Khai sinh chữ Quốc Ngữ (Từ 1620 đến 1659)
Nghiên cứu - Trao đổi
KHAI SINH CHỮ QUỐC NGỮ
(từ 1620 đếN 1659)
?ĐINH TRọNG TUYÊN* - ĐINH Bá TRUYỀN**
1. Francisco de Pina hay là buổi bình minh của
chữ Quốc ngữ
Sử dụng các mẫu tự Latinh để ký âm tiếng Việt với
mục đích truyền đạo Công giáo vào xứ Đàng Trong
ở tiền bán thế kỷ XVII, các giáo sĩ Dòng Tên không
bao giờ ngờ rằng họ đã để lại một món quà vô giá
cho dân tộc Việt Nam, đó là chữ Quốc ngữ. Ngày nay,
chẳng ai hoài nghi về sự tiện ích tuyệt đối của chữ
Quốc ngữ đối với nền quốc học và sự nghiệp phát
triển văn hóa nước nhà, nhưng mấy ai biết chữ Quốc
ngữ đã được khai sinh bởi một giáo sĩ người Bồ Đào
Nha, tên là Francisco de Pina, tại một làng quê dân dã
ở tỉnh Quảng Nam, đó là làng Thanh Chiêm.
Vào đầu thế kỷ XVII, một Giáo đoàn Kitô gồm hơn
20 giáo sĩ Dòng Tên, đó là các linh mục và thầy giảng
người Bồ Đào Nha, Ý, Pháp mà trong đó đa phần là
người Bồ Đào Nha, được phái đến xứ Đàng Trong thay
vì Nhật Bản với mục đích truyền đạo Công giáo. Năm
1615, các giáo sĩ tiên phong trong Giáo đoàn đã đến
Đà Nẵng để tìm cách thiết lập cơ sở truyền đạo. Cho
đến năm 1623, đã có hai trú sở truyền đạo chính thức
được mở, một tại Hội An (Residentia Fayfó) và một tại
Nước Mặn (Residentia Nuœcman, Pulocambi) thuộc
Quy Nhơn, và hai năm sau (1625) thì lập trú sở truyền
đạo thứ ba tại dinh trấn Thanh Chiêm. Ban đầu, sứ
mệnh gieo đức tin Thiên Chúa diễn ra một cách khó
khăn do cách biệt ngôn ngữ, các giáo sĩ không thể
hiểu dân địa phương nói gì bởi ngôn ngữ ở đây là một
thứ“tiếng như âm nhạc, nghe như chim hót”. Vì thế, các
giáo sĩ đã sử dụng những mẫu tự Latinh để ký âm
tiếng Việt nhằm phục vụ cho việc học tập ngôn ngữ
bản địa và quan trọng hơn là có thể trực tiếp giảng
đạo mà không cần phiên dịch.
Nhà thờ Thiên Chúa giáo Anrê Phú Yên, (Thanh Chiêm 2, Điện
Phương, Điện Bàn, Quảng Nam) - Nơi linh mục Francisco de
Pina đặt nền tảng đầu tiên cho chữ Quốc ngữ.
Theo Roland Jacques (trong tác phẩm Portuguese
PioneersofVietnameseLinguisticsPriorto1650/L’oeuvre
de quelques pionniers Portugais dans le domaine de la
linguistique vietnamienne jusqu’en 1650, Bangkok:
Orchid Press, 2002), giáo sĩ Francisco de Pina là người
đầu tiên bắt tay vào thực hiện công trình Latinh hóa
tiếng Việt đầy khó khăn nhưng cũng không kém phần
vinh quang này. Cũng theo Roland Jacques thì giáo sĩ
Pina đã nhận xét tiếng Việt là một ngôn ngữ“có thanh
* Nhà nghiên cứu ở Quảng Nam.
** Nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ.
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
57
Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
Việt với một tinh thần hăng say đáng ngưỡng mộ và
nhờ thế, chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã có thể
trực tiếp đàm thoại với người bản địa. Giáo sĩ Gaspar
Luis đã chứng nhận điều đó: “Linh mục De Pina đến
Đàng Trong năm 1617. Đó là giáo sĩ đầu tiên đã miệt mài
nghiên cứu tiếng nói”. Thật vậy, khi giáo sĩ Alexandre
de Rhodes đến Thanh Chiêm vào cuối năm 1624 đã
thấy Pina giảng Kinh Thánh mà không cần phiên dịch.
Có thể nói, vào thời điểm đó, Pina là vị giáo sĩ đầu
tiên và duy nhất giảng đạo trực tiếp cho giáo dân bản
địa bằng tiếng mẹ đẻ của họ. Thời gian đầu Pina học
tiếng Việt tại Hội An và Nước Mặn, nhưng sau đó, vào
khoảng năm 1619, ông chuyển đến dinh trấn Thanh
Chiêm. “Vậy ông linh mục này muốn gì với Kẻ Chàm?”.
Đó là mong muốn học một ngôn ngữ thuần khiết và
tránh những ảnh hưởng xấu đến quá trình học tiếng
Việt có thể nảy sinh tại Hội An, vì nơi này đã có hiện
tượng lai tạp ngôn ngữ, bởi Phố Khách là nơi giao
thoa của các nền văn hóa Việt, Trung, Nhật, Bồ…
Hơn nữa, tại Hội An, người ta chỉ quan tâm đến việc
buôn bán, Pina khó có thể tiếp cận với giới trí thức
trẻ ở địa phương ngõ hầu tìm kiếm sự cộng tác trong
quá trình nghiên cứu và sáng tạo chữ Quốc ngữ, nên
Pina quyết định đến dinh trấn Thanh Chiêm. Ông đã
khẳng định điều đó: “Đối với con việc nghiên cứu tiếng
nói, Kẻ Chàm vẫn là nơi tốt nhất với tư cách là trung tâm
triều đình: ở đây người ta nói rất hay, có sự đổ dồn của
những người trẻ tuổi đến mà họ là những sĩ tử và bên
cạnh họ, những ai bắt đầu học tiếng có thể tìm thấy một
sự giúp đỡ”. Roland Jacques cũng hoàn toàn xác nhận
ý kiến này:“Thành phố này (Hội An) từ rất xa xưa là một
thủ đô kinh tế của Champa ngay từ thiên niên kỷ thứ
nhất. Ở thế kỷ XVII, nó vẫn là thành phố chợ quan trọng,
một trung tâm thương mại kép gồm hai đơn vị tách rời
nhau: một khu của người Nhật và một khu của người
Hoa. Mỗi khu được quản lý bởi một trưởng khu theo luật
quán ước riêng. Cư dân ở đây rất hỗn tạp, điều này giải
thích hiện tượng lai tạp ngôn ngữ. Francisco de Pina
nghĩ rằng nơi này không thể là nơi học tiếng Việt được”.
điệu như một bản xướng âm, cần phải biết xướng âm
trước đã. Chỉ sau đó mới học các chữ”.
Với niềm tin sâu sắc là di cảo của giáo sĩ Pina vẫn
còn được lưu giữ ở đâu đó trên thế giới, nhà ngôn
ngữ học người Pháp Roland Jacques vất vả hàng
chục năm ròng đi tìm. May mắn thay, cuối cùng
ông đã phát hiện ra hai tác phẩm chưa công bố của
Francisco de Pina, đó là bức thư viết dở bằng Bồ ngữ
dài 7 trang cho Đức Cha bề trên Jerómino Rodríguez
ở Ma Cao và tiểu luận dài 22 trang mang tựa đề
Manuductio ad Linguam Tunkinensem (Nhập môn
tiếng Đàng Ngoài) bằng La ngữ tại Thư viện Quốc
gia ở cung điện Ajuda - Lisbon, Bồ Đào Nha. Nhờ
hai tư liệu quý giá này mà trong luận văn tiến sĩ của
mình, L’oeuvre de quelques pionniers Portugais dans
le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’en
1650 (Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong
lĩnh vực Việt ngữ học trước 1650), Roland Jacques đã
chứng minh được với thế giới rằng giáo sĩ Francisco
de Pina mới chính là người đầu tiên sáng tạo ra
chữ Quốc ngữ chứ không phải là giáo sĩ Alexandre
de Rhodes như mọi người vẫn đang lầm tưởng.
Francisco de Pina sinh tại thành Guarda, thuộc
vùng Beira Alta, Bồ Đào Nha vào năm 1585 - 1586
(theo Roland Jacques) hoặc 1588 (theo Hồng Nhuệ
- Nguyễn Khắc Xuyên). Ông gia nhập vào Dòng Tên
vào khoảng năm 19 tuổi, sau đó đến xứ Goa (Ấn Độ)
sống ít lâu trước khi sang Trung Hoa. Năm 1611, tại
Học viện Thánh Phaolô, Ma Cao, ông theo học Khoa
học xã hội và tự nhiên, 4 năm về Thần học và cả tiếng
Nhật. Đến năm 1617, ông thụ phong linh mục và
được cử đến xứ Đàng Trong, làm việc tại trú sở Hội An.
Trở lại với quá trình khai sinh chữ Quốc ngữ, việc
La ngữ âm hóa tiếng bản địa không phải là sáng kiến
của Pina, bởi việc này đã được các giáo sĩ kiêm nhà
ngôn ngữ học thực hiện trước đó. Từ thế kỷ XVI, để
quảng bá Kitô giáo ra khắp thế giới một cách hữu
hiệu, những nhà truyền đạo đã được Giáo hội La Mã
khuyến khích sử dụng mẫu tự Latinh để ký âm hóa
ngôn ngữ tại địa phương nơi mà họ đang gieo Đức
tin Thiên Chúa. Theo Roland Jacques, đã có các công
trình La ngữ âm hóa tiếng Tamin (ở miền Nam, Ấn
Độ), tiếng Nhật, tiếng Trung Hoa, tiếng Tupi-guarani
(tiếng bản địa của Brazil) do các giáo sĩ người Bồ Đào
Nha và Ý thực hiện trước khi Pina sáng tạo ra chữ
Quốc ngữ.
Lập luận Pina chuyển lên ở hẳn Thanh Chiêm vào
năm 1619 là có cơ sở bởi theo lời tường trình của
giáo sĩ Cristoforo Borri thì nhờ vào những hiểu biết
về thiên văn và toán học mà Pina đã tính toán chính
xác là có nguyệt thực diễn ra tại Thanh Chiêm vào lúc
11 giờ đêm (23h) mồng 9.12.1620, điều này làm cho
thế tử Kỳ rất kính trọng Pina. Qua đấy, Pina đã thiết
lập mối quan hệ hết sức thân thiết với quan trấn thủ
dinh trấn Thanh Chiêm. Tuy không thể thuyết phục
thế tử Kỳ chịu làm lễ thánh tẩy, nhưng ông đã làm
Vừa đặt chân đến Hội An, Pina lao vào học tiếng
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
58
Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
do này, con không biết văn chương. Và đó là chỗ trống
vị thế tử này có cảm tình với đạo Công giáo và các
Kitô hữu. Trong bức thư viết dở vào đầu năm 1623, đáng tiếc. Về ngôn ngữ, con đã tự mày mò học hỏi với nỗ
Pina có báo cáo cho Cha bề trên Rodriguez:“Năm vừa lực của chính mình”.
qua, con đã viết để báo cáo với đức cha, thưa cha kính
mến, rằng con đã mua hai cái nhà của mẹ Jeanne ở Kẻ
Chàm. Mỗi nhà có ba gian, một nhà làm nơi ở, nhà kia
làm tiểu giáo đường”. Pina đã mua hai căn nhà đó vào
năm 1619, ta có thể khẳng định điều này qua câu viết
nhiệm trú sở truyền giáo Thanh Chiêm (Residentia
của Cristoforo Borri: “Năm 1619, một đại tăng, kẻ thù
Dinh Ciam), trú sở quan trọng nhất tại Đàng Trong vì
lớn của lòng tin thánh thiện của chúng ta thuyết phục
nó ở ngay cạnh dinh trấn Quảng Nam, triều đình thứ
nhà vua lưu đầy các cố đạo và phá hủy nhà thờ nhưng
hai của xứ này do thế tử Nguyễn Phúc Kỳ đứng đầu.
nhà thờ vẫn sừng sững ở Kẻ Chàm với tên gọi “nhà của
Không chỉ có hoạt động nghiên cứu và sáng tạo chữ
mẹ Jeanna”.
Nhờ quan hệ tốt với thế tử Kỳ ở dinh trấn Thanh
Chiêm, nên Pina đã lập một trú sở mới ở đây vào
khoảng cuối năm 1624, đầu năm 1625 và đến tháng 5
năm 1625, Pina chính thức trở thành Cha bề trên quản
Quốc ngữ, tại trú sở Thanh Chiêm, Pina vừa là thầy
Tại hai ngôi nhà này, Pina đã tuyển chọn một số
thanh niên Công giáo để phụ lễ, đào tạo họ thành
người thông dịch và chắc chắn những thanh niên này
đã cộng tác với ông trong vấn đề nghiên cứu và sáng
tạo chữ Quốc ngữ. Về sự cộng tác của người Việt Nam,
Roland Jacques cho biết: “Trong công việc của mình,
linh mục Pina nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu hiệu của một
văn nhân Việt Nam trẻ tuổi, có tên rửa tội là Phêrô, kiến
thức uyên bác về chữ Hán của người trẻ tuổi này hẳn là
rất hữu ích trong công việc của Pina”. Tại Thanh Chiêm,
Pina cùng với Phêrô, một thanh niên địa phương, đã
lần đầu tiên dịch Kinh Thánh sang chữ Quốc ngữ, sự
kiện này được biết qua một bản phúc trình chính thức
của Francisco Eugenio, tu sĩ Dòng Tên, người Ý ở Ma
Cao:“Người ấy (một nhân sĩ thân quen với đoàn truyền
giáo) có một người con trai mười sáu tuổi, là thanh niên
lanh lợi và thông minh nhất trong vùng Kẻ Chàm, anh
này lại viết chữ Hán rất đẹp, được dân chúng hâm mộ
vô cùng… Anh có tên thánh rửa tội là Phêrô, nhờ có tài
hay chữ nên giúp linh mục Pina rất nhiều trong việc dịch
kinh “Pater noster”, “Ave Maria”, “Credo” và Mười Điều
Răn ra tiếng địa phương, các kinh mà Kitô hữu đã thuộc
lòng. Linh mục Pina cũng viết ra các điều phải tin các
mầu nhiệm về Ba Ngôi, về Chúa nhập thể làm người, về
chuộc tội, cũng như sự cần thiết của đức tin và các bí
tích để được tham dự vào ơn tích của Chúa Kitô, Chúa
dạy tiếng Latinh cho các thầy giảng người Việt vừa là
giáo sư Việt ngữ cho hai giáo sĩ dưới quyền mới đến
hồi cuối năm 1624 là Antonio de Fontes và Alexandre
de Rhodes, người mà sau này được thực dân Pháp tôn
vinh, một cách có dụng ý, như là ông tổ của chữ Quốc
ngữ. Nói không ngoa, trú sở Thanh Chiêm là Học viện
Việt ngữ học đầu tiên trên thế giới, mà Pina có tư cách
là vị giám đốc khai lập và Alexandre de Rhodes là vị
giám đốc kế nhiệm.
Đối với công việc nghiên cứu tiếng Việt, Pina cho
biết: “Về phần con, con đã soạn xong một tiểu luận về
chính tả và các thanh điệu của ngôn ngữ này, và con
đang lao vào ngữ pháp. Tuy nhiên, dù con đã tập hợp
các truyện thuộc nhiều loại khác nhau để cung cấp các
trích dẫn của tác giả nhằm củng cố ngữ nghĩa của các
từ và các quy tắc của ngữ pháp, cho đến bây giờ con
phải nhờ ai đó đọc các từ đó cho con. Con phiên âm
theo chữ Bồ Đào Nha sao cho người của chúng ta có
thể đọc và học các từ đó thuộc lòng, như học Cicéron
và Virgile vậy. Vả lại con đã có ba tập, tập hợp các văn
bản có phân tích trong số các văn bản hay nhất ở vương
quốc này”. Như vậy, vào buổi bình minh của chữ Quốc
ngữ, việc La ngữ âm hóa tiếng Việt phải gọi là Bồ Đào
Nha ngữ âm hóa tiếng Việt mới đúng.
Theo Roland Jacques, cuốn ngữ pháp và ba tập,
chúng ta. Các Kitô hữu chép lại tất cả những điều ấy, và tập hợp các văn bản có phân tích trong số các văn
đã bắt đầu lần hạt mân côi y như tại xứ chúng ta”.
bản hay nhất ở xứ Đàng Trong của Pina đến nay vẫn
chưa được tìm thấy, hi vọng một ngày nào đó, hai tài
liệu quý hơn vàng này sẽ được phát hiện để chúng ta
có thể biết rõ hơn về chữ Quốc ngữ vào cái buổi bình
minh của nó và qua đó công lao của Pina có thể được
nhìn nhận đầy đủ và đúng đắn hơn.
Pina cũng có ý định học chữ Nho và chữ Nôm
(nhưng chưa thực hiện được) với một giáo viên bản
địa tầm cỡ như thầy giảng Augusto, người thông
ngôn của cha Buzomi hiện đang ở Pulo Cambi (Quy
Nhơn) khi viết: “Nếu con cũng có tiền trả công cho thầy
dạy con học ngôn ngữ và văn chương, thì ngày nay
con đã là người thợ đầy đủ phẩm chất. Chỉ vì chính lý
Xin nói thêm, mặc dù đã cố gắng chứng minh tiểu
luận Nhập môn tiếng Đàng Ngoài là của Pina, nhưng
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
59
Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
vì tài liệu này không có người ký tên ở dưới, thế nên tiếng Đàng Ngoài). Đây là một tiểu luận bằng La ngữ
cho đến nay Roland Jacques vẫn bị linh mục Hồng và Quốc ngữ dài 22 trang chép tay, có bố cục rõ ràng,
Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên hoài nghi về tính chính xác gồm ba chương: Về các thanh điệu; Về các con chữ và
bảng chữ cái; và Về các danh từ. Tài liệu được bổ sung
thêm các phần Đối thoại, Quán ngữ, Lăng mạ… Cũng
theo Roland Jacques, thì đây rõ là một tác phẩm đang
viết dở dang: “Toàn bộ gây cho ta ấn tượng mạnh là
công việc còn bỏ dở. Dường như tác giả lúc đầu muốn
soạn một tác phẩm đầy đủ, nhưng cuối cùng do thiếu
thời gian phải thu hẹp việc triển khai và kết thúc bằng
cách ghi lung tung trên giấy các nhận xét khác nhau”.
của nó (xem Công trình nghiên cứu tiếng Việt của một
người Thụy Sĩ ở Kẻ Chợ Đàng Ngoài, Onofre Borgès 1614
- 1664; Góp ý với Roland Jacques về công trình nghiên
cứu tiếng Việt của mấy người Bồ tiên phong cho tới
1650, in tại Paris, năm 1996).
Tác giả Hồng Nhuệ cho rằng chính giáo sĩ Onofre
Borgès (còn được chép với tên Onófrio hay Onuhpre)
mới là tác giả của cuốn Nhập môn tiếng Đàng Ngoài
chứ không phải Pina. Nhưng trong luận văn của
mình, Roland Jacques đã chứng minh Onofre Borgès
không phải là tác giả của tác phẩm Nhập môn tiếng
Đàng Ngoài: “Onofre Borgès, là tên mang âm sắc Bồ
Đào Nha, nhưng dưới cái tên này ẩn giấu tên nguồn
gốc hơi khác, có thể là Honufer (Onuphrius) Bỹrgin…
Ông sinh ở Lucerne vào năm 1614, năm 1630 ông vào
Dòng Tên miền thượng Đức. Có thể là, ông đã giảng dạy
trong các lớp tiểu chủng viện Innsbruck của Dòng Tên ở
Tyrol. Đi sang phương Đông năm 1638, đã kết thúc việc
nghiên cứu của mình ở Học viện Ma Cao. Rồi ông dạy
ngữ pháp có thể là trong ba năm. Tiếp đó, ông sang làm
việc ở Tonkin (Đàng Ngoài) từ 1645; bị trục xuất năm
1663, trên một con tàu của Hà Lan. Ông chết khi đến
Jakarta. Trong tài liệu lưu trữ của Dòng Tên, có bức thư
ngày 30.7.1654 cũng như 3 báo cáo thường niên về giáo
đoàn ở Tonkin: năm 1650, 1660 và 1661. Ông đã cộng
tác chuẩn bị một vài báo cáo khác. Các hoạt động ngôn
ngữ của ông không được ghi chép rõ ràng. Rõ nhất, là
việc ông viết vài văn bản tiếng Việt và chữ Nôm. Có thể,
là cùng một nguồn cảm hứng như các văn bản được
biết rõ là của Jésuite Majorica. Những năm cuối cùng
của ông, từ 1658 thật là vất vả. Phần lớn các nhà truyền
giáo bị trục xuất. Borgès đã được phép của chúa Trịnh
ở lại đất nước với một đồng sự duy nhất mới bước vào
nghề Joseph Tissanier để đảm trách việc thờ phụng của
toàn bộ các cộng đồng công giáo Thăng Long và Nghệ
An. Ông kiệt sức vì công việc. Toàn bộ công trình ngôn
ngữ vậy phải làm trước năm 1658. Rất có thể Tissianier
đã mang đến một bản từ điển của Rhodes vừa mới in,
nên nếu Borgès tiếp tục công việc về ngôn ngữ cũng
là thừa”. Về vấn đề ai là tác giả của cuốn Nhập môn
tiếng Đàng Ngoài, có lẽ Roland Jacques chính xác hơn
Hồng Nhuệ.
Trong tác phẩm này, phương pháp ký âm tiếngViệt
của Pina còn siêu hơn cả cách phiên âm của các giáo
sĩ Gaspar d'Amaral, António Barbosa và Alexandre de
Rhodes về sau, bởi nó rất giống với chữ Quốc ngữ bây
giờ một cách đáng ngạc nhiên và đáng khâm phục
(nếu so với cuốn Từ điển Việt - Bồ - La mà Alexandre de
Rhodes cho xuất bản vào năm 1651 thì phương pháp
ký âm của Pina có phần tân tiến hơn):
Kẻ có tài thì haọc → Kẻ có tài thì học.
Thàng nào lành thì dĕạy → Thằng nào lành thì dạy.
Đi đàng kia làm chi → Đi đằng kia làm chi.
Cha lo viẹc bay giờ → Cha lo việc bây giờ.
Hôm qua tôi mạc chép thư nói chảng được → Hôm
qua tôi mắc chép thư nói chẳng được.
Francisco de Pina không may qua đời trong một
tai nạn lật thuyền. Vào cuối năm 1625, có lẽ vì lý do
nào đó, mà tàu buôn Bồ Đào Nha ở Ma Cao không
đến Hội An như mọi năm, chỉ có tàu buôn từ Cao
Miên trở về, bỏ neo ở ngoài khơi Cửa Đại và nhắn cho
các giáo sĩ ở Hội An biết tin để ra tàu nhận hàng tiếp
tế của tòa Giám mục Ma Cao. Pina được cử ra tàu để
nhận hàng và đi trên một chiếc thuyền nhỏ, khi quay
vào bờ, chẳng may bị một cơn gió mạnh làm lật úp
thuyền, Pina vì vướng trong chiếc áo chùng dài nên
bị chết đuối giữa biển, đó là ngày 16.12.1625. Có thể
di hài Pina được an táng tại trú sở Thanh Chiêm, nay là
nhà thờ Phước Kiều. Sau đó, Vương quốc Bồ Đào Nha
đã tiến hành lễ quốc tang cho ông. Roland Jacques
cho rằng sau khi Pina mất đi, thì giáo sĩ Alexandre de
Rhodes đã mang công trình của thầy mình ra Đàng
Ngoài vào năm 1627, rồi trao cho giáo sĩ Gaspar
d'Amaral. Về sau, tài liệu này rơi vào tay Onofre
Borgès. Có lẽ, tiểu luận này được Borgès hiệu chỉnh
đôi chút và đặt tên cho nó là Manuductio ad Linguam
Tunkinensem (Nhập môn tiếng Đàng Ngoài).
Cuốn tiểu luận của Pina về chính tả và các thanh
điệu tiếng Việt, theo như Roland Jacques, được mang
tên Manuductio ad Linguam Tunkinensem (Nhập môn
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
60
Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
Sau Pina, các giáo sĩ Gaspar d'Amaral, António
Trong thời gian ở Đàng Ngoài, hai tài liệu viết tay
Barbosa, Girolarmo Majorica và Alexandre de Rhodes quý giá có liên quan đến chữ Quốc ngữ mà Gaspar
tiếp tục công việc nghiên cứu và hoàn thiện chữ d'Amaral để lại là bức thư bằng Bồ ngữ viết tại Kẻ Chợ
Quốc ngữ. Năm 1627, giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Thăng Long) đề ngày 31.12.1632, nhan đề Annua
chuyển ra một trú sở truyền giáo tại Cửa Bạng (nay là do reino de Annam do anno de 1632, pera o Pe André
Lạch Bạng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) và mang Palmeiro da Compa de Jesu, Visitador das Provincias de
theo tất cả công trình dở dang của Pina rồi trao lại Japan e China (Báo cáo thường niên về nước Annam
cho Gaspar d'Amaral và António Barbosa. Nhờ thế, năm 1632, gởi cha Dòng Tên André Palmeiro, giám sát
Gaspar d'Amaral đã hoàn thiện cuốn Từ điển Việt - Bồ các tỉnh ở Nhật và Trung Hoa), tài liệu này hiện lưu
và António Barbosa soạn xong cuốn Từ điển Bồ - Việt trữ tại Thư khố Dòng Tên ở La Mã. Và tài liệu thứ hai
vào khoảng năm 1635 - 1640.
là bức thư cũng bằng Bồ ngữ viết tại Kẻ Chợ (Thăng
Long) đề ngày 25.3.1637, với nhan đề Relaçam dos
catequistas da Christamđae de Tunkine seu modo
proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador de Jappão
de China (Tường trình về các thầy giảng của Giáo
đoàn Đàng Ngoài về các hoạt động của họ, gửi cho
cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa),
tài liệu này hiện giữ tại Thư khố Viện Hàn lâm Lịch sử
Hoàng gia Madrid. Trong cả hai tài liệu, mà rõ nhất là
tài liệu thứ hai, Amaral đã soạn cuốn Từ điển Việt - Bồ:
Diccionário amanita- português.
Giáo sĩ Gaspar d'Amaral sinh năm 1592 tại Bồ Đào
Nha, gia nhập Dòng Tên năm 1608. Ông đã làm giáo
sư La văn, triết học, thần học tại các chủng viện ở Bồ
Đào Nha. Năm 1923, ông rời Bồ Đào Nha đi Áo Môn
hoạt động truyền giáo và đến Đàng Ngoài vào tháng
10 năm 1629. Sau 7 năm ở Đàng Ngoài, tức vào năm
1638, ông được gọi về Áo Môn giữ chức Viện trưởng
Học viện Madre de Pina Deus. Ba năm sau, ông được
cử làm phó Giám tỉnh Dòng Tên Nhật Bản (gồm các
nước: Nhật, Xiêm, Việt Nam, Miên, Lào, đất Áo Môn và
hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây). Năm 1645, ông lại
Giáo sĩ António Barbosa, sinh năm 1954 tại Bồ
đáp tàu từ Áo Môn đi Đàng Ngoài truyền giáo, nhưng Đào Nha, gia nhập Dòng Tên năm 1624. Cuối tháng
tàu bị đắm ở gần đảo Hải Nam, ông chết đuối ngày 4.1636, ông đến truyền giáo ở Đàng Ngoài, nhưng
23.12.1645.
vì thiếu sức khỏe, nên phải trở về Áo Môn vào tháng
5.1642, rồi qua đời năm 1647 trên đường từ Áo Môn
về Goa để dưỡng bệnh. Ông là tác giả cuốn Từ điển
Bồ - Việt: Diccionário português - amanita. Về sau cả
hai cuốn Từ điển Việt - Bồ và Bồ - Việt đầu tiên của hai
giáo sĩ Amaral và Barbosa đều rơi vào tay Alexandre
de Rhodes.
Cũng vào khoảng thời gian đó, tại trú sở Nước
Mặn (Quy Nhơn) và Cửa Bạng (huyện Tĩnh Gia, tỉnh
Thanh Hóa), giáo sĩ Girolarmo Majorica cũng cho ra
đời khoảng 48 văn liệuThiên Chúa giáo (sách dạy giáo
lý) bằng chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, như: Thiên Chúa
thánh giáo hối tội kinh, Thiên Chúa thánh mẫu, Thiên
Chúa thánh giáo khai mông, Kinh những mùa lễ Phục
sinh… Linh mục Girolarmo Majorica sinh tại Napoli,
Italia vào Dòng Tên năm 1605, sang Ấn Độ năm 1619,
và từ đó ông sang Ma Cao, rồi đến Thanh Chiêm năm
1624 cùng với giáo sĩ Alexandre de Rhodes và vài
giáo sĩ khác. Nhưng Girolarmo Majorica chỉ ở Thanh
Chiêm một thời gian ngắn rồi chuyển vào Quy Nhơn.
Trong 5 năm ở Nước Mặn, ông học được tiếng bản xứ.
Năm 1629, ông bị trục xuất ra khỏi Đàng Trong và đến
truyền giáo tại Đàng Ngoài (trú sở Cửa Bạng) năm
1631. Ông mất năm 1656. Trong tác phẩm Những
Chân dung Alexandre de Rhodes lúc trở về châu Âu.
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
61
Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ “Cristoforo, thường hay được các tác giả hiện đại nhắc
học trước 1650, Roland Jacques có kể đến vai trò của tới thì thời gian ở Việt Nam quá ngắn (1618 - 1621) để
các giáo sĩ người Ý khi viết: “Người Ý duy nhất có đóng
góp đáng kể vào chữ Quốc ngữ là Girolarmo Majorica,
đến Cochinchine (Đàng Trong) vào năm 1624, cùng với
chuyến tàu với Alexandre de Rhodes. Nhưng trong khi
Rhodes là một tên tuổi trong lĩnh vực từ vựng và ngữ âm
thì Girolarmo Majorica hoàn toàn dồn sức vào việc sáng
tạo văn học Công giáo bằng chữ Nôm”. Chúng ta biết
rằng, trước khi có chữ Quốc ngữ, thì chữ Nôm là hệ
thống phiên âm duy nhất của Việt ngữ, được biết với
cái tên Quốc âm hay tiếng nói của Quốc gia. Mà chữ
Nôm thì dựa trên căn bản chữ Nho (Hán tự), và học
chữ Nôm còn khó hơn cả học chữ Nho. Việc Girolarmo
Majorica có thể sáng tạo văn học Công giáo bằng chữ
Nôm rõ ràng cho thấy vị giáo sĩ này thông thạo tiếng
Việt, vừa biết chữ Nho lẫn chữ Nôm, do đó đóng góp
của ông vào việc sáng tạo chữ Quốc ngữ là to lớn chứ
không phải là đáng kể như Jacques đã mô tả. Bởi chữ
Quốc âm khó đến như thế mà ông còn có thể viết
được thì hẳn phải biết cách dùng các mẫu tự Latinh
để phiên âm tiếng Việt.
có thể gán cho ông một vai trò quan trọng và ông quan
tâm đến những vấn đề khác khá xa với ngôn ngữ học”.
Phải chăng giáo sĩ Borri không quan tâm đến ngôn
ngữ học? Hãy xem Borri viết: “Tiếng Đàng Trong, theo
tôi, là một tiếng dễ hơn các tiếng bởi vì không có chia
động từ, không có biến cách các danh từ nhưng chỉ có
một tiếng hay lời nói rồi thêm vào một phó từ hay đại
từ để biết về thời quá khứ, hiện tại hay tương lai, về số ít
hay số nhiều. Tóm lại, là thay thế cho tất cả những biến
cách và tất cả những thì, tất cả những ngôi cũng như
những sự khác liên quan tới số và biến cách. Thí dụ động
từ avoir trong ngôn ngữ Đàng Trong có nghĩa là có, từ
này không thay đổi gì. Người ta thêm một đại từ vào là
người ta có thể thay đổi cách sử dụng và như thế chúng
tôi chia động từ này như sau: tôi có, anh có, nó có. Họ
chỉ cần một đại từ mà không trực tiếp thay đổi động từ.
Cũng vậy, để chỉ các thì khác nhau thì họ nói, về thì hiện
tại: tôi bây giờ có, về thì quá khứ: tôi đã có; về thì vị lai:
tôi hoặc sau hoặc sẽ có. Ở cả hai thí dụ trên, từ có không
bao giờ thay đổi. Do đó người ta dễ thấy là ngôn ngữ
này rất dễ học, và thực ra trong sáu tháng chuyên cần,
tôi đã học được đủ để có thể nói chuyện với họ và giải
tội được nữa, tuy chưa được tinh thông lắm, vì thực ra
Có một giáo sĩ người Ý nữa mà Roland Jacques
cho là chỉ có vai trò thứ yếu trong việc sáng tạo chữ
Quốc ngữ là Cristoforo Borri. Roland Jacques viết:
Ông Lê Văn Thanh - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam phát biểu khai mạc Hội thảo "Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ".
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
62
Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
muốn cho thật thành thạo thì phải học bốn năm trọn”. Việt Nam tại Paris rằng: “Công lao phát minh ra chữ
Hơn nữa, Borri đến xứ Đàng Trong gần như cùng lúc Quốc ngữ chính là công lao của người Pháp, của Giám
với Pina và họ đều hoạt động trong phạm vi Thanh mục de Rhodes”. Có lẽ, luận điểm của một học giả có
Chiêm, Hội An, Cửa Hàn và Nước Mặn, nên chắc chắn uy tín như linh mục Cadière đã được nhiều thế hệ học
là có mối liên hệ mật thiết, điều này đồng nghĩa với giả, nhà nghiên cứu về ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam
việc Borri biết công trình nghiên cứu tiếng Việt mà mặc nhiên chấp nhận.
Pina đang đuổi theo, nên có thể Borri đã hỗ trợ Pina
một tay. Để chứng minh điều này, ta có thể xem các
Năm 1950, về quá trình phát triển chữ Quốc ngữ,
sách Việt Nam Văn học Sử yếu của Dương Quảng Hàm
chữ “Ciam, gno, scin” mà Borri dùng để phiên âm các
có đoạn: “Các giáo sĩ người Âu khi đến nước ta truyền
từ “Chiêm, nhỏ, xin” cho thấy có dấu vết của các phụ
giáo vào thế kỷ thứ XVII, thấy ở xứ ta chỉ có chữ Nôm là
thứ chữ dùng để viết tiếng Nam nhưng chưa có chuẩn
đích và học lại mất rất nhiều công phu, nên mới mượn
các mẫu tự La Mã đặt ra chữ Quốc ngữ để tiện việc
dịch sách, soạn sách cho con chiên xem. Việc sáng tác
chữ Quốc ngữ chắc là một công cuộc chung của nhiều
người, trong đó có các giáo sĩ người Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha và Pháp Lan Tây. Nhưng có công nhất trong
âm ci-, gn-, sc- trong tiếng Ý. Về sau các phụ âm ci-,
gn-, sc- đều được ghi theo gốc Bồ Đào Nha ngữ, ci- =
ch-, gn- = nh-, sc- = x-. Như vậy, đã xuất hiện sự cạnh
tranh giữa hai cách phiên âm, hoặc theo Ý ngữ hoặc
theo Bồ ngữ, sau cùng trường phái Bồ ngữ đã thắng.
Nhưng hai tự vị và hai phụ âm trong chữ Quốc ngữ
hiện đại như ghe, ghi và gh-, gi- vẫn còn giữ nguồn
gốc từ tiếng Ý. Ai trong các giáo sĩ người Ý, Borri hay
việc ấy là cố Alexandre de Rhodes, vì chính ông là người
đầu tiên đem in những sách bằng chữ Quốc ngữ”.
Majorica, đã đưa những tự vị và phụ âm này vào chữ
Quốc ngữ, đến nay vẫn chưa xác định được, nhưng
Tiến sĩ chuyên ngành dân tộc học, GS. Lê Văn Hảo
đã từng cho rằng: “Alexandre de Rhodes tỏ ra là nhà
ngôn ngữ học xuất sắc. Chính ông là người đầu tiên đã
học hỏi nghiên cứu các cung giọng trong tiếng Việt để
hoàn thiện sự phiên âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh”
(năm 1985). Sau đó, nhà phê bình văn học Vũ Ngọc
Phan cũng có nhận định như thế: “Cố Alexandre de
Rhodes là người thông thạo tiếng Việt Nam nhất, đã có
công đầu trong việc nghiên cứu”(năm 1989).
điều đó cũng đủ để khẳng định vai trò của các giáo sĩ
người Ý, chí ít là Borri và Majorica, vào quá trình hình
thành chữ Quốc ngữ là tương đối lớn.
Đến đây, ta có thể điểm lại những cái nôi đã khai
sinh ra chữ Quốc ngữ là Thanh Chiêm, Hội An (Quảng
Nam), Nước Mặn (Quy Nhơn, Bình Định) và Cửa Bạng
(Tĩnh Gia, Thanh Hóa). Trong bốn địa điểm này, rõ
ràng Thanh Chiêm là cái nôi quan trọng nhất, bởi
tiếng nói nơi đây là đối tượng nghiên cứu của hai vị
đại diện xuất sắc nhất: Pina, người đầu tiên sáng tạo
ra chữ Quốc ngữ, và Alexandre de Rhodes, người mà
sau này đã từng được cả Tây lẫn Ta tôn vinh như là
ông tổ của chữ Quốc ngữ.
Cho đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, luận
điểm của cha Cadière về công lao độc tôn của giáo
sĩ Alexandre de Rhodes vẫn được tiếp tục phát huy,
GS. Nguyễn Văn Hoàn đã viết: “Trong lĩnh vực học
tiếng Việt và đặt chữ Quốc ngữ, Alexandre de Rhodes
có một vai trò đặc biệt mà không ai có thể tranh chấp
được” (năm 1991). Minh Hiền viết: “Hai trăm năm kể
từ khi được sáng tạo, chữ Quốc ngữ trở thành chữ viết
của nhân dân Việt Nam và là phương tiện truyền tải hữu
hiệu của việc hiện đại hóa trong lòng xã hội Việt Nam.
Cống hiến của Alexandre de Rhodes cho xã hội Việt Nam
thật là vô cùng to lớn”(năm 1994).
Vào cái buổi bình minh của chữ Quốc ngữ, hay tạm
gọi là thời kỳ chữ Quốc ngữ tiền Alexandre de Rhodes,
sáu tên tuổi có công đặt nền móng cho công trình
La ngữ âm hóa tiếng Việt đáng ghi nhớ là: Francisco
de Pina, Cristoforo Borri, Gaspar d'Amaral, António
Barbosa, Girolarmo Majorica và Onofre Borgès, mà
trong số đó người đầu tiên đáng được ghi nhớ nhất,
và tất nhiên, Francisco de Pina đáng phải được tôn
vinh như là người khai sinh ra chữ Quốc ngữ.
Gần đây nhất, năm 1994, Hoàng Tiến, chủ biên
một Đề tài khoa học cấp Nhà nước, ký hiệu KX 06-17
mang tên Chữ Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết
2. Xét lại công lao của alexandre de Rhodes
Vào năm 1912, nhà Việt Nam học và Huế học khả đầu thế kỷ XX đã viết:“Những giáo sĩ sang Việt Nam như
kính, giáo sĩ người Pháp Léopold Michel Cadière đã các cha cố Gaspar do Amaral và António de Barbosa
khẳng định một cách không đúng trước đông đảo đều là người Bồ Đào Nha, sau một thời gian, đã làm
học giả Tây và Ta trong một cuộc hội thảo về văn hóa được tự vị Bồ Đào Nha - An Nam và tự vị An Nam - Bồ
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
63
Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
Đào Nha. Và nhất là cha cố người Pháp Alexandre de d'Amaral còn giỏi hơn cả Alexandre de Rhodes. Chưa
Rhodes là một nhà bác học rất giỏi về khoa ngôn ngữ hết, theo như bài viết Trình độ chữ Quốc ngữ của linh
đã tới Việt Nam, học tiếng Việt và giảng đạo bằng tiếng mục Alexandre de Rhodes từ năm 1625 đến 1644, Đỗ
Việt… Tất nhiên, việc khai sinh ra chữ Quốc ngữ này có
công sức đóng góp của nhiều người ông là đại diện và
giữ công đầu”. Vẫn kế thừa quan điểm của Cadière,
khi cho rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes là đại diện
và giữ công đầu, nhưng may mắn quá và cũng thật
quý hóa quá, Hoàng Tiến đã có kể đến công lao của
hai giáo sĩ Gaspar d'Amaral và António Barbosa. Tuy
thế, trong đề tài khoa học cấp Nhà nước to tát này
lại quên béng việc kể công người đầu tiên đặt nền
móng cho công trình Latinh hóa tiếng Việt và cũng
là ông thầy dạy tiếng Việt cho Alexandre de Rhodes,
giáo sĩ Francisco de Pina. Những phát hiện mới về quá
trình hình thành chữ Quốc ngữ trong Đề tài khoa học
cấp Nhà nước này hầu như vắng bóng, thậm chí chất
thông tin mà đề tài của Hoàng Tiến cung cấp còn lạc
hậu hơn những gì mà tác giả Đỗ Quang Chính đã viết
trong tác phẩm Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620 - 1659 trước
đó hơn 20 năm.
Quang Chính có ý xét lại vai trò của Alexandre de
Rhodes: “Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) là
người đã góp nhiều công lao trong việc xuất bản hai
cuốn sách chữ Quốc ngữ mới đầu tiên, điều đó các nhà
trí thức Việt Nam ai ai cũng biết; ngay các học sinh trung
học cũng được hiểu qua sự kiện này. Dựa vào hai cuốn
sách trên đây, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cũng như
ngoại quốc, đã đề cao công trình sáng lập chữ Quốc ngữ
mới của linh mục Đắc Lộ. Tuy những nhà nghiên cứu đó
biết rằng, linh mục Đắc Lộ chỉ là một trong những người
sáng lập ra thứ chữ này, nhưng xem ra phần đông lại đề
cao quá mức sự nghiệp của ông”. Để hiểu rõ hơn câu
nhận xét của linh mục Đỗ Quang Chính về công lao
của Alexandre de Rhodes trong đoạn trích trên, thiết
tưởng cần phải điểm lại thân thế, tiểu sử và sự nghiệp
của ông tổ chữ Quốc ngữ một cách nghiêm túc ngõ
hầu rút ra một đánh giá thật sự khách quan về công
lao của ông tổ này.
Thật ra, từ những thập niên 20 của thế kỷ XX, không
ít nhà nghiên cứu đã không đồng tình với luận điểm
của linh mục Léopold Cadière. Trong bài báo Khảo về
chữ Quốc ngữ đăng trên tạp chí Nam Phong số 122,
năm 1927, học giả Phạm Quỳnh đã cho rằng: “Chữ
Quốc ngữ là do các cố Tây sang giảng đạo bên Việt Nam
đặt ra vào đầu thế kỷ XVII; các cố đó, người Bồ Đào Nha
có, người Ý Đại Lợi có, người Pháp Lan Tây có, chắc cùng
nhau nghĩ đặt, châm chước, sửa sang trong lâu năm,
chứ không phải một người nào làm ra một mình vậy”.
Linh mục Alexandre de Rhodes thường được
người Việt Nam gọi là Đờ-rốt hay Đắc Lộ, sinh vào
ngày 15.3.1593 tại Avignon, Pháp. Theo Đỗ Quang
Chính thì Alexandre de Rhodes sinh ra trong một
gia đình gốc Do Thái và có quốc tịch tòa thánh La
Mã. Nhưng Roland Jacques qua nghiên cứu cây phả
hệ của dòng họ de Rhodes thì quyết rằng gia đình
Alexandre de Rhodes không có gốc Do Thái, bởi cụ
tổ ba đời của Alexandre de Rhodes theo dòng phụ
hệ, Jean Chimenes de Ruedes, di cư từ Aragon tới,
cụ không phải là người Do Thái, hơn nữa gia huy của
dòng họ de Ruedes có hình bánh xe đã chứng tỏ họ
tộc Ruedes/Rhodes không dính dáng gì đến nguồn
gốc Do Thái. Về điểm này, có lẽ Roland Jacques đúng
hơn Đỗ Quang Chính. Sau khi Alexandre de Rhodes
học xong bậc tiểu học rồi trung học tại quê nhà, năm
1612, vì muốn đi Đông Á truyền giáo nên ông gia
nhập Dòng Tên ở La Mã để đi Lisbon ngõ hầu đáp tàu
đi Đông Á. Vì gặp nhiều cách trở, nên mãi tới ngày
29.5.1623, linh mục Alexandre de Rhodes mới đến
được Áo Môn. Ý định của ông sẽ là từ Áo Môn đi Nhật
truyền giáo, song không đạt được ý nguyện vì tướng
quân Mạc phủ (Shogun) ở Nhật lúc bấy giờ đang cấm
đạo Công giáo. Do đó, Đức Cha bề trên ở Áo Môn cử
ông đi truyền giáo tại Việt Nam.
Đến năm 1955, cái nhìn của học giả người Pháp
Georges Taboulet khi viết cuốn sách Công trạng của
Pháp ở Đông Dương có phần không giống với luận
điểm của Cadière: “Việc phiên âm tiếng Việt bằng chữ
Latinh, điểm thêm các dấu quy ước, là một công lao tập
thể mà sự đóng góp chủ yếu là linh mục De Pina, Borri,
Gaspar do Amaral, António de Barbosa, nhưng linh
mục De Rhodes thì có công hệ thống hóa, chỉnh lý và
phổ biến văn tự này”. Như vậy, so với những gì Hoàng
Tiến viết vào năm 1994, thì trước đó 40 năm Georges
Taboulet đã có kể thêm de Pina và Borri.
Năm 1972, linh mục Dòng Tên Joseph Đỗ Quang
Chính cho ra đời công trình nghiên cứu có giá trị nhất
về chữ Quốc Ngữ từ đó cho đến nay, đó là tác phẩm
Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620 - 1659. Trong cuốn sách
này, Đỗ Quang Chính tỏ ra hoài nghi luận điểm của
Cadière khi khẳng định trình độ tiếng Việt của Gaspar
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes tới dinh trấn Thanh
Chiêm ở xứ Đàng Trong lần thứ nhất vào cuối năm
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
64
Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
1624, tại trú sở Thanh Chiêm, Alexandre de Rhodes
-
La glorieuse mort d’André catechiste de la
bắt đầu học tiếng Việt với Cha bề trên Francisco de Cochinchine (Paris, 1653), (Cái chết vinh quang của
Pina. Khi Pina qua đời vào cuối năm 1625, Alexandre thầy giảng Anrê của xứ Đàng Trong).
de Rhodes thay Pina quản nhiệm trú sở truyền giáo
- Relation de la Mission des Pères de la Compagnie
Thanh Chiêm và đến đầu năm 1627, ông đi Đàng
de Jésus, établie dans le royaume de Perse (Paris, 1659),
Ngoài. Đến tháng 5.1630, Alexandre de Rhodes bị
(Tường trình việc truyền giáo ở vương quốc Ba Tư).
chúa Trịnh Tráng trục xuất khỏi Đàng Ngoài. Ông
Điểm qua sự nghiệp truyền đạo của Alexandre de
Rhodes, ta thấy có một khoảng thời gian dài 10 năm
(từ năm 1630 đến năm 1640), ông đã không hề có
mặt tại Việt Nam. Sở dĩ, Alexandre de Rhodes lưu lại
Ma Cao một thời gian dài như thế, vì có sự bất đồng ý
kiến giữa ông và các giáo sĩ khác về nhiều vấn đề liên
quan đến Việt Nam, đó là cách thức tổ chức các thầy
giảng, và những quan niệm về văn hóa, phong tục và
nhất là ngôn ngữ Việt Nam. Trong thời gian này, ông
biên soạn một quyển sách về lịch sử xứ Đàng Ngoài
và công tác truyền giáo ở đó (Tunchinensis Historiae).
đành trở về Ma Cao và làm giáo sư thần học tại học
viện Madre De Deus (Mẹ Thiên Chúa) cho đến năm
1640. Trong thời gian này, ông biên soạn một quyển
sách về xứ Bắc Hà và công trình truyền giáo ở đó
(Tunchinensis Historiae libri duo).
Từ năm 1640 đến 1645, Alexandre de Rhodes
trở lại truyền giáo ở xứ Đàng Trong. Cho đến cuối
năm 1645, ông bị chính quyền tại dinh Quảng Nam
trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Cuối năm 1645,
Alexandre de Rhodes bắt đầu cuộc hành trình trở về
Âu châu, nhưng mãi đến năm 1649 mới về tới La Mã.
Sau đó, ông được phái đi truyền giáo ở xứ Perse (Ba Tư
- Cộng hòa Hồi giáo Iran bây giờ). Mặc dù đã 65 tuổi,
nhưng ông vẫn theo học ngôn ngữ địa phương (thật
Để giải quyết những bất đồng liên quan đến hệ
thống thuật ngữ Kitô giáo bằng Việt ngữ, một hội
nghị gồm 35 giáo sĩ, do quyền Giám sát Dòng Tên hai
đáng khâm phục!). Ông từ trần tại thành Isfahan, Iran vùng Trung - Nhật triệu tập vào năm 1645 tại Ma Cao
ngày 5.11.1660.
nhằm định chuẩn Mô thức rửa tội bằng tiếng An Nam.
Căn cứ vào biên bản hội nghị do Đỗ Quang Chính
sưu tầm, Mô thức rửa tội đã được chấp thuận bởi 31
giáo sĩ Dòng Tên (mà trong đó có hai chuyên gia Việt
ngữ học kỳ cựu Gaspar d'Amaral và António Barbosa),
hai vị giáo sĩ Asianius Ruidas và Carolus de Rocha bỏ
phiếu trắng, riêng linh mục Alexandre de Rhodes và
một vị giáo sĩ Dòng Tên người Sicilia (Ý) còn trẻ tên là
Metellus Saccanus phản đối. Bởi đa thắng thiểu nên
Mô thức rửa tội được hội nghị thông qua, điều đáng
tiếc là biên bản hội nghị không cho biết lý do chấp
thuận cũng như chống đối.
Linh mục Thanh Lãng cho biết giáo sĩ Alexandre
de Rhodes có thể nói được trôi chảy các thứ tiếng:
Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ấn, Hy Lạp, Do Thái,
Trung Hoa, Nhật và Việt Nam. Ngoài hai cuốn sách
bằng chữ Quốc ngữ, xuất bản tại Rôma năm 1651, là
cuốn Phép giảng tám ngày (Cathechismus) và cuốn
tự điển bằng 3 thứ tiếng Việt - Bồ - La (Diccionário
amanita - Português - Latina) mà người Việt Nam đã
được biết đến (hai cuốn sách này lần đầu tiên được
in tại nhà in của Thánh bộ Truyền giáo La Mã), giáo sĩ
Alexandre de Rhodes còn là tác giả của các tác phẩm
hết sức có giá trị, đã được xuất bản tại châu Âu như:
Nhưng mâu thuẫn đó kỳ dư vẫn chưa được giải
quyết triệt để, theo đề nghị của Alexandre de Rhodes,
vấn đề Mô thức rửa tội được mang về La Mã và được
đưa ra nghiên cứu lại trong những thập niên năm
1650 tại bộ Truyền bá Đức tin, và sau đó tại bộ Thánh
vụ. Trong khi vấn đề Mô thức rửa tội đang được bàn
luận thì giáo sĩ Dòng Tên, người Ý Giovani Filippo
Marini gửi một bức thư “tố cáo” năng lực Việt ngữ
của Alexandre de Rhodes lên các bề trên của mình ở
La Mã. Theo Roland Jacques thì: “Với giọng văn có vẻ
tranh cãi, trong thư tác giả nêu lên khả năng đáng nghi
ngờ của Rhodes về ngữ học Việt Nam. Tu sĩ này đánh
giá thấp Rhodes vì Rhodes nói theo tiếng Đàng Trong,
“đánh giá thô kệch” so với tiếng chuẩn của kinh đô;
-RelazionedéfelicisuccessidellafedepredicatedePatri
della Compagnia de Giesu del regno di Tunchino (Roma,
1650), (Hành trình và truyền giáo ở xứ Đàng Ngoài).
-TonchinensisHistoriaelibriduequorumalterostatus
temporalis hujus Regni. Altero Mirabilis Evangelicae
praedicationis progessus referuntur coeptae per Patres
Societatis Jesu ab anno 1627 ad annum 1646. (Lugduni,
1652), (Lịch sử xứ Đàng Ngoài).
- Histoire de la vie, et de la mort glorieuse de cinq
Pères de la Compagnie de Jésus, qui ont suffer dans le
Japon avec trois séculiers, en l’année 1643 (Paris, 1653),
(Lịch sử 5 vị linh mục tử đạo tại Nhật).
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
65
Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
cũng với tiếng nói phương Nam ấy mà lỗi chính tả trong nên dành những lời tôn vinh đó cho sư phụ Francisco
cuốn Từ điển dường như thấy xuất hiện trong một vài de Pina cho hợp với truyền thống tôn sư trọng đạo
trường hợp”. Nhưng sau cùng Alexandre de Rhodes của dân tộc ta.
vẫn thắng, bởi Hội Truyền giáo Hải ngoại Pháp (MEP,
Missions Étrangères de Paris) do Alexandre de Rhodes
thành lập đang chiếm ưu thế trước Giáo đoàn Kitô
3. Dấu ấn “Nói Quảng” trong quá trình La ngữ
âm hóa tiếng Việt
Qua bức thư “tố cáo” của Giovani Filippo Marini,
không nghi ngờ gì nữa, Alexandre de Rhodes nói
tiếng Việt theo giọng Đàng Trong, tức là giọng
Quảng Nam. Bởi, tiếng nói cư dân xứ Đàng Trong là
Tiếng Quảng hay Nói Quảng như J.F.M Génibrel đã
viết rõ trong sách Đại Việt Quốc âm Pháp thích tập
thành: “Tiếng Quảng, le dialecte cochinchinois qui se
parle à partir de Tourane jusqu’en Basse-Cochinchine
inclusivement”, tạm dịch: Tiếng Quảng là thổ ngữ Đàng
Trong kể từ Đà Nẵng cho đến Nam Kỳ hạ; “Nói Quảng,
Parler le dialecte cochinchinois”, tạm dịch: Nói Quảng là
nói thổ ngữ Đàng Trong.
đang hoạt động tại Đông Á và Đông Nam Á.
Trong Lời nói đầu của cuốn tự điển bằng 3 thứ
tiếng Việt - Bồ - La hoàn toàn thuần túy Việt Nam
(Diccionário amanita - Português - Latina), giáo sĩ
Alexandre de Rhodes thừa nhận đã dùng hai cuốn
tự điển của linh mục Gaspar d'Amaral và António
Barbosa để soạn tác phẩm của mình:“Ngoài ra, tôi còn
lợi dụng công việc của các giáo sĩ khác cũng thuộc Dòng
Tên, nhất là Gaspar do Amaral và António de Barbosa.
Cả hai ông này đều làm mỗi ông một cuốn từ vựng, ông
Gaspar do Amaral làm cuốn Việt - Bồ, ông António de
Barbosa làm cuốn Bồ - Việt, nhưng tiếc rằng cả hai ông
đều chết sớm. Tôi lợi dụng công việc của hai ông viết ra
cuốn từ vựng mới, có chua thêm tiếng Latinh”. Ngoài ra,
giáo sĩ Alexandre de Rhodes cũng tỏ ra biết ơn thầy
Pina: “Tôi đã từng học với Francisco de Pina, một người
Bồ Đào Nha thuộc Dòng Tên hèn mọn của chúng tôi.
Ông là người rất giỏi tiếng bản xứ và là người đầu tiên
dám tự giảng bằng tiếng bản xứ”.
Những nhà thừa sai tiên phong đến xứ ĐàngTrong
để truyền đạo và học tiếng Việt, thổ ngữ Quảng Nam
chính là âm sắc ban đầu mà các vị này dựa vào để ký
âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh. Pina đã đến Hội
An và Thanh Chiêm, Pina học tiếng Việt với một thầy
phụ lễ nho sĩ trẻ tuổi tên là Phêrô. Khi Alexandre de
Rhodes đến Thanh Chiêm, ngoài việc học tiếng Việt
với Pina, còn học thêm ngôn ngữ này với một cậu bé
giúp việc trẻ tuổi, có tên thánh là Raphael. Alexandre
de Rhodes cho biết: “Người giúp tôi đắc lực là một cậu
bé xứ này. Trong ba tuần lễ đã dạy tôi các dấu khác
nhau và cách đọc hết các tiếng. Cậu không hiểu tiếng
tôi mà tôi thì chưa biết tiếng cậu, thế nhưng, cậu có trí
thông minh biết những điều tôi muốn nói. Và thực tế,
cũng trong ba tuần lễ, cậu học các chữ của chúng ta,
học viết và học giúp lễ nữa. Tôi sửng sốt thấy trí thông
minh của cậu bé và trí nhớ chắc chắn của cậu. Từ đó,
cậu đã làm thầy giảng giúp các cha. Cậu đã là một dụng
cụ rất tốt để tôn thờ Chúa trong giáo đoàn và cả ở nước
Lào, nơi cậu hoạt động trong nhiều năm với thành quả
mỹ mãn, cậu rất mến thương tôi nên đã muốn lấy tên
tôi”. Thật đáng tiếc, là bây giờ chúng ta chỉ biết tên hai
người trẻ tuổi đã dạy tiếng Việt cho Pina và Alexandre
de Rhodes qua cái tên rửa tội là Phêrô và Raphael,
Đọc lại những lời của giáo sĩ Alexandre de Rhodes,
ta có thể thấy ông chưa bao giờ tự nhận mình là
người đầu tiên sáng tạo ra chữ Quốc ngữ như những
gì mà linh mục Léopold Cadière về sau xưng tụng. Tuy
không phải là người đầu tiên sáng tạo ra chữ Quốc
ngữ, nhưng Alexandre de Rhodes lại là người có công
trong việc biên tập, chỉnh lý, tu sửa một thứ chữ đang
thời kỳ phôi thai. Công việc biên tập ấy không hề đơn
giản chút nào, mà thực sự là công trình khoa học sáng
chói của Alexandre de Rhodes. Có thể, Alexandre de
Rhodes không giỏi chữ Quốc ngữ như các linh mục
Pina, Amaral hay Barbosa, nhưng ông may mắn hơn
các giáo sĩ khác là sách của ông đã được xuất bản và
tồn tại cho đến ngày hôm nay. Do đó, công lao của
Alexandre de Rhodes cũng đáng được tôn vinh, mặc
dù ông không giữ địa vị công đầu.
Câu nhận xét của linh mục Đỗ Quang Chính mà không biết tên Việt Nam của họ, bởi đây là một
về công lao của Alexandre de Rhodes: “Linh mục bằng chứng cho thấy đã có những người trí thức Việt
Alexandre de Rhodes chỉ là một trong những người Nam trẻ tuổi tham gia vào công cuộc sáng tạo chữ
sáng lập ra thứ chữ này, nhưng xem ra phần đông lại Quốc ngữ. Qua việc học ngôn ngữ bản địa với những
đề cao quá mức sự nghiệp của ông”là hoàn toàn chính thanh niên trẻ ở Thanh Chiêm, chắc chắn Pina và cả
xác. Ngày nay, khi mà đệ tử Alexandre de Rhodes đã Alexandre de Rhodes đều nói tiếng Việt theo cách
từng được ca tụng không tiếc lời, thiết tưởng cũng phát âm của cư dân Thanh Chiêm, nơi mà người ta nói
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
66
Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
tiếng Quảng một cách thuần khiết nhất. Lật lại cuốn
Âm tiết “Tau” (đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất),
Từ điển Việt - Bồ - La (Diccionário amanita - Português cũng giống như “Tui”, chắc chắn là một hình thái chủ
- Latina) của Alexandre de Rhodes, ta thấy trong phần âm của tiếng Quảng Nam, của người Kẻ Chiêm, nó
nguyên âm có:
- a, e, i, o, u,
- ơ, ư
hoàn toàn khác với cách phát âm của người Kẻ Chợ
(Thăng Long) là “Tao”. Trong tiểu luận Những chặng
đường của chữ Quốc ngữ, linh mục Thanh Lãng cho
rằng Alexandre de Rhodes chưa phân biệt vần -au với
vần -ao. Có đúng như vậy không? Về điểm này, Thanh
Lãng có thể không nghĩ rằng Alexandre de Rhodes
đã bị tiếng Kẻ Chiêm ám ảnh, bởi nếu xét về phương
diện âm ngữ học và ký âm học thì vần -au mới đích
thị là lối nói chính thức của giọng Quảng Nam, hình
thành khi mới giao thoa với giọng Champa. Những
người Thanh Chiêm ngày nay vẫn phát âm “gạu” thay
vì “gạo”, “cái au” thay vì “cái ao”, “con dau” thay vì “con
dao”…
- â, ê, ô
Tuyệt nhiên, không có nguyên âm -ă như trong
Việt ngữ hiện đại. Cái gì đã làm cho Alexandre de
Rhodes không sử dụng nguyên âm này. Câu trả lời là
người Thanh Chiêm không phát âm theo nguyên âm
-ă, bởi thế Alexandre de Rhodes đã ký âm là“chảng có
gì sốt”thay vì“chẳng có gì sốt”. Đó là vào thời Alexandre
de Rhodes, vậy bây giờ người Thanh Chiêm có còn
nói tiếng Quảng “đẹc sệt” như vậy không? Chúng tôi
tin lối nói đó vẫn không khác gì so với cách đây gần
400 năm. Do đó, nếu Alexandre de Rhodes muốn nói
“ăn chắc mặc bền” thì ông ta sẽ phát âm là “en chéc
mẹc bền”và sẽ ghi ký âm như sau: “an chác mạc bền”.
Âm tiết “rữa” được ký âm với dấu ngã, Đỗ Quang
Chính cho là“rửa”với dấu hỏi, thật ra các giáo sĩ dùng
dấu ngã là chính xác bởi người Thanh Chiêm không
phát âm đúng dấu hỏi và dấu ngã (hoàn toàn chỉ có
dấu ngã).
Khi Cristoforo Borri đến Đàng Trong từ năm 1621,
ông đã ký âm “Tui ciam biet” nghĩa là “Tui chẳng biết”.
Không thể lẫn lộn vào đâu được nữa, bởi “Tui” (đại từ
nhận xưng ngôi thứ nhất) rõ ràng là lối xưng hô của
người xứ Quảng Nam.
Âm tiết“mâi”trong“Tau rữa mâi”, Đỗ Quang Chính
cho là “mày”, “mày” là đúng nhưng chưa chính xác,
bởi “mâi” là ký âm chưa hoàn chỉnh của chữ “mi” theo
giọng của người Kẻ Chiêm. Do đó, “Tau rữa mâi” phải
được phát âm là “Tau rữa mi”.
Trở lại cuộc hội nghị vào năm 1645 tại Ma Cao
để định chuẩn mô thức rửa tội bằng tiếng An Nam,
biên bản hội nghị viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, mở
đầu với nhan đề: Manoscitto, em que se proue, que a
forma do Bauptismo pronunciada em lingoa Annamica
he verdadeira (Đỗ Quang Chính dịch là Bản viết chứng
minh mô thức Rửa tội phải đọc trong tiếng An Nam
chính thực). Câu khẩu ngữ bằng tiếng An Nam dùng
để đọc khi làm lễ rửa tội, mà thực sự là tiếng Quảng
Nam, được hội nghị thông qua như sau: “Tau rữa mâi
nhân danh Cha ùa Con, ùa spirito santo”
Cuối cùng, âm tiết “ùa”, theo Từ điển Việt - Bồ - La
của Alexandre de Rhodes, vần V, in là “ùa” với bán
nguyên âm môi-môi U (âm xát môi-môi), khác với âm
tiết V hiện đại là âm xát môi-răng. Như vậy, Đỗ Quang
Chính cho “ùa” là “và” là đúng nhưng chưa chính xác,
bởi ở Thanh Chiêm ngày nay, dân làng vẫn nói “đi uề”
thay vì “đi về”, “ùa cơôm” thay vì “và cơm” và “con uịt
(vịt)”, “uén áu”(vắn áo)… Vậy đích thị âm tiết“ùa”phải
được đọc là “ùa” thay vì “và”. Tóm lại, câu khẩu ngữ:
“Tau rữa mâi nhân danh Cha ùa Con, ùa spirito santo”
đã được ký âm theo giọng Quảng Nam như sau: “Tau
rữa mi nhân danh Cha ùa Con, ùa spirito santo”.
Câu khẩu ngữ mô thức rửa tội trên đây, theo Đỗ
Quang Chính, là tài liệu cổ vào bậc nhất về giai đoạn
thứ hai trên lịch trình tiến hóa của chữ Quốc ngữ.
Cũng theo Đỗ Quang Chính, câu khẩu ngữ trên được
đọc là “Tao rửa mày nhân danh Cha và Con, và spirito
santo”.
Gần bốn trăm năm trước đây, đã có người “tố cáo”
tiếng Quảng Nam mà Alexandre de Rhodes học được
là “thô kệch”. Nhưng chẳng hiểu sao, vào thế kỷ XIX,
vua Minh Mạng lại quyết định sử dụng thứ tiếng “thô
kệch”này làm giọng nói chính thức tại triều đình Huế
và còn khen tiếng Quảng rất dễ nghe. Các bản tấu
chương, văn tế ở đây đều được đọc, xướng bởi các
quan nói tốt tiếng Quảng Nam thay vì tiếng Huế,
tiếng Nam Bộ và Bắc Bộ. Sách Đại Nam nhất thống chí,
Nghiên cứu câu khẩu ngữ bằng tiếng An Nam đã
được hội nghị tại Ma Cao thông qua, ta thấy có bốn
âm tiết mang khẩu âm Quảng Nam chính hiệu, đó là
Tau, mâi, rữa và ùa.
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
67
Ñaø Naüng
Nghiên cứu - Trao đổi
bản Tự Đức, quyển 5, mục Phong tục có đoạn chép: nghĩa đây là làng của những cư dân Thanh Hóa đến
“Còn như tiếng nói thì bình dị, so với các tỉnh thì đây là định cư trên đất Chiêm Động. Về sau, các sử quan có
thích trung (vừa phải); tuy Kinh sư cũng lấy tiếng Quảng sáng kiến (hay tối kiến?) thêm một bộ thủy (氵) vào
làm chính”.
bên trái của chữ Chiêm, để biến nó thành chữ Triêm
沾. Trong các văn bản chính thức của Quốc sử quán
triều Nguyễn, địa danh Thanh Chiêm luôn được viết
dưới tự dạng 清 沾 (Thanh Triêm), nhưng vẫn đọc là
Thanh Chiêm.
Ngày nay, có lẽ vì mặc cảm tiếng nói của quê
hương xứ sở là “thô kệch” quê mùa, nên có một số
bạn trẻ ở Thanh Chiêm đi ra Hà Nội hay vào Sài Gòn
lập nghiệp đều cố gắng nhái giọng xứ người. Nhưng
khi lạc lõng ở nơi đất khách quê người, thì họ lại thèm
nghe một giọng nói Quảng Nam biết bao:
Vậy cái tên gọi của vùng đất Thanh Chiêm ngày
nay có nguồn gốc từ: Champa → Chăom → Chàom
→ Kẻ Chàm → Kẻ Chiêm (Nhân Chiêm) → Thanh
Chiêm → Thanh Triêm (viết theo Hán tự).
Chim sa vườn thị
Thỏ lụy vườn trâm
Đ.T.T. - Đ.B.T.
Nhớ thương tiếng nói mấy trăm năm vẫn còn.
(Ca dao xưa)
Nói thêm về danh xưng Thanh Chiêm, các giáo sĩ
Tây phương đều ký âm địa danh này bằng từ Kẻ Chàm
hay Kẻ Chiêm. Ta phân tích từ Kẻ Chàm, kẻ là một tiếng
thông dụng để chỉ một vùng đất, ví dụ: Kẻ Chợ (Hà
Nội), Kẻ Huế (Phú Xuân), Kẻ Hàn (Đà Nẵng), Kẻ Mọi
(Trường Sơn)… và Chàm là tiếng được cư dân Việt
mới gọi Champa xưa.
TÀI LIỆU THaM KHẢo
1. Roland Jacques. 2002. Portuguese Pioneers of
Vietnamese Linguistics Prior to 1650/ L’oeuvre de quelques
pionniers Portugais dans le domaine de la linguistique
vietnamienne jusqu’en 1650. Bangkok: Orchid Press.
Vào thế kỷ XIV - XV, vùng đất Chiêm Động là nơi
giao thoa văn hóa giữa người Việt và người Champa,
nên những âm tiết Champa còn rơi rớt lại trộn lẫn với
giọng Thanh Hóa của người Việt mới đến mà hình
thành nên tiếng Quảng Nam, một loại thổ ngữ pha
trộn Thanh - Champa. Những chủ nhân của vùng đất
mới phát âm từ Champa là Chăompa, về sau, cho gọn
hơn, là Chăom và sau nữa thành Chàom. Chính vì thế,
mà các giáo sĩ mới Bồ ngữ âm hóa âm tiết Chàom
là Chão (Chàm). Trong các văn bản chính thức bằng
chữ Hán, các sử quan, trước đó đã dùng từ Chiêm
Bà Thành 占婆城 (về sau rút ngắn lại thành Chiêm
Thành 占城) để chỉ Champapura, nên mặc nhiên âm
tiết Chàom (Chàm) được viết bằng tự dạng Chiêm
占 trong Hán tự. Do đó, vùng đất Kẻ Chàm được viết
thành Kẻ Chiêm 仉占 trong các văn bản bằng Hán tự.
Trong sách Ô châu cận lục, Dương Văn An chép làng
Kẻ Chiêm là Nhân Chiêm 人占.
2. Đỗ Quang Chính. 1972. Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620 -
1659. Sài Gòn: Đuốc Sáng.
3. Thanh Lãng. 1961. “Những chặng đường của chữ Việt
Quốc ngữ”. Đại học. Số tháng 2 - Kỷ niệm giáo sĩ Alexandre
de Rhodes.
4. Georges Taboulet. 1956. La geste française en
Indochine: 1858 - 1912. Paris: Adrien-Maisonneuve.
5. Dương Quảng Hàm. 1943. Việt Nam văn học sử yếu. Hà
Nội: Nha học chính Đông Pháp.
6. Hoàng Tiến. Chữ Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết
đầu thế kỷ XX (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, ký
hiệu KX 06-17).
7. Hoàng Xuân Việt. 2006. Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ.
Hà Nội: Văn hóa Thông tin.
8. L. Cadière. 1904. “La Question du quôc-ngu / Vấn đề
quốc ngữ”. Revue indochinoise. N°1. Hanoi, Impr. d’Extrême-
Orient.
9. Alexandre de Rhodes. 1991. Từ điển An Nam - Lusitan
- La Tinh (Từ điển Việt - Bồ - La). Bản dịch của Thanh Lãng,
Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính. Hà Nội: Khoa học Xã
hội (đối chiếu nguyên bản Dictionarium Annamiticum
Lusitanum et Latinum, Rome, 1651).
Năm 1558 - 1570, sau khi chúaTiên Nguyễn Hoàng
vào trấn nhậm đất Thuận - Quảng, thì có rất nhiều lưu
dân trấn Thanh Hóa, quê hương của các chúa Nguyễn
đi theo chúa Tiên đến lập nghiệp ở làng Kẻ Chiêm.
Do đó, dân làng quyết định đổi tên làng từ Kẻ Chiêm
thành Thanh Chiêm 清占 (Thanh trong chữ Thanh
Hóa 清化, Chiêm trong chữ Chiêm Động 占峒) với ý
10. Cristoforo Borri. 1631. Relation de la nouvelle
mission des Pères de la Compagnie de Jésus au royaume de la
Cochinchine. Lille: Impr. de Pierre de Rache.
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi
68
Ñaø Naüng
Bạn đang xem tài liệu "Khai sinh chữ Quốc Ngữ (Từ 1620 đến 1659)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- khai_sinh_chu_quoc_ngu_tu_1620_den_1659.pdf