Hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Trường hợp hệ thống quidamtur

Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
HỆ THỐNG ĐÁNH GIÁ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI  
CỦA DOANH NGHIỆP: TRƯỜNG HỢP HỆ THỐNG QUIDAMTUR  
Nguyễn Thị Thanh Nga  
Trường Du Lịch - Đại học Huế  
Email: nttnga@hueuni.edu.vn  
Lịch sử bài báo  
Ngày nhận: 22/4/2021; Ngày nhận chỉnh sửa: 14/6/2021; Ngày duyệt đăng: 28/8/2021  
Tóm tắt  
Trách nhiệm xã hội đã được nghiên cứu rộng rãi trong thập kỷ qua, có rất nhiều tài liệu liên quan đến  
trách nhiệm xã hội ở các công ty lớn trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, nhưng vẫn thiếu thông tin về hệ  
thống báo cáo trách nhiệm xã hội trong ngành lữ hành. Hơn nữa, có rất ít nỗ lực để phát triển một mô hình  
giải quyết trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong các môi trường đa dạng với các bối cảnh thị trường  
và văn hóa xã hội khác nhau. Vì vậy, sau khi đã làm rõ các định nghĩa của trách nhiệm xã hội, mô hình trách  
nhiệm xã hội của doanh nghiệp và hệ thống báo cáo trách nhiệm xã hội có sẵn tại Châu Âu, bài báo tập  
trung phân tích hệ thống báo cáo của QUIDAMTUR để đánh giá trách nhiệm của các công ty du lịch. Đây  
là hệ thống đánh giá được phát triển dựa trên khía cạnh kinh tế, môi trường, văn hóa và xã hội. Bài báo là  
tài liệu tham khảo cho các công ty lữ hành xây dựng hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.  
Từ khóa: Hệ thống đánh giá, QUIDAMTUR, trách nhiệm xã hội.  
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------  
CORPORATE SOCIAL RESPONSIBILITY REPORTING SYSTEMS:  
A CASE STUDY OF QUIDAMTUR  
Nguyen Thi Thanh Nga  
School of Hospitality & Tourism - Hue University  
Email: nttnga@hueuni.edu.vn  
Article history  
Received: 22/4/2021; Received in revised form: 14/6/2021; Accepted: 28/8/2021  
Abstract  
Corporate Social Responsibility (CSR) has been widely studied during the last decade and while a lot of  
current literature is related to CSR in big companies within the hospitality and tourism sector, there is little  
information regarding CSR reporting system in travel tourism. Moreover, little attempt has been made to  
develop a model accounting for corporate social responsibility in diverse environments with differing socio-  
cultural and market settings. Therefore, after having clarified the definitions of CSR and of CSR reporting  
systems available in Europe, the article concentrates on the analysis of QUIDAMTUR reporting systems for  
assessing the responsibility of tourism companies. It is a reporting system developed based on the dimensions  
of economy, environment, culture, and society. The study is a reference for Travel Agents Society and Tour  
operators to build up CSR reporting system.  
Keywwords: Corporate social responsibility, QUIDAMTUR, reporting system.  
Trích dẫn: Nguyễn Thị Thanh Nga. (2022). Hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Trường hợp hệ thống  
QUIDAMTUR. Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, 11(1), 100-108.  
100  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 11, Số 1, 2022, 100-108  
1. Đặt vấn đề  
phần làm tăng lòng tin của người tiêu dùng đối với  
doanh nghiệp. Tính bền vững là một trong những mối  
quan tâm chính của các doanh nghiệp và không thể  
đạt được nếu không chịu trách nhiệm về hành động  
của doanh nghiệp và những tác động gây ra đối với  
xã hội (Kalish, 2002). Các doanh nghiệp muốn phát  
triển bền vững phải luôn tuân thủ những chuẩn mực  
về bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường lao  
động, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi  
lao động, đào tạo và phát triển nhân viên, góp phần  
phát triển cộng đồng (Trần Thị Trà My, 2020).  
Thuật ngữ “trách nhiệm xã hội” (TNXH) đã  
được phát triển từ giữa những năm 1990 và trở thành  
khuôn khổ thiết yếu thay đổi thực tiễn kinh doanh  
(Manente và cs., 2014). Từ “xã hội” trong TNXH  
luôn mơ hồ và thiếu định hướng cụ thể về việc công ty  
chịu trách nhiệm mặc dù có nhiều định nghĩa và cách  
giải thích khác nhau về khái niệm này (Carroll, 1991).  
Có nhiều nghiên cứu học thuật đã được thực hiện và  
khái niệm TNXH nhận được rất nhiều sự chú ý gần  
đây trong thực tiễn kinh doanh (Vázquez-Carrasco  
và López-Pérez, 2012). Tuy nhiên, số lượng nghiên  
cứu còn hạn chế và tập trung chủ yếu vào TNXH của  
doanh nghiệp trong ba lĩnh vực chính - việc thực hiện  
TNXH, các mối quan hệ xã hội của TNXH và hành  
động có trách nhiệm hơn về mặt kinh tế (Coles và  
cs., 2013). Các nhà nghiên cứu nhận thấy khái niệm  
TNXH khá phức tạp, không rõ ràng và đang được  
nghiên cứu trong khi vẫn còn nhiều việc phải làm  
(Fuchs, 2010). Đồng thời, có rất nhiều cách tiếp cận  
đã được đề xuất trong nhiều năm. Đối với một số  
người, TNXH là một cách tiếp cận quản lý trong khi  
đối với những người khác, nó là một quá trình động.  
Điểm chung trong tất cả các phương pháp tiếp cận là  
xác định lợi ích và kỳ vọng của các bên liên quan và  
điều chỉnh hoạt động kinh doanh của công ty cho phù  
hợp với sự tôn trọng (Manente và cs., 2014).  
Lựa chọn các doanh nghiệp do danh tiếng về  
TNXH của họ đang trở thành sở thích của người tiêu  
dùng (Eraqi M. I., 2010). Tuy nhiên, doanh nghiệp  
chỉ lấy được lòng tin của khách hàng là chưa đủ mà  
phải duy trì được niềm tin đó. Tham gia vào TNXH  
là một cách để đạt được điều đó vì doanh nghiệp chịu  
trách nhiệm về những tác động mà họ gây ra cho cả  
xã hội và môi trường (Manente và cs., 2014). Một  
công ty có trách nhiệm với xã hội cân nhắc những tác  
động gây ra đối với môi trường địa phương và cộng  
đồng khi đưa ra quyết định, cân bằng lợi ích của tất  
cả các bên liên quan trong khi đảm bảo tối đa hóa lợi  
nhuận (Manente và cs., 2014).  
Nhiều doanh nghiệp tham gia đánh giá TNXH  
thông qua các tổ chức đánh giá, hệ thống đánh giá  
theo hướng cấp chứng chỉ thực hành TNXH của  
doanh nghiệp như hệ thống KATE, QUIDAMTUR,  
TOI-GRI, Travelife. Bài viết tập trung trình bày mô  
hình TNXH, các đặc điểm của hệ thống đánh giá,  
phân tích hệ thống đánh giá TNXH QUIDAMTUR,  
giúp cho các doanh nghiệp tham khảo đánh giá TNXH  
và nâng cao hiệu quả thực hiện TNXH của doanh  
nghiệp trên tất cả các khía cạnh kinh tế, môi trường,  
văn hóa và xã hội.  
Porter và Kramer (2006) giới thiệu “cách tiếp  
cận cấp phép hoạt động” để các công ty nhận ra các  
mối quan tâm xã hội quan trọng đối với các bên liên  
quan. Các công ty thường quan tâm đến danh tiếng  
nên điều quan trọng là làm hài lòng các bên liên  
quan. Như đã phát biểu bởi Porter và Kramer, "trong  
các công ty định hướng người tiêu dùng, nó thường  
dẫn đến các chiến dịch tiếp thị liên quan đến nguyên  
nhân nổi bật" (Porter và Kramer, 2006). Nhiều doanh  
nghiệp tin rằng TNXH cải thiện hình ảnh và củng cố  
thương hiệu của doanh nghiệp. Một số người nhận  
định TNXH giúp nâng cao giá trị cổ phiếu của họ  
(Porter và Kramer, 2006). Điều này cho thấy các công  
ty khác nhau nhận thức về mục đích của TNXH khác  
nhau nhưng mục đích cuối cùng của doanh nghiệp là  
tối đa hóa lợi nhuận.  
2. Tổng quan lý thuyết về TNXH  
2.1. Khái niệm TNXH  
TNXH của doanh nghiệp là chủ đề ngày càng  
được các học viên quan tâm mặc dù không phải là  
khái niệm mới (Henderson, 2007). Thuật ngữ TNXH  
được hiểu là “sự đóng góp tự nguyện của các công ty  
để cải thiện môi trường, xã hội và nền kinh tế, vì lý  
do vị tha hoặc để cải thiện vị thế cạnh tranh của họ”  
(Tamajón và Aulet, 2013).  
Nghiên cứu của Lê Thùy Hương và Đặng Anh  
Minh (2018) chỉ ra rằng, TNXH của doanh nghiệp làm  
tăng sự hài lòng của khách hàng; còn Kalish (2002)  
tuyên bố rằng TNXH của doanh nghiệp là cách phát  
triển doanh nghiệp có trách nhiệm và bền vững, góp  
TNXH đang được nghiên cứu liên tục và tầm  
quan trọng của TNXH được công nhận rộng rãi, các  
tiêu chuẩn TNXH ngày càng nhiều, nhưng định nghĩa  
101  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
chưa thật sự rõ ràng và được phân biệt như thế nào trong kim tự tháp TNXH đề cập đến bốn loại TNXH  
trong các doanh nghiệp khác nhau (Sheehy, 2015). gồm: kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện. Bốn loại  
Theo Sheehy (2015) những tiến bộ trong việc xác TNXH đại diện cho kim tự tháp TNXH và là “khuôn  
định TNXH còn rất hạn chế và TNXH chưa được phát khổ để hiểu bản chất phát triển của hoạt động kinh  
triển về ý nghĩa, nội dung và thực tiễn một cách chính tế, pháp lý, đạo đức và hoạt động từ thiện của công  
xác, tính dứt khoát của mối quan hệ với luật pháp và ty” (Carroll, 1991). Việc thực hiện TNXH của doanh  
sự rõ ràng của việc thiết kế và thực hiện quy định.  
nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô của  
công ty, phong cách quản lý, chiến lược của công ty,  
đặc điểm của ngành mà công ty hoạt động, nền kinh  
tế,... (Carroll, 1991).  
Định nghĩa hiện tại của TNXH rất phức tạp và  
điều này là do bối cảnh của các vấn đề mà nó giải  
quyết (Sheehy, 2015) như sinh thái, xã hội và kinh  
tế, cũng là những khái niệm rất phức tạp. TNXH của  
doanh nghiệp thường gắn liền với một số hoạt động  
tổ chức nhất định như phúc lợi xã hội, quyền việc  
làm, sự tham gia của các bên liên quan, đóng góp  
từ thiện, đạo đức lãnh đạo, quản lý chuỗi cung ứng  
có trách nhiệm, trách nhiệm với môi trường và hành  
động cộng đồng (Sheehy, 2015; Coles và cs., 2013).  
Những hành động đó không nhất thiết phải bị hạn  
chế và không phải tất cả chúng đều phải thực hiện  
khi tham gia vào TNXH.  
Từ thiện  
Đạo đức  
Pháp lý  
Kinh tế  
Theo định nghĩa TNXH của doanh nghiệp không  
chỉ đơn giản là thực hiện các nghĩa vụ pháp lý, mà còn  
là việc các công ty chịu trách nhiệm về hành động của  
mình và tự nguyện vượt qua các thách thức xã hội và  
môi trường (Fuchs, 2010). Tuyên bố tương tự cũng  
được đưa ra bởi Inoue và Lee (2011) rằng: “TNXH  
là các hoạt động của doanh nghiệp không được luật  
pháp yêu cầu, những hoạt động không chỉ liên quan  
đến lợi ích của doanh nghiệp mà còn hướng tới lợi  
ích xã hội”. Tuy nhiên, có một số điểm yếu của khái  
niệm đặt ra câu hỏi về tính minh bạch của TNXH.  
Sheehy (2015) đưa ra câu hỏi liệu TNXH “đơn giản  
là hình thức” (Greer và Bruno 1996) hay đó là một  
nỗ lực thực sự nhằm kiểm soát và giảm thiểu các tác  
động đối với môi trường và xã hội. Có những công  
ty coi TNXH là cách để củng cố hình ảnh và sử dụng  
cho mục đích thương mại trong khi hành động kinh  
doanh vẫn có thể gây hại cho xã hội.  
Hình 1. Mô hình kim tự tháp Carroll (1991)  
Trách nhiệm kinh tế: Lý do chính khiến các  
công ty tồn tại là để sản xuất hàng hóa, bán chúng và  
tạo ra lợi nhuận. Nếu một doanh nghiệp không tạo ra  
lợi nhuận, sẽ không thể trả lương cho nhân viên, hoàn  
vốn đầu tư cho cổ đông và không thể cung cấp sản  
phẩm cho khách hàng. Do đó, trách nhiệm đầu tiên  
và chính đáng của mọi công ty là duy trì hoạt động  
kinh doanh. Đây là nền tảng của kim tự tháp TNXH  
của Carroll mà tất cả những nhà nghiên cứu đều dựa  
vào đó (Carroll, 1991).  
Trách nhiệm pháp lý: Trách nhiệm pháp lý của  
các doanh nghiệp đòi hỏi các công ty phải tuân theo  
luật pháp (Carroll, 1991). Việc doanh nghiệp phớt lờ  
trách nhiệm pháp lý có thể đối mặt với truy tố pháp lý.  
Trách nhiệm đạo đức: Trách nhiệm đạo đức  
là những gì xã hội mong đợi từ doanh nghiệp ngoài  
những mong đợi về kinh tế và pháp lý (Carroll,  
1991), bao gồm các trách nhiệm mà pháp luật không  
thực thi. Tuy nhiên, trách nhiệm đạo đức được công  
chúng kỳ vọng vì các doanh nghiệp có nghĩa vụ trở  
thành công dân tốt và “làm điều đúng đắn” (Porter  
và Kramer, 2006).  
Như vậy, TNXH có thể được xem là những hành  
động tự nguyện của các doanh nghiệp trong việc thực  
hiện các nỗ lực giảm tải những tác động tiêu cực cũng  
như cải thiện các tác động của doanh nghiệp đến các  
khía cạnh kinh tế, môi trường, văn hóa và xã hội.  
2.2. Mô hình kim tự tháp TNXH  
Có một số phân loại về TNXH của doanh nghiệp  
được đưa ra bởi các nhà thực hành khác nhau. Carroll  
(1991) lần đầu tiên giới thiệu bốn cấp độ TNXH  
Trách nhiệm từ thiện: Trách nhiệm từ thiện  
là đỉnh của kim tự tháp vì nó không bắt buộc cũng  
như không được công chúng mong đợi. Hoạt động  
102  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 11, Số 1, 2022, 100-108  
từ thiện là nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân nghiệp phải đáp ứng. Việc tôn trọng nhân viên, cộng  
đồng địa phương và các bên liên quan khác đang trở  
nên cần thiết (Kalish, 2002).  
viên và cộng đồng địa phương. Làm từ thiện có thể  
đóng góp vào sự bền vững của một xã hội (Porter và  
Kramer, 2006). Trách nhiệm từ thiện liên quan đến  
sự đóng góp của doanh nghiệp bằng nguồn tài chính  
hoặc các cách thức khác nhau như đóng góp cho  
các tổ chức từ thiện, giáo dục, nghệ thuật... (Carroll,  
1991). Các hoạt động từ thiện thường được báo cáo  
là số tiền hoặc thời gian tình nguyện đã bỏ ra (Porter  
và Kramer, 2006).  
Các công ty có thể đảm bảo hiệu quả kinh tế dài  
hạn của mình bằng cách tránh các hành vi ngắn hạn,  
thường có hại về mặt xã hội và môi trường (Porter  
và Kramer, 2006). Do đó, phương pháp tiếp cận đựa  
trên cả ba khía cạnh kinh tế, môi trường và xã hội  
nên được tất cả các doanh nghiệp kết hợp (Coles và  
cs., 2013). Vo và cs. (2015) đã xem xét động cơ đằng  
sau việc tích hợp TNXH vào chiến lược kinh doanh.  
Nghiên cứu sử dụng phương pháp tiếp cận ba điểm  
mấu chốt để phân chia động cơ thành động cơ kinh  
tế, xã hội và môi trường để so sánh các doanh nghiệp  
vừa và nhỏ (DNVVN). Các động cơ kinh tế được  
coi là động lực quan trọng nhất của sự tham giá thực  
hiện TNXH. Tuy nhiên, theo Jenkins, các DNVVN  
tham gia vào TNXH chủ yếu vì các lý do xã hội và  
môi trường. Điều này có thể là do các công ty vừa và  
nhỏ lấy chủ sở hữu làm trung tâm hoặc vì TNXH chỉ  
là “điều đúng đắn cần làm” (Jenkins, 2006). Bỏ qua  
tầm quan trọng của từng loại động cơ, tất cả chúng  
đều quan trọng để khám phá, vì chúng tiết lộ thông  
tin khác, có thể giúp hiểu rõ hơn nhận thức của các  
DNVVN về TNXH và cách họ thực hiện nó.  
TNXH của doanh nghiệp đòi hỏi phải thực hiện  
tất cả bốn yếu tố của kim tự tháp TNXH gồm trách  
nhiệm kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện (Carroll,  
1991). Doanh nghiệp thực hiện TNXH không chỉ  
nhằm tối đa hóa lợi nhuận mà phải tuân thủ luật pháp,  
có đạo đức và tôn trọng các bên liên quan (Carroll,  
1991). Một số công ty cho rằng TNXH đơn giản là trở  
thành những công dân tốt trong cộng đồng (Carroll,  
1991). Hoàng Anh Viện (2018) đã sử dụng mô hình  
kim tự tháp của Carroll (1991) để tiến hành nghiên  
cứu “mối quan hệ tài sản thương hiệu, kết quả kinh  
doanh TNXH của doanh nghiệp du lịch Việt Nam”.  
Kết quả nghiên cứu cho thấy trách nhiệm kinh tế, pháp  
lý, đạo đức và từ thiện đều có tác động đến thương  
hiệu và kết quả kinh doanh. Mặc dù, bốn loại trách  
nhiệm đều có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp,  
việc thưc hiện TNXH của doanh nghiệp chưa đầy đủ  
hoặc không phù hợp với chiến lược, chính sách nội  
bộ và các hoạt động chính của công ty. Các công  
ty thường tập trung vào một hoạt động TNXH như  
trồng cây, quyên góp cho các tổ chức từ thiện hoặc  
các khoản tài trợ khác nhau cho địa phương. Những  
hoạt động đó là đáng tin cậy, nhưng chỉ có những sáng  
kiến như vậy không có nghĩa là công ty có TNXH  
thực sự (Manente và cs., 2014).  
3. Kết quả nghiên cứu  
3.1. Đặc điểm chính của hệ thống đánh giá  
TNXH của doanh nghiệp  
Hệ thống đánh giá trách nhiệm của doanh nghiệp  
có nhiều loại khác nhau như các giải thưởng và nhãn  
hiệu du lịch sinh thái, nhãn hiệu xanh. Theo Bien  
(2008) mặc dù các hệ thống đánh giá khác nhau,  
chúng vẫn có các thành phần tương tự gồm:  
- Sự tự nguyện tham gia của các doanh nghiệp.  
- Các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng.  
- Có đánh giá và kiểm định.  
2.3. Mô hình TNXH dựa trên 3 khía cạnh môi  
trường, kinh tế và xã hội  
- Công nhận và trao tặng logo du lịch có trách  
nhiệm cho các doanh nghiệp.  
TNXH của doanh nghiệp dựa trên khái niệm ba  
điểm mấu chốt, đo lường lợi nhuận và thua lỗ về kinh  
tế, môi trường và xã hội. Điều này có nghĩa là thay  
vì chỉ chịu trách nhiệm về tối ưu hóa lợi nhuận, các  
công ty tham gia vào TNXH phải chịu trách nhiệm về  
các hành động của họ liên quan đến môi trường, xã  
hội và nền kinh tế. Trong quá khứ, điểm mấu chốt về  
tài chính là cách tiếp cận duy nhất của các công ty vì  
mối quan tâm chính là tối đa hóa lợi nhuận. Ngày nay,  
chỉ có lợi nhuận thôi là chưa đủ vì các bên liên quan  
khác nhau có những kỳ vọng khác nhau mà doanh  
- Đánh giá định kỳ các doanh nghiệp .  
- Tiếp tục cải thiện TNXH của doanh nghiệp.  
- Tính minh bạch trong đánh giá.  
- Cơ chế tạo cơ hội cho các doanh nghiệp xác  
định rõ các tiêu chuẩn du lịch có trách nhiệm.  
Để đảm bảo sự công bằng và khách quan, hệ  
thống đánh giá phải tuân thủ các thành tố sau:  
- Không phân biệt đối xử: Hệ thống sẵn sàng  
103  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
đánh giá và công nhận cho các doanh nghiệp thỏa tác động đến môi trường, xã hội và không dựa vào kết  
quả đạt được của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc đánh  
giá dựa vào quy trình thực hiện phải đảm bảo đầy đủ  
các tài liệu về quá trình thực hiện có sự kiểm soát từ  
bên trong doanh nghiệp nhằm duy trì chất lượng của  
quy trình thực hiện.  
mãn các tiêu chuẩn đã đặt ra.  
- Miễn phí xét hồ sơ và không phụ thuộc vào  
quy mô của doanh nghiệp cũng như các thành viên  
trong nhóm và tổ chức khác.  
- Tiêu chuẩn đánh giá sẽ bao gồm các tiêu chí  
cụ thể.  
3.2. Hệ thống đánh giá TNXH  
Hệ thống báo cáo TNXH có thể được định nghĩa  
là “một hệ thống đánh giá, giúp kiểm tra và chứng  
nhận trách nhiệm chung của các công ty du lịch, đối  
với việc thực hành các nguyên tắc du lịch hoặc việc  
thực hiện TNXH” (Bien, 2008; Manente và cs., 2014).  
Nó có thể được coi là một công cụ đo lường nhằm đảm  
bảo rằng sản phẩm du lịch, hoặc hoạt động hoặc một  
quá trình hoạt động du lịch đáp ứng các tiêu chuẩn  
cụ thể. Trong những năm gần đây, do sự công nhận  
ngày càng tăng về TNXH và phát triển bền vững trong  
ngành du lịch, một số chương trình báo cáo TNXH,  
chẳng hạn như chứng nhận, cấp nhãn hay trao giải  
thưởng đã được khuyến khích và phát triển cho các  
doanh nghiệp đặc biệt là trong ngành du lịch (Dodds  
và Joppe , 2005; Goodwin, 2005; Font và Buckely,  
2010). Hiện tại ở Châu Âu sử dụng một số hệ thống  
đánh giá TNXH được trình bày ở Bảng 1.  
Hệ thống báo cáo TNXH đã được sử dụng cho  
các đại lý du lịch và công ty lữ hành có thể được phân  
chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất là hệ thống như  
AITR, ATES, TOI, AITO, cũng như Travelife. Các  
hệ thống báo cáo này được tạo ra bởi các nhà điều  
hành tour du lịch chuyên về TNXH hoặc tích cực tham  
gia vào các hoạt động có trách nhiệm. Nhóm thứ hai  
- Tổ chức kiểm định phải đánh giá công bằng  
và đưa ra quyết định dựa trên các tiêu chí rõ ràng.  
- Người đánh giá doanh nghiệp cần phải tách  
các bộ phận để xem có nên trao một phần hay toàn  
bộ chứng nhận.  
- Ban đánh giá nên thoát khỏi những áp lực về  
thương mại hoặc tài chính để không làm ảnh hưởng  
đến quyết định của ban đánh giá.  
- Hệ thống đánh giá nên trao tặng logo và kèm  
theo thời gian có hiệu lực đối với các doanh nghiệp  
và yêu cầu nộp hồ sơ đánh giá lại sau khi hết hạn.  
- Thiết lập các thủ tục về việc thay đổi và hiệu  
chỉnh lại các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá.  
Theo Bien (2008) thì hệ thống đánh giá có những  
khác biệt cơ bản về thủ tục, trình tự của hệ thống kiểm  
định/đánh giá, các tiêu chí tập trung đánh giá giữa  
các hệ thống khác nhau. (ví dụ như: tập trung đánh  
giá vào sản phẩm hay quá trình sản xuất hay là quy  
trình phục vụ). Đối với thủ tục kiểm định, giai đoạn  
đầu tiên là quá trình tự đánh giá của doanh nghiệp.  
Đến giai đoạn thứ hai, người tiêu dùng và hệ thống  
kiểm định mới tiến hành đánh giá. Giai đoạn ba thì  
dựa trên các tiêu chuẩn đã được xác định để đánh giá  
sự hài lòng về sản phẩm hoặc doanh nghiệp. Ngành là các hệ thống được phát triển bởi các công ty hoặc  
dịch vụ, du lịch thì cần đánh giá thêm về quy trình tổ chức tư vấn đề xuất các công cụ thúc đẩy trách  
nhiệm trong các doanh nghiệp du lịch, chẳng hạn như  
QUIDAMTUR, KATE và The Responsibletravel.  
com (Manente và cs., 2014)  
phục vụ. Theo Bobbin (2012), phần lớn các tiến trình  
kiểm định dường như dựa vào quy trình thực hiện và  
tập trung vào nhận thức của doanh nghiệp về những  
Bảng 1. Một số hệ thống đánh giá TNXH của doanh nghiệp  
Tên hệ thống đánh giá Tên tổ chức  
STT  
Nơi áp dụng  
1
2
3
4
5
6
Tiêu chuẩn du lịch có trách nhiệm  
Hệ thống ATES  
AITR  
Ý
ATES  
Pháp  
Chỉ số cho doanh nghiệp du lịch có trách nhiệm  
Chứng thực TNXH của doanh nghiệp  
Chương trình ATR  
QUIDAMTUR  
KATE  
Tây Ban Nha  
Đức  
ATT  
Pháp  
Tour Operator’s Sector Supplement  
TOI-GRI  
Châu Âu  
Công ty lữ hành trực tuyến  
(Responsibletravel.com)  
7
8
Hệ thống Responsibletravel.com  
Hệ thống Travelife Sustainability  
Anh  
Travelife  
Châu Âu  
104  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 11, Số 1, 2022, 100-108  
Nhóm nghiên cứu đã phân tích các hệ thống thống KATE, ATT và Travelife được kiểm tra và  
đánh giá TNXH của doanh nghiệp du lịch dựa trên: giám sát bởi bên thứ ba.  
mục tiêu; đối tượng áp dụng; số lượng các tiêu chí  
và chỉ tiêu đánh giá; cách thức kiểm tra đánh giá của  
các hệ thống.  
3.3. Hệ thống đánh giá TNXH QUIDAMTUR  
Trong các hệ thống được trình bày ở Bảng 1,  
bài viết tập trung vào phân tích phân tích hệ thống  
QUIDAMTUR được áp dụng ở Tây Ban Nha với  
những tiêu chí đánh giá cụ thể về TNXH của doanh  
nghiệp lữ hành. Đây là hệ thống được giới thiệu công  
khai và đánh giá TNXH của doanh nghiệp dựa trên các  
khía cạnh là kinh tế, môi trường, văn hóa và xã hội.  
Dựa vào mục tiêu của các hệ thống đánh giá,  
ATES, ATT và Responsibletravel.com có mối liên  
hệ với hệ thống đánh giá AITR với mục tiêu chung  
là xác định và nhận diện các chương trình du lịch  
tập trung vào công ty TNXH. Trong khi, hệ thống  
QUIDAMTUR, Travelife, KATE và TOI-GRI lại  
nhằm mục tiêu đánh giá TNXH của doanh nghiệp dựa  
trên quy trình bên trong doanh nghiệp và chuỗi cung  
ứng. Hệ thống ATES, ATT và Responsibletravel.com  
có cách tiếp cận chứng nhận nên một trong những mục  
tiêu của hệ thống là đảm bảo lợi ích của các thành viên.  
QUIDAMTUR là một công ty tư vấn có trụ sở tại  
Malaga, hợp tác với các cơ quan hành chính nhà nước,  
đại lý du lịch, cơ sở lưu trú, các nhà cung cấp dịch  
vụ du lịch và khách du lịch để đề xuất các giải pháp  
phát triển du lịch bền vững. Công ty tổ chức các khóa  
đào tạo và chương trình hành động để nâng cao nhận  
thức của các nhà khai thác du lịch và người tiêu dùng  
về TNXH và du lịch có trách nhiệm. QUIDAMTUR  
đã phát triển một hệ thống tích hợp để đánh giá tính  
bền vững của nguồn cung du lịch dọc theo chuỗi cung  
ứng của nhà điều hành chương trình du lịch trọn gói.  
Hệ thống đánh giá áp dụng cho cả các doanh nghiệp  
du lịch đơn lẻ tham gia vào việc cung cấp dịch vụ  
du lịch của công ty lữ hành như: cơ sở lưu trú; dịch  
vụ nhà hàng; đơn vị cung cấp dịch vụ vận chuyển;  
Hệ thống QUIDAMTUR, Travelife, KATE và  
TOI-GRI thường được áp dụng để đánh giá TNXH  
của công ty lữ hành thông qua đánh giá TNXH của  
doanh nghiệp trong quản lý nội bộ và trách nhiệm  
đối với các đối tác. Trong khi, các hệ thống như  
AITR, ATES và Responsibletravel.com thì đánh giá  
về chương trình du lịch trọn gói, cách thức tổ chức  
du lịch, các dự án du lịch, chính sách hoạt động của  
CTLH để đánh giá TNXH của doanh nghiệp lữ hành.  
Mỗi hệ thống đánh giá đều có những quan điểm đơn vị cung cấp dịch vụ vui chơi, giải trí và các hoạt  
điều đưa ra những nhóm nhân tố khác nhau khi đánh động khác. Hệ thống QUIDAMTUR xây dựng các  
giá TNXH của doanh nghiệp vì vậy số lượng và nội tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ trách nhiệm của  
dung các tiêu chí đánh giá của các hệ thống khác từng công ty lữ hành, hỗ trợ nhà điều hành chương  
nhau. Các hệ thống cũng có cách thức đánh giá khác trình du lịch đánh giá trách nhiệm của họ trong chuỗi  
nhau, các hệ thống như AITR, ATES, TOI-GRI, cung ứng. Các tiêu chí được xây dựng dưa trên mô  
Responsibletravel.com và QUIDAMTUR đánh giá hình đánh giá TNXH của doanh nghiệp đối với kinh  
thông qua khảo sát ý kiến của khách du lịch còn hệ tế, môi trường, văn hóa và xã hội.  
Bảng 2. Các tiêu chí đánh giá của Hệ thống đánh giá TNXH QUIDAMTUR  
Khía cạnh - Nhân viên làm việc tôn trọng và không phân biệt đối xử tại nơi làm việc  
xã hội  
- Doanh nghiệp cung cấp thông tin xã hội đến khách hàng và các cổ đông  
- Doanh nghiệp điều hành kinh doanh tôn trọng các nguyên tắc xã hội thông qua các ứng xử tôn  
trọng lẫn nhau.  
- Doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động xã hội  
- Doanh nghiệp xúc tiến phát triển các hoạt động xã hội cho cộng đồng địa phương  
- Doanh nghiệp lên án sự không công bằng  
- Doanh nghiệp xúc tiến sự hội nhập xã hội  
- Doanh nghiệp tuyên truyền về tác động xã hội của hoạt động kinh doanh  
- Doanh nghiệp tiếp cận với những hoạt động phát triển xã hội  
- Doanh nghiệp giới thiệu những hoạt động xã hội trong dự án  
Khía cạnh - Tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu các chất liệu như: thay thế được, không thay thế được, nước,  
môi trường năng lượng.  
- Sử dụng các chất liệu bền vững và có trách nhiệm với môi trường như: Thực vật, năng lượng tái  
tạo, chất liệu thay thế được  
105  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
- Doanh nghiệp cũng cấp thông tin về môi trường cho khách du lịch, cổ đông, nhà cung cấp và nhà  
phân phối  
- Doanh nghiệp điều hành kinh doanh tôn trọng môi trường  
- Doanh nghiêp đầu tư cho các hoạt động bảo vệ môi trường  
- Doanh nghiệp xúc tiến các hoạt động phát triển môi trường đến cộng đồng địa phương  
- Doanh nghiệp xúc tiến sự hội nhập môi trường  
- Các nghiên cứu về khả năng vận chuyển giảm thiểu chất thải gây ô nhiễm không khí  
- Doanh nghiệp miêu tả các tác động đến môi trường do các hoạt động gây ra  
- Doanh nghiệp giới thiệu môi trường trong dự án  
Khía cạnh - Tình trạng hợp pháp của các doanh nghiệp (nguồn vốn, thực thể pháp lý)  
kinh tế  
- Mức độ khả thi về kinh tế (doanh số, liên tục)  
- Quản lý nguồn nhân lực (tập huấn, động lực, thù lao, tuyển chọn, kế hoạch dự phòng)  
- Chất lượng dịch vụ (cở sở hạ tầng, trang thiết bị, bảo trì, sự an toàn, sự thoải mái, sự sạch sẽ)  
- Sử dụng các sản phẩm địa phương  
- Doanh nghiệp thông qua sự công bằng và cư xử thật thà với cổ đông và khách du lịch  
- Doanh nghiệp đầu tư cho chương trình bảo vệ môi trường  
- Doanh nghiệp chuẩn bị mạng lưới kinh doanh cho phát triển địa phương  
- Doanh nghiệp mô tả về các tác động đến kinh tế mà hoạt động kinh doanh tạo ra  
- Đánh giá các hoạt động phát triển kinh tế  
- Có kế hoạch phát triển kinh tế ngắn hạn, trung hạn và dài hạn  
Khía cạnh - Doanh nghiệp tôn trọng văn hóa địa phương (ẩm thực, sự kiện, ngôn ngữ, dân số, nghi thức, truyền  
văn hóa  
thuyết, âm nhạc, lịch sử,…)  
- Doanh nghiệp sử dụng các yếu tố tôn trọng văn hóa bản địa như: kiến trúc, sản phẩm thủ công mỹ  
nghệ, nghệ thuật  
- Doanh nghiệp cung cấp thông tin văn hóa đến khách du lịch, cổ đông, nhà cung cấp, nhà phân phối  
- Doanh nghiệp điều hành kinh doanh dựa trên sự tôn trọng văn hóa bản địa  
- Doanh nghiệp đầu tư để thúc đẩy văn hóa địa phương phát triển  
- Doanh nghiệp lên án sự không công bằng  
- Doanh nghiệp hành động ủng hộ văn hóa hội nhập  
- Doanh nghiệp miêu tả các tác động đến văn hóa  
- Doanh nghiệp đánh giá các hoạt động phát triển văn hóa  
- Doanh nghiệp giới thiệu kế hoạch phát triển văn hóa  
Khía cạnh xã hội gồm các tiêu chí đánh giá mối  
Môi trường là một trong những khía cạnh dễ  
quan hệ giữa công ty và cộng đồng địa phương, tôn dàng được đánh giá thông quá các chỉ tiêu về sử dụng  
trọng các nguyên tắc xã hội và tiếp cận với những tiết kiệm tài nguyên nước, các nguồn năng lượng, sử  
hoạt động phát triển xã hội. Từ những tiêu chí đánh dụng các năng lượng tái tạo, thân thiện với môi trường.  
giá TNXH của doanh nghiệp đối với xã hội của hệ Hệ thống đánh giá QUIDAMTUR cung cấp các chỉ  
thống QUIDAMTUR, các công ty lữ hành có thể áp tiêu đánh giá về cả các hoạt động khác như cung cấp  
dụng đánh giá TNXH của công ty đối với xã hội và thông tin, tuyên truyền bảo vệ môi trường đối với  
đề xuất các giải pháp thực hiện tốt hơn TNXH của khách du lịch, nhân viên và các đối tác, các chỉ tiêu  
doanh nghiệp. Cụ thể, các công ty cần đánh giá các về đánh giá sự đầu tư và xúc tiến các hoạt động bảo  
tác động của hoạt động kinh doanh du lịch đối với xã vệ và cải thiện môi trường. Từ những tiêu chí của hệ  
hội và cộng đồng địa phương để có những điều chỉnh thống QUIDAMTUR, các công ty lữ hành tham khảo  
phù hợp, giảm các tác động tiêu cực và phát huy các để đánh giá các tác động của doanh nghiệp đối với  
tác động tích cực đối với xã hội. Các công tác đầu tư môi trường từ đó có những giải pháp phù hợp với tình  
và phát triển các hoạt động xã hội cần được kiểm tra, hình thực hiện TNXH của doanh nghiệp đối với môi  
đánh giá và rút kinh nghiệm. Để thực hiện tốt TNXH trường. Công ty lữ hành có thể tuyên truyền, nâng cao  
đối với xã hội, công ty lữ hành có thể tham gia ủng hộ nhận thức và hành động của khách du lịch trong quá  
các quỹ phát triển cộng đồng, phát động các chương trình tham quan du lịch, thực hiện các công tác hưởng  
trình hành động vì cộng đồng, hoặc tham gia tài trợ ứng ngày môi trường thế giới, Giờ Trái đất và một số  
cho các dự án phát triển cộng đồng địa phương.  
chương trình khác nhằm bảo vệ và cải thiện môi trường.  
106  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 11, Số 1, 2022, 100-108  
Hệ thống đánh giá QUIDAMTUR đưa ra các nhận TNXH của các tổ chức này. Về đối tượng áp  
tiêu chí đánh giá về các tác động của công ty đối với  
nền kinh tế địa phương. Hệ thống đánh giá tình trạng  
hợp pháp của các doanh nghiệp, các hoạt động điều  
hành kinh doanh, quản lý nguồn nhân lực. Hệ thống  
chú trọng đến việc doanh nghiệp thực hiện phân chia  
lợi ích kinh tế công bằng đối với các bên tham gia  
vào hoạt động kinh doanh và các lợi ích tạo ra cho  
cộng đồng địa phương. Các doanh nghiệp tham khảo  
các tiêu chí đánh giá trên để xem xét công tác thực  
hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với kinh tế  
địa phương và đưa ra các giải pháp cụ thể. Công ty lữ  
hành nên ưu tiên sử dụng nguồn nhân lực địa phương,  
các nhà cung cấp và sản phẩm địa phương trong quá  
trình phục vụ khách du lịch. Bên cạnh đó, các doanh  
nghiệp cần minh bạch về tài chính và phân chia lợi  
ích cho các bên liên quan.  
dụng, hệ thống AITR, ATES và Responsibletravel.  
com đánh giá chương trình du lịch trọn gói, cách thức  
tổ chức du lịch, các dự án du lịch, chính sách hoạt  
động của công ty lữ hành trong khi các hệ thống còn  
lại chủ yếu là đánh giá trách nhiệm của doanh nghiệp  
đối với nội bộ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.  
Mục tiêu, đối tượng đánh giá khác nhau nên các hệ  
thống khác nhau về các tiêu chí đánh giá và cách thức  
kiểm tra đánh giá. Hệ thống KATE, ATT và Travelife  
được kiểm tra và giám sát bởi bên thứ ba nhưng các  
hệ thống còn lại thì hầu như tự đánh giá hoặc đánh  
giá thông qua ý kiến của khách du lịch.  
Nghiên cứu tập trung giới thiệu hệ thống  
QUIDAMTUR vì hệ thống này dựa trên quan điểm  
TNXH với các khía cạnh về kinh tế, môi trường và xã  
hội tuy nhiên hệ thống đánh giá QUIDAMTUR đã bổ  
sung thêm khía cạnh trách nhiệm với văn hóa thay vì  
lồng ghép vào trách nhiệm với xã hội như quan điểm  
về TNXH. Nhìn chung, hệ thống đánh giá tác động  
của công ty đối với nền kinh tế địa phương; ý thức  
bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, các hành động  
mà doanh nghiệp thực hiện nhằm bảo vệ và cải thiện  
môi trường; tác động của hoạt động du lịch đối với  
văn hóa của cộng đồng địa phương. Nếu tiếp cận về  
góc độ các đối tượng được đánh giá trong hệ thống  
thì QUIDAMTUR gồm những chỉ tiêu đánh giá trách  
nhiệm của doanh nghiệp đối với khách du lịch, các  
đối tác cung cấp dịch vụ, cộng đồng địa phương và  
nhân viên của doanh nghiệp.  
Đối với khía cạnh về văn hóa, hệ thống gồm  
những tiêu chí đánh giá cụ thể về tác động của hoạt  
động du lịch đối với văn hóa của cộng đồng địa  
phương, các hoạt động nâng cao nhận thức, tăng  
cường hành động tôn trọng và phát huy văn hóa địa  
phương. Với những tiêu chí cụ thể trên, các công ty  
lữ hành dễ dàng áp dụng để đánh giá mức độ thực  
hiện trách nhiệm của doang nghiệp đối với văn  
hóa địa phương. Từ đó, công ty lữ hành có cơ sở  
đề xuất các giải pháp gắn với tình hình thực tế của  
doanh nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm giữ gìn  
và phát triển văn hóa địa phương trong hoạt động  
kinh doanh du lịch.  
4. Kết luận  
Hệ thống đánh giá QUIDAMTUR có ưu điểm là  
hệ thống đánh giá một cách toàn diện thông qua các  
tác động của doanh nghiệp đối kinh tế, môi trường,  
văn hóa và xã hội. Hơn nữa, các chỉ tiêu hệ thống cho  
thấy sự đánh giá TNXH của doanh nghiệp được thực  
hiện đối với khách du lịch, cộng đồng địa phương,  
các đối tác cung cấp dịch vụ du lịch và quản lý nội bộ  
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống hạn chế bởi  
sự đánh giá của một đối tượng khảo sát duy nhất là  
khách du lịch. Hệ thống đánh giá sẽ khách quan hơn  
nếu được tiếp cận từ góc độ đánh giá của các bên liên  
quan gồm khách du lịch, các đối tác cung cấp dịch  
vụ, cộng đồng địa phương và nhân viên của doanh  
nghiệp. Vì vậy các công ty lữ hành có thể tham khảo  
các tiêu chí đánh giá của hệ thống QUIDAMTUR  
và tiến hành khảo sát ý kiến đánh giá của các bên  
liên quan để đảm bảo tính khách quan và chính xác  
Bài viết đã trình bày các quan điểm về TNXH,  
trong đó nhấn mạnh đến TNXH được thực hiện dựa  
trên ba khía cạnh gồm trách nhiệm của doanh nghiệp  
đối với kinh tế, trách nhiệm đối với môi trường và  
trách nhiệm với xã hội. Một số hệ thống đánh giá  
TNXH ở Châu Âu đã được trình bày, hệ thống đánh  
giá của ATES, ATT và Responsibletravel.com có  
mối liên hệ với hệ thống đánh giá AITR vì họ chia sẻ  
mục tiêu để xác định và nhận diện các chương trình  
du lịch tập trung vào công ty TNXH. Ngược lại, hệ  
thống QUIDAMTUR, Travelife, KATE và TOI-GRI  
đánh giá dựa trên quy trình bên trong doanh nghiệp và  
chuỗi cung ứng tuy nhiên họ quên mất việc nâng cao  
nhận thức cho khách du lịch. Hệ thống ATES, ATT và  
Responsibletravel.com có cách tiếp cận chứng nhận  
nên ngoài các mục tiêu đánh giá thực hiện TNXH của  
doanh nghiệp như mọi hệ thống thì còn có mục tiêu  
hướng đến lợi ích của các thành viên tham gia chứng trong đánh giá.  
107  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
Tài liệu tham khảo  
Journal of Hospitality Management, 26(1),  
228-239.  
Bien A. (2008). A Simple User’s Guide to Certification  
for Sustainable Tourism and Ecotourism.  
Handbook: The center for Ecotourism and  
Sustainable Development.  
Bobbin, J. (2012). Introduction to responsible  
tourism reporting - The development of a  
transparent verifiable reporting system suitable  
for small to medium sized enterprises to monitor  
their responsible tourism good practices.  
International Centre for Responsible Tourism,  
Occassional Paper OP 23.  
Hương, L. T. và Minh, Đ. A. (2018). Ảnh hưởng của  
TNXH đến sự hài lòng của khách hàng tại các  
doanh nghiệp thủy lợi tỉnh Vĩnh Phúc. Tạp chí  
Khoa học & Công nghệ, 201. Truy cập từ https://  
dlib.haui.edu.vn/home/handle/123456789/487  
Inoue, Y., & Lee, S. (2011). Effects of different  
dimensions of corporate social responsibility  
on corporate financial performance in tourism-  
related industries. Tourism Management 32,  
790-804.  
Jenkins, H. (2006). Small business champions for  
corporate social responsibility. Journal of  
Business Ethics (67), 241-256.  
Carroll, A. B. (1999). Corporate social responsibility.  
Evolution of a efinitional construct. Business &  
Society, 38(3), 268-295.  
Kalisch, A. (2002). Corporate Features: Social  
Responsibility in the Tourism Industry. London:  
Tourism Concern.  
Manente, M., Minghetti, V. & Mingotto, E. (2014),  
Responsible tourism and CSR, Spinger.  
My, T. T. (2020). Nâng cao TNXH của doanh nghiệp  
Việt Nam nhằm mục tiêu phát triển bền vững.  
Tạp chí Công thương, Trường Đại học thương  
Mại, Số 9, Tháng 5/2020(9), 166-171.  
Porter & Kramer. (2006). The link between  
competitive advantage & corporate social  
responsibility. Strategy and Society, HBR  
Spotlight, 1-16.  
Sheehy, B. (2015). Defining CSR: Problems and  
Solutions. J Bus Ethics (131), 625-648.  
Tamajón, L. G. and Aulet, X. (2013). Corporate social  
responsibility in tourism small and medium  
enterprises evidencefrom Europe and Latin  
America. Tourism Management Perspectives,  
7, 38-46.  
Coles, T., Fenclova, E., & Dinan , C. (2013).  
Tourism and corporate social responsibility: A  
critical review and research agenda. Tourism  
Management Perspectives, 6, 122-141.  
Coles. T, Fenclova. E, & Dinan. C (2013). Tourism and  
corporate social responsibility: A critical review  
and research agenda. Tourism Management  
Perspectives, 6, 122-141.  
Dodds & Joppe. (2005). CSR in the tourism industry?  
The status of and potential for certification,  
codes of conduct and guidelines (English).  
Washington, D.C.: World Bank Group. Truy  
en/925881468174891001/CSR-in-the-tourism-  
industry-The-status-of-and-potential-for-  
certification-codes-of-conduct-and-guidelines  
Eraqi M. I. (2010). Social responsibility  
as an innovative approach for enhancing  
competitiveness of tourism business sector in  
Egypt. Tourism Analysis, 15(1):45-55  
Vázquez-Carrasco, R. & López-Pérez, M. E.  
(2012). Small & medium-sized enterprises and  
Corporate Social Responsibility: A systematic  
review of the literature. Springer Science &  
Business Media, 12, 3205-3218.  
Viện, H. A. (2018). TNXH của doanh nghiệp, tài  
sản thương hiệu và kết quả kinh doanh dựa trên  
cảm nhận của nhân viên công ty du lịch trong  
bối cảnh hội nhập TPP. Tạp chí khoa học Đại  
học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 13(3), 61-79.  
DOI:10.46223/HCMCOUJS.  
Font, X., & Buckely, R. (2010). Tourism  
Ecolabelling, Certification and Promotion of  
Sustainable Management. Wallingford, UK:  
Cabi International.  
Fuchs, H. (2010). Responsible tourism. Development  
and Cooperation, 37(7/8), 278-280.  
Goodwin H. (2005). Responsible Tourism and the  
Market. Greenwich: International Centre for  
Responsible tourism Occasional. Paper No.4  
Greer & Bruno. (1996). Greenwash: The Reality  
behind Corporate Environmentalism. Business  
& Economics.  
Henderson. (2007). Corporate social responsibility and  
tourism: Hotel companies in Phuket, Thailand,  
after the Indian Ocean tsunami. International  
Vo, Delchet-Cochet & Akeb. (2015). Motives behind  
the integration of CSR into business strategy: A  
comparative study in French SMEs. Journal of  
Applied Business Research 31(5), 1975-1986.  
108  
pdf 9 trang baolam 16/05/2022 3300
Bạn đang xem tài liệu "Hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Trường hợp hệ thống quidamtur", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhe_thong_danh_gia_trach_nhiem_xa_hoi_cua_doanh_nghiep_truong.pdf