Hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Trường hợp hệ thống quidamtur
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn
HỆ THỐNG ĐÁNH GIÁ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
CỦA DOANH NGHIỆP: TRƯỜNG HỢP HỆ THỐNG QUIDAMTUR
Nguyễn Thị Thanh Nga
Trường Du Lịch - Đại học Huế
Email: nttnga@hueuni.edu.vn
Lịch sử bài báo
Ngày nhận: 22/4/2021; Ngày nhận chỉnh sửa: 14/6/2021; Ngày duyệt đăng: 28/8/2021
Tóm tắt
Trách nhiệm xã hội đã được nghiên cứu rộng rãi trong thập kỷ qua, có rất nhiều tài liệu liên quan đến
trách nhiệm xã hội ở các công ty lớn trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, nhưng vẫn thiếu thông tin về hệ
thống báo cáo trách nhiệm xã hội trong ngành lữ hành. Hơn nữa, có rất ít nỗ lực để phát triển một mô hình
giải quyết trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong các môi trường đa dạng với các bối cảnh thị trường
và văn hóa xã hội khác nhau. Vì vậy, sau khi đã làm rõ các định nghĩa của trách nhiệm xã hội, mô hình trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp và hệ thống báo cáo trách nhiệm xã hội có sẵn tại Châu Âu, bài báo tập
trung phân tích hệ thống báo cáo của QUIDAMTUR để đánh giá trách nhiệm của các công ty du lịch. Đây
là hệ thống đánh giá được phát triển dựa trên khía cạnh kinh tế, môi trường, văn hóa và xã hội. Bài báo là
tài liệu tham khảo cho các công ty lữ hành xây dựng hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Từ khóa: Hệ thống đánh giá, QUIDAMTUR, trách nhiệm xã hội.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
CORPORATE SOCIAL RESPONSIBILITY REPORTING SYSTEMS:
A CASE STUDY OF QUIDAMTUR
Nguyen Thi Thanh Nga
School of Hospitality & Tourism - Hue University
Email: nttnga@hueuni.edu.vn
Article history
Received: 22/4/2021; Received in revised form: 14/6/2021; Accepted: 28/8/2021
Abstract
Corporate Social Responsibility (CSR) has been widely studied during the last decade and while a lot of
current literature is related to CSR in big companies within the hospitality and tourism sector, there is little
information regarding CSR reporting system in travel tourism. Moreover, little attempt has been made to
develop a model accounting for corporate social responsibility in diverse environments with differing socio-
cultural and market settings. Therefore, after having clarified the definitions of CSR and of CSR reporting
systems available in Europe, the article concentrates on the analysis of QUIDAMTUR reporting systems for
assessing the responsibility of tourism companies. It is a reporting system developed based on the dimensions
of economy, environment, culture, and society. The study is a reference for Travel Agents Society and Tour
operators to build up CSR reporting system.
Keywwords: Corporate social responsibility, QUIDAMTUR, reporting system.
Trích dẫn: Nguyễn Thị Thanh Nga. (2022). Hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Trường hợp hệ thống
QUIDAMTUR. Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, 11(1), 100-108.
100
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 11, Số 1, 2022, 100-108
1. Đặt vấn đề
phần làm tăng lòng tin của người tiêu dùng đối với
doanh nghiệp. Tính bền vững là một trong những mối
quan tâm chính của các doanh nghiệp và không thể
đạt được nếu không chịu trách nhiệm về hành động
của doanh nghiệp và những tác động gây ra đối với
xã hội (Kalish, 2002). Các doanh nghiệp muốn phát
triển bền vững phải luôn tuân thủ những chuẩn mực
về bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường lao
động, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi
lao động, đào tạo và phát triển nhân viên, góp phần
phát triển cộng đồng (Trần Thị Trà My, 2020).
Thuật ngữ “trách nhiệm xã hội” (TNXH) đã
được phát triển từ giữa những năm 1990 và trở thành
khuôn khổ thiết yếu thay đổi thực tiễn kinh doanh
(Manente và cs., 2014). Từ “xã hội” trong TNXH
luôn mơ hồ và thiếu định hướng cụ thể về việc công ty
chịu trách nhiệm mặc dù có nhiều định nghĩa và cách
giải thích khác nhau về khái niệm này (Carroll, 1991).
Có nhiều nghiên cứu học thuật đã được thực hiện và
khái niệm TNXH nhận được rất nhiều sự chú ý gần
đây trong thực tiễn kinh doanh (Vázquez-Carrasco
và López-Pérez, 2012). Tuy nhiên, số lượng nghiên
cứu còn hạn chế và tập trung chủ yếu vào TNXH của
doanh nghiệp trong ba lĩnh vực chính - việc thực hiện
TNXH, các mối quan hệ xã hội của TNXH và hành
động có trách nhiệm hơn về mặt kinh tế (Coles và
cs., 2013). Các nhà nghiên cứu nhận thấy khái niệm
TNXH khá phức tạp, không rõ ràng và đang được
nghiên cứu trong khi vẫn còn nhiều việc phải làm
(Fuchs, 2010). Đồng thời, có rất nhiều cách tiếp cận
đã được đề xuất trong nhiều năm. Đối với một số
người, TNXH là một cách tiếp cận quản lý trong khi
đối với những người khác, nó là một quá trình động.
Điểm chung trong tất cả các phương pháp tiếp cận là
xác định lợi ích và kỳ vọng của các bên liên quan và
điều chỉnh hoạt động kinh doanh của công ty cho phù
hợp với sự tôn trọng (Manente và cs., 2014).
Lựa chọn các doanh nghiệp do danh tiếng về
TNXH của họ đang trở thành sở thích của người tiêu
dùng (Eraqi M. I., 2010). Tuy nhiên, doanh nghiệp
chỉ lấy được lòng tin của khách hàng là chưa đủ mà
phải duy trì được niềm tin đó. Tham gia vào TNXH
là một cách để đạt được điều đó vì doanh nghiệp chịu
trách nhiệm về những tác động mà họ gây ra cho cả
xã hội và môi trường (Manente và cs., 2014). Một
công ty có trách nhiệm với xã hội cân nhắc những tác
động gây ra đối với môi trường địa phương và cộng
đồng khi đưa ra quyết định, cân bằng lợi ích của tất
cả các bên liên quan trong khi đảm bảo tối đa hóa lợi
nhuận (Manente và cs., 2014).
Nhiều doanh nghiệp tham gia đánh giá TNXH
thông qua các tổ chức đánh giá, hệ thống đánh giá
theo hướng cấp chứng chỉ thực hành TNXH của
doanh nghiệp như hệ thống KATE, QUIDAMTUR,
TOI-GRI, Travelife. Bài viết tập trung trình bày mô
hình TNXH, các đặc điểm của hệ thống đánh giá,
phân tích hệ thống đánh giá TNXH QUIDAMTUR,
giúp cho các doanh nghiệp tham khảo đánh giá TNXH
và nâng cao hiệu quả thực hiện TNXH của doanh
nghiệp trên tất cả các khía cạnh kinh tế, môi trường,
văn hóa và xã hội.
Porter và Kramer (2006) giới thiệu “cách tiếp
cận cấp phép hoạt động” để các công ty nhận ra các
mối quan tâm xã hội quan trọng đối với các bên liên
quan. Các công ty thường quan tâm đến danh tiếng
nên điều quan trọng là làm hài lòng các bên liên
quan. Như đã phát biểu bởi Porter và Kramer, "trong
các công ty định hướng người tiêu dùng, nó thường
dẫn đến các chiến dịch tiếp thị liên quan đến nguyên
nhân nổi bật" (Porter và Kramer, 2006). Nhiều doanh
nghiệp tin rằng TNXH cải thiện hình ảnh và củng cố
thương hiệu của doanh nghiệp. Một số người nhận
định TNXH giúp nâng cao giá trị cổ phiếu của họ
(Porter và Kramer, 2006). Điều này cho thấy các công
ty khác nhau nhận thức về mục đích của TNXH khác
nhau nhưng mục đích cuối cùng của doanh nghiệp là
tối đa hóa lợi nhuận.
2. Tổng quan lý thuyết về TNXH
2.1. Khái niệm TNXH
TNXH của doanh nghiệp là chủ đề ngày càng
được các học viên quan tâm mặc dù không phải là
khái niệm mới (Henderson, 2007). Thuật ngữ TNXH
được hiểu là “sự đóng góp tự nguyện của các công ty
để cải thiện môi trường, xã hội và nền kinh tế, vì lý
do vị tha hoặc để cải thiện vị thế cạnh tranh của họ”
(Tamajón và Aulet, 2013).
Nghiên cứu của Lê Thùy Hương và Đặng Anh
Minh (2018) chỉ ra rằng, TNXH của doanh nghiệp làm
tăng sự hài lòng của khách hàng; còn Kalish (2002)
tuyên bố rằng TNXH của doanh nghiệp là cách phát
triển doanh nghiệp có trách nhiệm và bền vững, góp
TNXH đang được nghiên cứu liên tục và tầm
quan trọng của TNXH được công nhận rộng rãi, các
tiêu chuẩn TNXH ngày càng nhiều, nhưng định nghĩa
101
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn
chưa thật sự rõ ràng và được phân biệt như thế nào trong kim tự tháp TNXH đề cập đến bốn loại TNXH
trong các doanh nghiệp khác nhau (Sheehy, 2015). gồm: kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện. Bốn loại
Theo Sheehy (2015) những tiến bộ trong việc xác TNXH đại diện cho kim tự tháp TNXH và là “khuôn
định TNXH còn rất hạn chế và TNXH chưa được phát khổ để hiểu bản chất phát triển của hoạt động kinh
triển về ý nghĩa, nội dung và thực tiễn một cách chính tế, pháp lý, đạo đức và hoạt động từ thiện của công
xác, tính dứt khoát của mối quan hệ với luật pháp và ty” (Carroll, 1991). Việc thực hiện TNXH của doanh
sự rõ ràng của việc thiết kế và thực hiện quy định.
nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô của
công ty, phong cách quản lý, chiến lược của công ty,
đặc điểm của ngành mà công ty hoạt động, nền kinh
tế,... (Carroll, 1991).
Định nghĩa hiện tại của TNXH rất phức tạp và
điều này là do bối cảnh của các vấn đề mà nó giải
quyết (Sheehy, 2015) như sinh thái, xã hội và kinh
tế, cũng là những khái niệm rất phức tạp. TNXH của
doanh nghiệp thường gắn liền với một số hoạt động
tổ chức nhất định như phúc lợi xã hội, quyền việc
làm, sự tham gia của các bên liên quan, đóng góp
từ thiện, đạo đức lãnh đạo, quản lý chuỗi cung ứng
có trách nhiệm, trách nhiệm với môi trường và hành
động cộng đồng (Sheehy, 2015; Coles và cs., 2013).
Những hành động đó không nhất thiết phải bị hạn
chế và không phải tất cả chúng đều phải thực hiện
khi tham gia vào TNXH.
Từ thiện
Đạo đức
Pháp lý
Kinh tế
Theo định nghĩa TNXH của doanh nghiệp không
chỉ đơn giản là thực hiện các nghĩa vụ pháp lý, mà còn
là việc các công ty chịu trách nhiệm về hành động của
mình và tự nguyện vượt qua các thách thức xã hội và
môi trường (Fuchs, 2010). Tuyên bố tương tự cũng
được đưa ra bởi Inoue và Lee (2011) rằng: “TNXH
là các hoạt động của doanh nghiệp không được luật
pháp yêu cầu, những hoạt động không chỉ liên quan
đến lợi ích của doanh nghiệp mà còn hướng tới lợi
ích xã hội”. Tuy nhiên, có một số điểm yếu của khái
niệm đặt ra câu hỏi về tính minh bạch của TNXH.
Sheehy (2015) đưa ra câu hỏi liệu TNXH “đơn giản
là hình thức” (Greer và Bruno 1996) hay đó là một
nỗ lực thực sự nhằm kiểm soát và giảm thiểu các tác
động đối với môi trường và xã hội. Có những công
ty coi TNXH là cách để củng cố hình ảnh và sử dụng
cho mục đích thương mại trong khi hành động kinh
doanh vẫn có thể gây hại cho xã hội.
Hình 1. Mô hình kim tự tháp Carroll (1991)
Trách nhiệm kinh tế: Lý do chính khiến các
công ty tồn tại là để sản xuất hàng hóa, bán chúng và
tạo ra lợi nhuận. Nếu một doanh nghiệp không tạo ra
lợi nhuận, sẽ không thể trả lương cho nhân viên, hoàn
vốn đầu tư cho cổ đông và không thể cung cấp sản
phẩm cho khách hàng. Do đó, trách nhiệm đầu tiên
và chính đáng của mọi công ty là duy trì hoạt động
kinh doanh. Đây là nền tảng của kim tự tháp TNXH
của Carroll mà tất cả những nhà nghiên cứu đều dựa
vào đó (Carroll, 1991).
Trách nhiệm pháp lý: Trách nhiệm pháp lý của
các doanh nghiệp đòi hỏi các công ty phải tuân theo
luật pháp (Carroll, 1991). Việc doanh nghiệp phớt lờ
trách nhiệm pháp lý có thể đối mặt với truy tố pháp lý.
Trách nhiệm đạo đức: Trách nhiệm đạo đức
là những gì xã hội mong đợi từ doanh nghiệp ngoài
những mong đợi về kinh tế và pháp lý (Carroll,
1991), bao gồm các trách nhiệm mà pháp luật không
thực thi. Tuy nhiên, trách nhiệm đạo đức được công
chúng kỳ vọng vì các doanh nghiệp có nghĩa vụ trở
thành công dân tốt và “làm điều đúng đắn” (Porter
và Kramer, 2006).
Như vậy, TNXH có thể được xem là những hành
động tự nguyện của các doanh nghiệp trong việc thực
hiện các nỗ lực giảm tải những tác động tiêu cực cũng
như cải thiện các tác động của doanh nghiệp đến các
khía cạnh kinh tế, môi trường, văn hóa và xã hội.
2.2. Mô hình kim tự tháp TNXH
Có một số phân loại về TNXH của doanh nghiệp
được đưa ra bởi các nhà thực hành khác nhau. Carroll
(1991) lần đầu tiên giới thiệu bốn cấp độ TNXH
Trách nhiệm từ thiện: Trách nhiệm từ thiện
là đỉnh của kim tự tháp vì nó không bắt buộc cũng
như không được công chúng mong đợi. Hoạt động
102
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 11, Số 1, 2022, 100-108
từ thiện là nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân nghiệp phải đáp ứng. Việc tôn trọng nhân viên, cộng
đồng địa phương và các bên liên quan khác đang trở
nên cần thiết (Kalish, 2002).
viên và cộng đồng địa phương. Làm từ thiện có thể
đóng góp vào sự bền vững của một xã hội (Porter và
Kramer, 2006). Trách nhiệm từ thiện liên quan đến
sự đóng góp của doanh nghiệp bằng nguồn tài chính
hoặc các cách thức khác nhau như đóng góp cho
các tổ chức từ thiện, giáo dục, nghệ thuật... (Carroll,
1991). Các hoạt động từ thiện thường được báo cáo
là số tiền hoặc thời gian tình nguyện đã bỏ ra (Porter
và Kramer, 2006).
Các công ty có thể đảm bảo hiệu quả kinh tế dài
hạn của mình bằng cách tránh các hành vi ngắn hạn,
thường có hại về mặt xã hội và môi trường (Porter
và Kramer, 2006). Do đó, phương pháp tiếp cận đựa
trên cả ba khía cạnh kinh tế, môi trường và xã hội
nên được tất cả các doanh nghiệp kết hợp (Coles và
cs., 2013). Vo và cs. (2015) đã xem xét động cơ đằng
sau việc tích hợp TNXH vào chiến lược kinh doanh.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp tiếp cận ba điểm
mấu chốt để phân chia động cơ thành động cơ kinh
tế, xã hội và môi trường để so sánh các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (DNVVN). Các động cơ kinh tế được
coi là động lực quan trọng nhất của sự tham giá thực
hiện TNXH. Tuy nhiên, theo Jenkins, các DNVVN
tham gia vào TNXH chủ yếu vì các lý do xã hội và
môi trường. Điều này có thể là do các công ty vừa và
nhỏ lấy chủ sở hữu làm trung tâm hoặc vì TNXH chỉ
là “điều đúng đắn cần làm” (Jenkins, 2006). Bỏ qua
tầm quan trọng của từng loại động cơ, tất cả chúng
đều quan trọng để khám phá, vì chúng tiết lộ thông
tin khác, có thể giúp hiểu rõ hơn nhận thức của các
DNVVN về TNXH và cách họ thực hiện nó.
TNXH của doanh nghiệp đòi hỏi phải thực hiện
tất cả bốn yếu tố của kim tự tháp TNXH gồm trách
nhiệm kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện (Carroll,
1991). Doanh nghiệp thực hiện TNXH không chỉ
nhằm tối đa hóa lợi nhuận mà phải tuân thủ luật pháp,
có đạo đức và tôn trọng các bên liên quan (Carroll,
1991). Một số công ty cho rằng TNXH đơn giản là trở
thành những công dân tốt trong cộng đồng (Carroll,
1991). Hoàng Anh Viện (2018) đã sử dụng mô hình
kim tự tháp của Carroll (1991) để tiến hành nghiên
cứu “mối quan hệ tài sản thương hiệu, kết quả kinh
doanh TNXH của doanh nghiệp du lịch Việt Nam”.
Kết quả nghiên cứu cho thấy trách nhiệm kinh tế, pháp
lý, đạo đức và từ thiện đều có tác động đến thương
hiệu và kết quả kinh doanh. Mặc dù, bốn loại trách
nhiệm đều có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp,
việc thưc hiện TNXH của doanh nghiệp chưa đầy đủ
hoặc không phù hợp với chiến lược, chính sách nội
bộ và các hoạt động chính của công ty. Các công
ty thường tập trung vào một hoạt động TNXH như
trồng cây, quyên góp cho các tổ chức từ thiện hoặc
các khoản tài trợ khác nhau cho địa phương. Những
hoạt động đó là đáng tin cậy, nhưng chỉ có những sáng
kiến như vậy không có nghĩa là công ty có TNXH
thực sự (Manente và cs., 2014).
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Đặc điểm chính của hệ thống đánh giá
TNXH của doanh nghiệp
Hệ thống đánh giá trách nhiệm của doanh nghiệp
có nhiều loại khác nhau như các giải thưởng và nhãn
hiệu du lịch sinh thái, nhãn hiệu xanh. Theo Bien
(2008) mặc dù các hệ thống đánh giá khác nhau,
chúng vẫn có các thành phần tương tự gồm:
- Sự tự nguyện tham gia của các doanh nghiệp.
- Các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng.
- Có đánh giá và kiểm định.
2.3. Mô hình TNXH dựa trên 3 khía cạnh môi
trường, kinh tế và xã hội
- Công nhận và trao tặng logo du lịch có trách
nhiệm cho các doanh nghiệp.
TNXH của doanh nghiệp dựa trên khái niệm ba
điểm mấu chốt, đo lường lợi nhuận và thua lỗ về kinh
tế, môi trường và xã hội. Điều này có nghĩa là thay
vì chỉ chịu trách nhiệm về tối ưu hóa lợi nhuận, các
công ty tham gia vào TNXH phải chịu trách nhiệm về
các hành động của họ liên quan đến môi trường, xã
hội và nền kinh tế. Trong quá khứ, điểm mấu chốt về
tài chính là cách tiếp cận duy nhất của các công ty vì
mối quan tâm chính là tối đa hóa lợi nhuận. Ngày nay,
chỉ có lợi nhuận thôi là chưa đủ vì các bên liên quan
khác nhau có những kỳ vọng khác nhau mà doanh
- Đánh giá định kỳ các doanh nghiệp .
- Tiếp tục cải thiện TNXH của doanh nghiệp.
- Tính minh bạch trong đánh giá.
- Cơ chế tạo cơ hội cho các doanh nghiệp xác
định rõ các tiêu chuẩn du lịch có trách nhiệm.
Để đảm bảo sự công bằng và khách quan, hệ
thống đánh giá phải tuân thủ các thành tố sau:
- Không phân biệt đối xử: Hệ thống sẵn sàng
103
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn
đánh giá và công nhận cho các doanh nghiệp thỏa tác động đến môi trường, xã hội và không dựa vào kết
quả đạt được của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc đánh
giá dựa vào quy trình thực hiện phải đảm bảo đầy đủ
các tài liệu về quá trình thực hiện có sự kiểm soát từ
bên trong doanh nghiệp nhằm duy trì chất lượng của
quy trình thực hiện.
mãn các tiêu chuẩn đã đặt ra.
- Miễn phí xét hồ sơ và không phụ thuộc vào
quy mô của doanh nghiệp cũng như các thành viên
trong nhóm và tổ chức khác.
- Tiêu chuẩn đánh giá sẽ bao gồm các tiêu chí
cụ thể.
3.2. Hệ thống đánh giá TNXH
Hệ thống báo cáo TNXH có thể được định nghĩa
là “một hệ thống đánh giá, giúp kiểm tra và chứng
nhận trách nhiệm chung của các công ty du lịch, đối
với việc thực hành các nguyên tắc du lịch hoặc việc
thực hiện TNXH” (Bien, 2008; Manente và cs., 2014).
Nó có thể được coi là một công cụ đo lường nhằm đảm
bảo rằng sản phẩm du lịch, hoặc hoạt động hoặc một
quá trình hoạt động du lịch đáp ứng các tiêu chuẩn
cụ thể. Trong những năm gần đây, do sự công nhận
ngày càng tăng về TNXH và phát triển bền vững trong
ngành du lịch, một số chương trình báo cáo TNXH,
chẳng hạn như chứng nhận, cấp nhãn hay trao giải
thưởng đã được khuyến khích và phát triển cho các
doanh nghiệp đặc biệt là trong ngành du lịch (Dodds
và Joppe , 2005; Goodwin, 2005; Font và Buckely,
2010). Hiện tại ở Châu Âu sử dụng một số hệ thống
đánh giá TNXH được trình bày ở Bảng 1.
Hệ thống báo cáo TNXH đã được sử dụng cho
các đại lý du lịch và công ty lữ hành có thể được phân
chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất là hệ thống như
AITR, ATES, TOI, AITO, cũng như Travelife. Các
hệ thống báo cáo này được tạo ra bởi các nhà điều
hành tour du lịch chuyên về TNXH hoặc tích cực tham
gia vào các hoạt động có trách nhiệm. Nhóm thứ hai
- Tổ chức kiểm định phải đánh giá công bằng
và đưa ra quyết định dựa trên các tiêu chí rõ ràng.
- Người đánh giá doanh nghiệp cần phải tách
các bộ phận để xem có nên trao một phần hay toàn
bộ chứng nhận.
- Ban đánh giá nên thoát khỏi những áp lực về
thương mại hoặc tài chính để không làm ảnh hưởng
đến quyết định của ban đánh giá.
- Hệ thống đánh giá nên trao tặng logo và kèm
theo thời gian có hiệu lực đối với các doanh nghiệp
và yêu cầu nộp hồ sơ đánh giá lại sau khi hết hạn.
- Thiết lập các thủ tục về việc thay đổi và hiệu
chỉnh lại các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá.
Theo Bien (2008) thì hệ thống đánh giá có những
khác biệt cơ bản về thủ tục, trình tự của hệ thống kiểm
định/đánh giá, các tiêu chí tập trung đánh giá giữa
các hệ thống khác nhau. (ví dụ như: tập trung đánh
giá vào sản phẩm hay quá trình sản xuất hay là quy
trình phục vụ). Đối với thủ tục kiểm định, giai đoạn
đầu tiên là quá trình tự đánh giá của doanh nghiệp.
Đến giai đoạn thứ hai, người tiêu dùng và hệ thống
kiểm định mới tiến hành đánh giá. Giai đoạn ba thì
dựa trên các tiêu chuẩn đã được xác định để đánh giá
sự hài lòng về sản phẩm hoặc doanh nghiệp. Ngành là các hệ thống được phát triển bởi các công ty hoặc
dịch vụ, du lịch thì cần đánh giá thêm về quy trình tổ chức tư vấn đề xuất các công cụ thúc đẩy trách
nhiệm trong các doanh nghiệp du lịch, chẳng hạn như
QUIDAMTUR, KATE và The Responsibletravel.
com (Manente và cs., 2014)
phục vụ. Theo Bobbin (2012), phần lớn các tiến trình
kiểm định dường như dựa vào quy trình thực hiện và
tập trung vào nhận thức của doanh nghiệp về những
Bảng 1. Một số hệ thống đánh giá TNXH của doanh nghiệp
Tên hệ thống đánh giá Tên tổ chức
STT
Nơi áp dụng
1
2
3
4
5
6
Tiêu chuẩn du lịch có trách nhiệm
Hệ thống ATES
AITR
Ý
ATES
Pháp
Chỉ số cho doanh nghiệp du lịch có trách nhiệm
Chứng thực TNXH của doanh nghiệp
Chương trình ATR
QUIDAMTUR
KATE
Tây Ban Nha
Đức
ATT
Pháp
Tour Operator’s Sector Supplement
TOI-GRI
Châu Âu
Công ty lữ hành trực tuyến
(Responsibletravel.com)
7
8
Hệ thống Responsibletravel.com
Hệ thống Travelife Sustainability
Anh
Travelife
Châu Âu
104
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 11, Số 1, 2022, 100-108
Nhóm nghiên cứu đã phân tích các hệ thống thống KATE, ATT và Travelife được kiểm tra và
đánh giá TNXH của doanh nghiệp du lịch dựa trên: giám sát bởi bên thứ ba.
mục tiêu; đối tượng áp dụng; số lượng các tiêu chí
và chỉ tiêu đánh giá; cách thức kiểm tra đánh giá của
các hệ thống.
3.3. Hệ thống đánh giá TNXH QUIDAMTUR
Trong các hệ thống được trình bày ở Bảng 1,
bài viết tập trung vào phân tích phân tích hệ thống
QUIDAMTUR được áp dụng ở Tây Ban Nha với
những tiêu chí đánh giá cụ thể về TNXH của doanh
nghiệp lữ hành. Đây là hệ thống được giới thiệu công
khai và đánh giá TNXH của doanh nghiệp dựa trên các
khía cạnh là kinh tế, môi trường, văn hóa và xã hội.
Dựa vào mục tiêu của các hệ thống đánh giá,
ATES, ATT và Responsibletravel.com có mối liên
hệ với hệ thống đánh giá AITR với mục tiêu chung
là xác định và nhận diện các chương trình du lịch
tập trung vào công ty TNXH. Trong khi, hệ thống
QUIDAMTUR, Travelife, KATE và TOI-GRI lại
nhằm mục tiêu đánh giá TNXH của doanh nghiệp dựa
trên quy trình bên trong doanh nghiệp và chuỗi cung
ứng. Hệ thống ATES, ATT và Responsibletravel.com
có cách tiếp cận chứng nhận nên một trong những mục
tiêu của hệ thống là đảm bảo lợi ích của các thành viên.
QUIDAMTUR là một công ty tư vấn có trụ sở tại
Malaga, hợp tác với các cơ quan hành chính nhà nước,
đại lý du lịch, cơ sở lưu trú, các nhà cung cấp dịch
vụ du lịch và khách du lịch để đề xuất các giải pháp
phát triển du lịch bền vững. Công ty tổ chức các khóa
đào tạo và chương trình hành động để nâng cao nhận
thức của các nhà khai thác du lịch và người tiêu dùng
về TNXH và du lịch có trách nhiệm. QUIDAMTUR
đã phát triển một hệ thống tích hợp để đánh giá tính
bền vững của nguồn cung du lịch dọc theo chuỗi cung
ứng của nhà điều hành chương trình du lịch trọn gói.
Hệ thống đánh giá áp dụng cho cả các doanh nghiệp
du lịch đơn lẻ tham gia vào việc cung cấp dịch vụ
du lịch của công ty lữ hành như: cơ sở lưu trú; dịch
vụ nhà hàng; đơn vị cung cấp dịch vụ vận chuyển;
Hệ thống QUIDAMTUR, Travelife, KATE và
TOI-GRI thường được áp dụng để đánh giá TNXH
của công ty lữ hành thông qua đánh giá TNXH của
doanh nghiệp trong quản lý nội bộ và trách nhiệm
đối với các đối tác. Trong khi, các hệ thống như
AITR, ATES và Responsibletravel.com thì đánh giá
về chương trình du lịch trọn gói, cách thức tổ chức
du lịch, các dự án du lịch, chính sách hoạt động của
CTLH để đánh giá TNXH của doanh nghiệp lữ hành.
Mỗi hệ thống đánh giá đều có những quan điểm đơn vị cung cấp dịch vụ vui chơi, giải trí và các hoạt
điều đưa ra những nhóm nhân tố khác nhau khi đánh động khác. Hệ thống QUIDAMTUR xây dựng các
giá TNXH của doanh nghiệp vì vậy số lượng và nội tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ trách nhiệm của
dung các tiêu chí đánh giá của các hệ thống khác từng công ty lữ hành, hỗ trợ nhà điều hành chương
nhau. Các hệ thống cũng có cách thức đánh giá khác trình du lịch đánh giá trách nhiệm của họ trong chuỗi
nhau, các hệ thống như AITR, ATES, TOI-GRI, cung ứng. Các tiêu chí được xây dựng dưa trên mô
Responsibletravel.com và QUIDAMTUR đánh giá hình đánh giá TNXH của doanh nghiệp đối với kinh
thông qua khảo sát ý kiến của khách du lịch còn hệ tế, môi trường, văn hóa và xã hội.
Bảng 2. Các tiêu chí đánh giá của Hệ thống đánh giá TNXH QUIDAMTUR
Khía cạnh - Nhân viên làm việc tôn trọng và không phân biệt đối xử tại nơi làm việc
xã hội
- Doanh nghiệp cung cấp thông tin xã hội đến khách hàng và các cổ đông
- Doanh nghiệp điều hành kinh doanh tôn trọng các nguyên tắc xã hội thông qua các ứng xử tôn
trọng lẫn nhau.
- Doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động xã hội
- Doanh nghiệp xúc tiến phát triển các hoạt động xã hội cho cộng đồng địa phương
- Doanh nghiệp lên án sự không công bằng
- Doanh nghiệp xúc tiến sự hội nhập xã hội
- Doanh nghiệp tuyên truyền về tác động xã hội của hoạt động kinh doanh
- Doanh nghiệp tiếp cận với những hoạt động phát triển xã hội
- Doanh nghiệp giới thiệu những hoạt động xã hội trong dự án
Khía cạnh - Tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu các chất liệu như: thay thế được, không thay thế được, nước,
môi trường năng lượng.
- Sử dụng các chất liệu bền vững và có trách nhiệm với môi trường như: Thực vật, năng lượng tái
tạo, chất liệu thay thế được
105
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn
- Doanh nghiệp cũng cấp thông tin về môi trường cho khách du lịch, cổ đông, nhà cung cấp và nhà
phân phối
- Doanh nghiệp điều hành kinh doanh tôn trọng môi trường
- Doanh nghiêp đầu tư cho các hoạt động bảo vệ môi trường
- Doanh nghiệp xúc tiến các hoạt động phát triển môi trường đến cộng đồng địa phương
- Doanh nghiệp xúc tiến sự hội nhập môi trường
- Các nghiên cứu về khả năng vận chuyển giảm thiểu chất thải gây ô nhiễm không khí
- Doanh nghiệp miêu tả các tác động đến môi trường do các hoạt động gây ra
- Doanh nghiệp giới thiệu môi trường trong dự án
Khía cạnh - Tình trạng hợp pháp của các doanh nghiệp (nguồn vốn, thực thể pháp lý)
kinh tế
- Mức độ khả thi về kinh tế (doanh số, liên tục)
- Quản lý nguồn nhân lực (tập huấn, động lực, thù lao, tuyển chọn, kế hoạch dự phòng)
- Chất lượng dịch vụ (cở sở hạ tầng, trang thiết bị, bảo trì, sự an toàn, sự thoải mái, sự sạch sẽ)
- Sử dụng các sản phẩm địa phương
- Doanh nghiệp thông qua sự công bằng và cư xử thật thà với cổ đông và khách du lịch
- Doanh nghiệp đầu tư cho chương trình bảo vệ môi trường
- Doanh nghiệp chuẩn bị mạng lưới kinh doanh cho phát triển địa phương
- Doanh nghiệp mô tả về các tác động đến kinh tế mà hoạt động kinh doanh tạo ra
- Đánh giá các hoạt động phát triển kinh tế
- Có kế hoạch phát triển kinh tế ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
Khía cạnh - Doanh nghiệp tôn trọng văn hóa địa phương (ẩm thực, sự kiện, ngôn ngữ, dân số, nghi thức, truyền
văn hóa
thuyết, âm nhạc, lịch sử,…)
- Doanh nghiệp sử dụng các yếu tố tôn trọng văn hóa bản địa như: kiến trúc, sản phẩm thủ công mỹ
nghệ, nghệ thuật
- Doanh nghiệp cung cấp thông tin văn hóa đến khách du lịch, cổ đông, nhà cung cấp, nhà phân phối
- Doanh nghiệp điều hành kinh doanh dựa trên sự tôn trọng văn hóa bản địa
- Doanh nghiệp đầu tư để thúc đẩy văn hóa địa phương phát triển
- Doanh nghiệp lên án sự không công bằng
- Doanh nghiệp hành động ủng hộ văn hóa hội nhập
- Doanh nghiệp miêu tả các tác động đến văn hóa
- Doanh nghiệp đánh giá các hoạt động phát triển văn hóa
- Doanh nghiệp giới thiệu kế hoạch phát triển văn hóa
Khía cạnh xã hội gồm các tiêu chí đánh giá mối
Môi trường là một trong những khía cạnh dễ
quan hệ giữa công ty và cộng đồng địa phương, tôn dàng được đánh giá thông quá các chỉ tiêu về sử dụng
trọng các nguyên tắc xã hội và tiếp cận với những tiết kiệm tài nguyên nước, các nguồn năng lượng, sử
hoạt động phát triển xã hội. Từ những tiêu chí đánh dụng các năng lượng tái tạo, thân thiện với môi trường.
giá TNXH của doanh nghiệp đối với xã hội của hệ Hệ thống đánh giá QUIDAMTUR cung cấp các chỉ
thống QUIDAMTUR, các công ty lữ hành có thể áp tiêu đánh giá về cả các hoạt động khác như cung cấp
dụng đánh giá TNXH của công ty đối với xã hội và thông tin, tuyên truyền bảo vệ môi trường đối với
đề xuất các giải pháp thực hiện tốt hơn TNXH của khách du lịch, nhân viên và các đối tác, các chỉ tiêu
doanh nghiệp. Cụ thể, các công ty cần đánh giá các về đánh giá sự đầu tư và xúc tiến các hoạt động bảo
tác động của hoạt động kinh doanh du lịch đối với xã vệ và cải thiện môi trường. Từ những tiêu chí của hệ
hội và cộng đồng địa phương để có những điều chỉnh thống QUIDAMTUR, các công ty lữ hành tham khảo
phù hợp, giảm các tác động tiêu cực và phát huy các để đánh giá các tác động của doanh nghiệp đối với
tác động tích cực đối với xã hội. Các công tác đầu tư môi trường từ đó có những giải pháp phù hợp với tình
và phát triển các hoạt động xã hội cần được kiểm tra, hình thực hiện TNXH của doanh nghiệp đối với môi
đánh giá và rút kinh nghiệm. Để thực hiện tốt TNXH trường. Công ty lữ hành có thể tuyên truyền, nâng cao
đối với xã hội, công ty lữ hành có thể tham gia ủng hộ nhận thức và hành động của khách du lịch trong quá
các quỹ phát triển cộng đồng, phát động các chương trình tham quan du lịch, thực hiện các công tác hưởng
trình hành động vì cộng đồng, hoặc tham gia tài trợ ứng ngày môi trường thế giới, Giờ Trái đất và một số
cho các dự án phát triển cộng đồng địa phương.
chương trình khác nhằm bảo vệ và cải thiện môi trường.
106
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 11, Số 1, 2022, 100-108
Hệ thống đánh giá QUIDAMTUR đưa ra các nhận TNXH của các tổ chức này. Về đối tượng áp
tiêu chí đánh giá về các tác động của công ty đối với
nền kinh tế địa phương. Hệ thống đánh giá tình trạng
hợp pháp của các doanh nghiệp, các hoạt động điều
hành kinh doanh, quản lý nguồn nhân lực. Hệ thống
chú trọng đến việc doanh nghiệp thực hiện phân chia
lợi ích kinh tế công bằng đối với các bên tham gia
vào hoạt động kinh doanh và các lợi ích tạo ra cho
cộng đồng địa phương. Các doanh nghiệp tham khảo
các tiêu chí đánh giá trên để xem xét công tác thực
hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với kinh tế
địa phương và đưa ra các giải pháp cụ thể. Công ty lữ
hành nên ưu tiên sử dụng nguồn nhân lực địa phương,
các nhà cung cấp và sản phẩm địa phương trong quá
trình phục vụ khách du lịch. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp cần minh bạch về tài chính và phân chia lợi
ích cho các bên liên quan.
dụng, hệ thống AITR, ATES và Responsibletravel.
com đánh giá chương trình du lịch trọn gói, cách thức
tổ chức du lịch, các dự án du lịch, chính sách hoạt
động của công ty lữ hành trong khi các hệ thống còn
lại chủ yếu là đánh giá trách nhiệm của doanh nghiệp
đối với nội bộ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
Mục tiêu, đối tượng đánh giá khác nhau nên các hệ
thống khác nhau về các tiêu chí đánh giá và cách thức
kiểm tra đánh giá. Hệ thống KATE, ATT và Travelife
được kiểm tra và giám sát bởi bên thứ ba nhưng các
hệ thống còn lại thì hầu như tự đánh giá hoặc đánh
giá thông qua ý kiến của khách du lịch.
Nghiên cứu tập trung giới thiệu hệ thống
QUIDAMTUR vì hệ thống này dựa trên quan điểm
TNXH với các khía cạnh về kinh tế, môi trường và xã
hội tuy nhiên hệ thống đánh giá QUIDAMTUR đã bổ
sung thêm khía cạnh trách nhiệm với văn hóa thay vì
lồng ghép vào trách nhiệm với xã hội như quan điểm
về TNXH. Nhìn chung, hệ thống đánh giá tác động
của công ty đối với nền kinh tế địa phương; ý thức
bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, các hành động
mà doanh nghiệp thực hiện nhằm bảo vệ và cải thiện
môi trường; tác động của hoạt động du lịch đối với
văn hóa của cộng đồng địa phương. Nếu tiếp cận về
góc độ các đối tượng được đánh giá trong hệ thống
thì QUIDAMTUR gồm những chỉ tiêu đánh giá trách
nhiệm của doanh nghiệp đối với khách du lịch, các
đối tác cung cấp dịch vụ, cộng đồng địa phương và
nhân viên của doanh nghiệp.
Đối với khía cạnh về văn hóa, hệ thống gồm
những tiêu chí đánh giá cụ thể về tác động của hoạt
động du lịch đối với văn hóa của cộng đồng địa
phương, các hoạt động nâng cao nhận thức, tăng
cường hành động tôn trọng và phát huy văn hóa địa
phương. Với những tiêu chí cụ thể trên, các công ty
lữ hành dễ dàng áp dụng để đánh giá mức độ thực
hiện trách nhiệm của doang nghiệp đối với văn
hóa địa phương. Từ đó, công ty lữ hành có cơ sở
đề xuất các giải pháp gắn với tình hình thực tế của
doanh nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm giữ gìn
và phát triển văn hóa địa phương trong hoạt động
kinh doanh du lịch.
4. Kết luận
Hệ thống đánh giá QUIDAMTUR có ưu điểm là
hệ thống đánh giá một cách toàn diện thông qua các
tác động của doanh nghiệp đối kinh tế, môi trường,
văn hóa và xã hội. Hơn nữa, các chỉ tiêu hệ thống cho
thấy sự đánh giá TNXH của doanh nghiệp được thực
hiện đối với khách du lịch, cộng đồng địa phương,
các đối tác cung cấp dịch vụ du lịch và quản lý nội bộ
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống hạn chế bởi
sự đánh giá của một đối tượng khảo sát duy nhất là
khách du lịch. Hệ thống đánh giá sẽ khách quan hơn
nếu được tiếp cận từ góc độ đánh giá của các bên liên
quan gồm khách du lịch, các đối tác cung cấp dịch
vụ, cộng đồng địa phương và nhân viên của doanh
nghiệp. Vì vậy các công ty lữ hành có thể tham khảo
các tiêu chí đánh giá của hệ thống QUIDAMTUR
và tiến hành khảo sát ý kiến đánh giá của các bên
liên quan để đảm bảo tính khách quan và chính xác
Bài viết đã trình bày các quan điểm về TNXH,
trong đó nhấn mạnh đến TNXH được thực hiện dựa
trên ba khía cạnh gồm trách nhiệm của doanh nghiệp
đối với kinh tế, trách nhiệm đối với môi trường và
trách nhiệm với xã hội. Một số hệ thống đánh giá
TNXH ở Châu Âu đã được trình bày, hệ thống đánh
giá của ATES, ATT và Responsibletravel.com có
mối liên hệ với hệ thống đánh giá AITR vì họ chia sẻ
mục tiêu để xác định và nhận diện các chương trình
du lịch tập trung vào công ty TNXH. Ngược lại, hệ
thống QUIDAMTUR, Travelife, KATE và TOI-GRI
đánh giá dựa trên quy trình bên trong doanh nghiệp và
chuỗi cung ứng tuy nhiên họ quên mất việc nâng cao
nhận thức cho khách du lịch. Hệ thống ATES, ATT và
Responsibletravel.com có cách tiếp cận chứng nhận
nên ngoài các mục tiêu đánh giá thực hiện TNXH của
doanh nghiệp như mọi hệ thống thì còn có mục tiêu
hướng đến lợi ích của các thành viên tham gia chứng trong đánh giá.
107
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn
Tài liệu tham khảo
Journal of Hospitality Management, 26(1),
228-239.
Bien A. (2008). A Simple User’s Guide to Certification
for Sustainable Tourism and Ecotourism.
Handbook: The center for Ecotourism and
Sustainable Development.
Bobbin, J. (2012). Introduction to responsible
tourism reporting - The development of a
transparent verifiable reporting system suitable
for small to medium sized enterprises to monitor
their responsible tourism good practices.
International Centre for Responsible Tourism,
Occassional Paper OP 23.
Hương, L. T. và Minh, Đ. A. (2018). Ảnh hưởng của
TNXH đến sự hài lòng của khách hàng tại các
doanh nghiệp thủy lợi tỉnh Vĩnh Phúc. Tạp chí
Khoa học & Công nghệ, 201. Truy cập từ https://
dlib.haui.edu.vn/home/handle/123456789/487
Inoue, Y., & Lee, S. (2011). Effects of different
dimensions of corporate social responsibility
on corporate financial performance in tourism-
related industries. Tourism Management 32,
790-804.
Jenkins, H. (2006). Small business champions for
corporate social responsibility. Journal of
Business Ethics (67), 241-256.
Carroll, A. B. (1999). Corporate social responsibility.
Evolution of a efinitional construct. Business &
Society, 38(3), 268-295.
Kalisch, A. (2002). Corporate Features: Social
Responsibility in the Tourism Industry. London:
Tourism Concern.
Manente, M., Minghetti, V. & Mingotto, E. (2014),
Responsible tourism and CSR, Spinger.
My, T. T. (2020). Nâng cao TNXH của doanh nghiệp
Việt Nam nhằm mục tiêu phát triển bền vững.
Tạp chí Công thương, Trường Đại học thương
Mại, Số 9, Tháng 5/2020(9), 166-171.
Porter & Kramer. (2006). The link between
competitive advantage & corporate social
responsibility. Strategy and Society, HBR
Spotlight, 1-16.
Sheehy, B. (2015). Defining CSR: Problems and
Solutions. J Bus Ethics (131), 625-648.
Tamajón, L. G. and Aulet, X. (2013). Corporate social
responsibility in tourism small and medium
enterprises evidencefrom Europe and Latin
America. Tourism Management Perspectives,
7, 38-46.
Coles, T., Fenclova, E., & Dinan , C. (2013).
Tourism and corporate social responsibility: A
critical review and research agenda. Tourism
Management Perspectives, 6, 122-141.
Coles. T, Fenclova. E, & Dinan. C (2013). Tourism and
corporate social responsibility: A critical review
and research agenda. Tourism Management
Perspectives, 6, 122-141.
Dodds & Joppe. (2005). CSR in the tourism industry?
The status of and potential for certification,
codes of conduct and guidelines (English).
Washington, D.C.: World Bank Group. Truy
en/925881468174891001/CSR-in-the-tourism-
industry-The-status-of-and-potential-for-
certification-codes-of-conduct-and-guidelines
Eraqi M. I. (2010). Social responsibility
as an innovative approach for enhancing
competitiveness of tourism business sector in
Egypt. Tourism Analysis, 15(1):45-55
Vázquez-Carrasco, R. & López-Pérez, M. E.
(2012). Small & medium-sized enterprises and
Corporate Social Responsibility: A systematic
review of the literature. Springer Science &
Business Media, 12, 3205-3218.
Viện, H. A. (2018). TNXH của doanh nghiệp, tài
sản thương hiệu và kết quả kinh doanh dựa trên
cảm nhận của nhân viên công ty du lịch trong
bối cảnh hội nhập TPP. Tạp chí khoa học Đại
học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 13(3), 61-79.
DOI:10.46223/HCMCOUJS.
Font, X., & Buckely, R. (2010). Tourism
Ecolabelling, Certification and Promotion of
Sustainable Management. Wallingford, UK:
Cabi International.
Fuchs, H. (2010). Responsible tourism. Development
and Cooperation, 37(7/8), 278-280.
Goodwin H. (2005). Responsible Tourism and the
Market. Greenwich: International Centre for
Responsible tourism Occasional. Paper No.4
Greer & Bruno. (1996). Greenwash: The Reality
behind Corporate Environmentalism. Business
& Economics.
Henderson. (2007). Corporate social responsibility and
tourism: Hotel companies in Phuket, Thailand,
after the Indian Ocean tsunami. International
Vo, Delchet-Cochet & Akeb. (2015). Motives behind
the integration of CSR into business strategy: A
comparative study in French SMEs. Journal of
Applied Business Research 31(5), 1975-1986.
108
Bạn đang xem tài liệu "Hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Trường hợp hệ thống quidamtur", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- he_thong_danh_gia_trach_nhiem_xa_hoi_cua_doanh_nghiep_truong.pdf