trồng cỏ với diện tích nhỏ
uê thêm đất trồng cỏ để đủ cung cấp cho bò của
hộ
u gom phân bò phơi khô bán thô
Ủ phân compost phục vụ cho rẫy, vườn cỏ, nuôi trùn
quế
5
6
-
-
uê thêm đất làm rẫy
Nuôi trùn quế
Bảng 3: Lợi ích kinh tế thu được từ mô hình
Nguồn thu nhập
Trước khi thực hiện mô hình (đ/năm)
Sau khi thực hiện mô hình (đ/năm)
Nuôi bò ( sinh kế chính )
Vườn cây
57.000.000
3.700.000
7.400.000
0
60.000.000
4.000.000
0
Phân bò
Cỏ
10.000.000
10.000.000
1.800.000
45.000.000
130.800.000
Phân compost
Khí sinh học
Rẫy
0
0
17.500.000
85.600.000
Tổng cộng
Tổng lợi ích tăng lên sau khi thực
hiện mô hình
45.200.000
cầu về BVMT (3,18 m3 /ngày nước thải chăn nuôi và TSS: Tổng chất rắn lơ lửng
sinh hoạt được thu gom, xử lý và tái sử dụng cho trồng COD: Nhu cầu ôxy hóa học
trọt, lượng khí nhà kính khoảng 39.065,31 tấn CO2
tđ/năm được thu gom dùng cấp nhiệt cho hoạt động
nấu ăn), duy trì sinh kế hiện hữu cho hộ, tạo ra một
số sinh kế mới (trồng cỏ, ủ phân, làm rẫy,...) giúp hỗ
trợ cho sinh kế chính, tận dụng quỹ thời gian rảnh rỗi
của hộ và gia tăng thu nhập (tăng 64.400.000 đ/năm),
giảm sự lệ thuộc của sinh kế hiện hữu đối với các tác
nhân bên ngoài như giá cả, thức ăn, nhân lực,... Đây
có thể được xem là mô hình mẫu tốt nhất cho các hộ
chăn nuôi bò ở khu vực Bảy Núi, tỉnh An Giang chung
và các vùng, miền khác.
MPN: Most Probable Number – Số lượng có thể xảy
ra nhất
BVMT: Bảo vệ Môi trường
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
WHO: World Health Organization – Tổ chức Y tế ế
giới
IPCC: Intergovernmental Panel on Climate Change –
Uỷ ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu
LỜI CẢM ƠN
Tập thể tác giả xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Sở
Khoa học và Công nghệ tỉnh An Giang đã tài trợ thực
hiện nghiên cứu này.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
VAC: Mô hình Vườn – Ao – Chuồng
VACB: Mô hình Vườn – Ao – Chuồng – Biogas
VACBNXT: Mô hình Vườn – Ao – Chuồng – Biogas
– Nhà – Xưởng – Trạm xử lý
BOD5: Nhu cầu oxy hóa sinh học
SS: Chất rắn lơ lửng
Xin cảm ơn đến Đại học Quốc gia TP.HCM, Viện Môi
trường và Tài nguyên đã hỗ trợ, tạo mọi điều kiện
thuận lợi để chúng tôi có thể hoàn thành nghiên cứu,
xin cảm ơn Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Gi-
ang đã hỗ trợ cung cấp số liệu, tạo điều kiện khảo sát
thực tế tại địa phương.
82
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 3(2):75- 84
hợp theo hướng sinh thái, khép kín cho các làng nghề đồng
bằng sông Cửu Long. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công
nghệ. 2015:12-23.
XUNG ĐỘT LỢI ÍCH
Nhóm tác giả cam đoan rằng không có xung đột lợi
ích trong công bố bài báo “Đề xuất mô hình sản xuất
canh tác tích hợp hướng tới không phát thải cho hộ
chăn nuôi: áp dụng điển hình cho hộ chăn nuôi bò ở
khu vực Bảy Núi”.
thuy-san-the-gioi-Buoc-tien-nhanh-cua- nguoi-Thai-hay-su-
cham-chan-cua-nguoi-Viet: AGROINFO; 2011.
12. Lê Thanh Hải, Trần Văn Thanh, Nguyễn Thị Phương Thảo, Lê
Quốc Vĩ. Đề xuất mô hình sản xuất theo hướng sinh thái gắn
với bảo vệ môi trường cho nghề sản xuất tinh bột ở nông thôn
đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Phát triển Khoa học và
Công nghệ. 2015:33-43.
ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ
13. Thanh Hai Le, Van Thanh Tran, Quoc Vi Le, Thi Phuong Thao
Nguyen, Hans Schnitzer, Gerhart Braunegg. An integrated
eco-model incorporating renewable energy leading to pollu-
tion reduction for sustainable development of craft villages
in rural area: a case study at sedge mats village in mekong
delta, vietnam, Energy, Sustainability and Society, Springer.
Open access. 2016.
14. Hai LT, Schnitzer H, van Thanh T, Thao NTP, Braunegg G. An in-
tegrated eco-model of agriculture and small-scale industry in
craft villages toward cleaner production and sustainable de-
velopment in rural areas - A case study from Mekong delta of
Tác giả Lê Trọng Nhân, Đồng ị u Huyền, Lê
anh Hải, Lê Quốc Vĩ, Trần ị Hiệu, Nguyễn ị
Phương ảo, Phạm Đắc Tín, Võ ị Lý u ảo
cùng thực hiện tất cả các bước và quy trình xây dựng
kết quả của nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alary V, Corniaux C, Gautier D. Livestock’s Contribution
Poverty Alleviation: How to Measure It? World Development.
2011;9:1638–48.
2. Ellis F, Bahiigwa G. Livelihoods and Rural Poverty Reduction in
Uganda. World Development. 2003;6:997–1013.
3. Meltzer MI. Livestock in Africa: The Economics of Ownership
and Production, and the Potential for Improvement. Agricul-
ture and Human Values. 1995;2:4–18.
4. Chanamuto NJC, Hall SJG. Gender, Equality, Resilience to Cli-
mate Change, and the Design of Livestock Projects for Rural
Livelihoods. Gender & Development. 2015;3:515–30.
5. Lê Viết Lý. Chuyển đổi cơ cấu cây chăn nuôi trên Thế giới và
tại Việt Nam trong điều kiện biến đổi khí hậu, Hội thảo “Triển
vọng phát triển chăn nuôi Việt Nam”, Hà Nội. 2010.
6. Lê Viết Ly. Hội KHKT Chăn nuôi Việt Nam, Hội thảo “Triển vọng
phát triển chăn nuôi Việt Nam. 2010.
7. World Bank. Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp ở Việt Nam:
Ngành chăn nuôi, 2017. 2017.
8. Sajal MAKR. Effects of Organic Manures in Changes of Some
Soil Properties at Different Incubation Periods. Open Journal
of Soil Science. 2014;4:81–6.
Vietnam. Journal of Cleaner Production. 2016;p. 274–82.
15. Nguyễn Quốc Nghi, Trần Thị Diễm Cần, Nguyễn Thị Thúy
Oanh. So sánh hiệu quả tài chính giữa chăn nuôi sinh thái
và chăn nuôi truyền thống: Trường hợp nghiên cứu nông hộ
chăn nuôi ở huyện Phong Điền, Thành phố Cần Thơ. Tạp chí
Khoa học trường Đại học Cần Thơ. 2017:80-6.
16. Trần Vũ Phến, Lê Văn Xiêm. Hiệu quả của việc trồng cây phủ
đất trong việc kiểm soát cỏ dại và cung cấp thức ăn cho chăn
nuôi trong vườn cây ăn trái. Tạp chí Khoa học trường Đại học
Cần Thơ. 2007:115-24.
17. Lê Đình Phùng, Lê Đức Ngoan. Phát thải và một số kịch bản
giảm phát thải khí Methane trong chăn nuôi bò sữa quy mô
nông hộ tại Ba Vì, Hà Nội. Tạp chí Khoa học và Phát triển.
2015:543-50.
18. Vũ Thị Thanh Hương, Vũ Quốc Chính, Nguyễn Thị Hà Châu, Lê
Văn Cư. Kết quả nghiên cứu thực trạng và các giải pháp quản
lý môi trường trong chăn nuôi hộ gia đình và trang trại nhỏ ở
một số tỉnh phía Bắc. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Thủy lợi.
2013:1-7.
19. Lê Thanh Hải. Sách chuyên khảo “Kỹ thuật và hệ thống không
phát thải trong sản xuất công nông nghiệp ở Việt Nam”. Hà
Nội: NXB Khoa học và Kỹ thuật; 2016.
9. Lê Thị Hồng Nhung. Đánh giá khả năng áp dụng mô hình
nông nghiệp không chấtthải tại xã Giao Lạc, huyện Giao Thủy,
tỉnh Nam Định. Luận văn Thạc sỹ Khoa học, Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội. 2015.
10. Lê Thanh Hải, Trần Văn Thanh, Lê Quốc Vĩ, Nguyễn Thị Phương
Thảo. Đánh giá tiềm năng xây dựng các mô hình sản xuất tích
20. Kollmair, M.St Gamper. “The Sustainable Livelihoods Ap-
proach”. Development Study Group, University of Zurich,
Switzerland Input Paper for the Integrated Training Course of
NCCR North-South Aeschiried. 2002.
83
Science & Technology Development Journal – Science of The Earth & Environment, 3(2):75- 84
Research Article
Open Access Full Text Article
Propose a model integrated farming production towards zero
emissions for livestock households: typical application for cattle
breeding households in Seven Mountain areas
Le Trong Nhan1,*, Dong Thi Thu Huyen2, Le Thanh Hai3, Le Quoc Vi3, Tran Thi Hieu3,
Nguyen Thi Phuong Thao3, Nguyen Viet Thang3, Vo Thi Ly Thu Thao3
ABSTRACT
The study has proposed an integrated zero-emission farming model based on livestock production.
The model applies ecological solutions, revolving solutions, and closures of energy flows along with
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
utilizing the local environmental conditions available to help maintain livelihoods for the people.
Typical models for Mr. Nguyen Van Hai households in Trung An hamlet, Le Tri commune, Tri Ton dis-
trict, An Giang province. The results show that 3.18 m3/day of livestock and domestic waste water
is treated and reused for agriculture, 39,065.31 tons of CO2tđ/year is collected in the form of biogas
for cooking, models help to maintain existing livelihoods, creating a number of new livelihoods to
increase income of VND 64,400,000/year, ensuring environmental protection requirements, reduc-
ing existing livelihood dependence on external actors such as price, food, human resources, etc.
This can be considered as the best model for cow farmers; can overcome the disadvantages of pre-
vious local livelihood models; Both in terms of long-term applicability, as well as the development
of a large number of households, there is an increase in the ability to connect among households
in order to create mutual support in the case of a residential area with the same main livelihood as
livestock cow.
Key words: integrated farming, zero emissions, livestock
1Ton Duc ang University
2Dong Nai Technology University
3Institute for Environment and
Resources, VNUHCM
Correspondence
Le Trong Nhan, Ton Duc Thang
University
Email:
History
• Received: 25-04-2019
• Accepted: 15-8-2019
• Published: 31-12-2019
DOI : 10.32508/stdjsee.v3i2.481
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Cite this article : Trong Nhan L, Thi Thu Huyen D, Thanh Hai L, Quoc Vi L, Thi Hieu T, Thi Phuong Thao
N, Viet Thang N, Thi Ly Thu Thao V. Propose a model integrated farming production towards zero
emissions for livestock households: typical application for cattle breeding households in Seven
Mountain areas. Sci. Tech. Dev. J. - Sci. Earth Environ.; 3(2):75-84.
84
Bạn đang xem tài liệu "Đề xuất mô hình sản xuất canh tác tích hợp hướng tới không phát thải cho hộ chăn nuôi - Áp dụng điển hình cho hộ chăn nuôi bò ở khu vực Bảy Núi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- de_xuat_mo_hinh_san_xuat_canh_tac_tich_hop_huong_toi_khong_p.pdf