Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán – Nghiên cứu tại các công ty niêm yết ở Việt Nam

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN  
Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017  
Mi quan hgia luân chuyn kim toán viên  
và chất lượng kim toán Nghiên cu  
ti các công ty niêm yết Vit Nam  
The relationship between auditor rotation and audit quality –  
A case study in listed companies in Vietnam  
TS. Nguyn Anh Hin,  
Trường Đại hc Sài Gòn  
Nguyen Anh Hien, Ph.D.,  
Saigon University  
Tóm tắt  
Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiếm toán là tính độc lập của kiểm toán viên  
(KTV). Do đó, nhiều quốc gia đã ban hành các qui định về luân chuyển KTV. Tuy nhiên, qui định này  
đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu, quản lý cũng như các hội nghề nghiệp.  
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có  
mối liên hệ giữa việc luân chuyển KTV và chất lượng kiểm toán tại các công ty niêm yết ở Việt Nam.  
Từ khóa: luân chuyển kiểm toán viên, chất lượng kiểm toán, công ty niêm yết.  
Abstract  
One of the factors affecting the audit quality is the independence of the auditor. Therefore, many  
countries have issued regulations on auditor rotation. However, this regulation has led to many debates  
among researchers, managers and professional associations. This study uses quantitative research  
methods. The research results show that there is no relationship between the auditor rotation and the  
audit quality at listed companies in Vietnam.  
Keywords: auditor rotation, Audit quality, listed companies.  
nhiều báo cáo tài chính (BCTC) của các  
công ty niêm yết có sự thay đổi số liệu giữa  
trước và sau kiểm toán trong các năm  
2013, 2014 và 2015. Mặc dù đã có sự giải  
trình của các công ty nhưng nhìn chung  
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các  
nhà đầu tư. Sự tách biệt giữa chủ sở hữu  
(nhà đầu tư) và nhà quản lý trong mô hình  
công ty cổ phần một mặt mang lại những  
1. Giới thiệu  
Việt Nam hiện vẫn là một quốc gia có  
nền tài chính còn khá non trẻ trong khu vực  
cũng như trên thế giới. Thị trường chứng  
khoán mặc dù đã đi vào hoạt động được  
trên 16 năm nhưng tính minh bạch của thị  
trường vẫn còn là vấn đề gây nhiều bức  
c cho nhà đầu tư cũng như các cơ quan  
quản lý Nhà nước. Trên thực tế có rất  
20  
NGUYN ANH HIN  
lợi ích không thể tranh cãi như có thể  
chuyển nhượng quyền sở hữu một cách dễ  
dàng mà không ảnh hưởng đến hoạt động  
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,  
đồng thời cũng thuê được những nhà quản  
lý chuyên nghiệp có thể thực hiện mục tiêu  
của doanh nghiệp. Mặt khác, việc tách biệt  
này dẫn đến việc xung đột lợi ích giữa chủ  
sở hữu và nhà quản lý. Trong khi chủ sở  
hữu muốn biết nhiều thông tin liên quan  
đến doanh nghiệp thì nhà quản lý lại có xu  
hướng hạn chế cung cấp thông tin hoặc  
cung cấp thông tin có độ tin cậy thấp. Từ  
những vấn đề trên, có thể thấy chất lượng  
BCTC của các công ty niêm yết công bố là  
vấn đề quan trọng trong việc minh bạch  
thông tin trên thị trường chứng khoán của  
Việt Nam hiện nay. Điều này cũng cho  
thấy vai trò quan trọng của kiểm toán độc  
lập trong việc nâng cao chất lượng BCTC  
của các công ty niêm yết. Nhà đầu tư trong  
khả năng giới hạn về khả năng tiếp cận  
thông tin thực tế của doanh nghiệp nên họ  
gần như đặt trọn niềm tin vào các công ty  
kiểm toán (KT) độc tập. Họ kỳ vọng vào  
CLKT BCTC của các công ty KT độc lập  
trước khi đưa ra các quyết định đầu tư.  
công ty niêm yết tại Việt Nam nhằm cung  
cấp bằng chứng thực nghiệm về vấn đề này  
để giúp các cơ quan quản lý Nhà nước có  
những chính sách phù hợp với thực tế tại  
Việt Nam.  
2. Cơ sở lý thuyết  
2.1. Chất lượng kiểm toán  
Có nhiều quan điểm khác nhau về  
CLKT. Tuy nhiên, Beatty (1989) thì đứng  
dưới góc nhìn của nhà đầu tư cho rằng  
CLKT được thể hiện qua sự trung thực của  
thông tin tài chính được trình bày trên  
BCTC sau khi kiểm toán. Trách nhiệm của  
KTV là phải làm giảm thiểu các sai sót và  
nâng cao độ trung thực của dữ liệu kế toán.  
Quan điểm này quan tâm đến kết quả của  
dịch vụ kiểm toán hay nói cách khác đó là  
sự trung thực của BCTC. Tác giả cho rằng  
BCTC là kết quả tổng hợp của doanh  
nghiệp và KTV, công ty KT. Khi thông tin  
trên BCTC không trung thực hợp lý thì  
chất lượng KT đã không được đảm bảo cho  
dù KTV đã hoàn toàn tuân thủ các chuẩn  
mực có liên quan. Từ định nghĩa này nhiều  
công trình nghiên cứu định lượng về CLKT  
đã sử dụng độ tin cậy của các thông tin trên  
BCTC làm thước đo CLKT. Do đó, nghiên  
cứu này cũng dựa vào quan điểm trên để  
đo lường chất lượng KT.  
Vì vậy nhằm đảm bảo thông tin BCTC  
nói chung và thông tin lợi nhuận nói riêng  
đáng tin cậy thì vai trò của KTV là phải  
phát hiện và hạn chế tối đa các hành vi điều  
chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý trong quá  
trình KT của mình. Khi các KTV để cho  
các hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà  
quản lý trong BCTC thì thông tin lợi nhuận  
có độ tin cậy thấp nên CLKT bị ảnh hưởng.  
Như vậy, mức độ điều chỉnh lợi nhuận của  
nhà quản lý thể hiện CLKT BCTC.  
Chất lượng kiểm toán (CLKT) gắn liền  
với chất lượng BCTC. Tuy nhiên, có nhiều  
nhân tố ảnh hưởng đến CLKT. Một trong  
những nhân tố có ảnh hưởng quan trọng  
đến CLKT là tính độc lập của KTV. Do đó  
để nâng cao tính độc lập của KTV trong  
kiểm toán BCTC nhiều quốc gia đã đưa ra  
các qui định về luân chuyển KTV định kỳ  
nhằm tăng cường tính độc lập, khách quan  
trong hoạt động KT độc lập. Tuy nhiên, qui  
định này đã dẫn đến rất nhiều cuộc tranh  
luận diễn ra giữa các nhà quản lý, nghiên  
cứu, cũng như các Hội KTV hành nghề.  
Do đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa  
2.2. Mô hình đo lường CLKT  
thời gian luân chuyển KTV và CLKT ở các  
Trong các mô hình nhận diện hành vi  
21  
MI QUAN H GIA LUÂN CHUYN KIM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN…  
điều chỉnh lợi nhuận đã công bố ở nước  
ngoài, các tác giả đã dựa trên nguyên tắc  
cơ sở dồn tích của kế toán để chia lợi  
nhuận trong kỳ của doanh nghiệp thành hai  
loại là lợi nhuận bằng tiền (cash earnings)  
và lợi nhuận dồn tích (accrual earnings).  
Trong đó, lợi nhuận bằng tiền hình thành  
từ các khoản doanh thu và chi phí bằng tiền  
mặt mà doanh nghiệp đã thu và chi trong  
kỳ. Riêng lợi nhuận dồn tích là lợi nhuận  
được tính trong kỳ của doanh nghiệp  
nhưng chưa thu được bằng tiền như các  
khoản doanh thu bán chịu cho khách hàng  
sau khi đã trừ các khoản chi phí không phải  
chi trả bằng tiền; các khoản chi phí phải  
trả; chi phí trích trước; các khoản dự phòng  
giảm giá tài sản; các khoản khấu hao tài  
sản cố định trong kỳ...  
Các nhà quản lý thường không thể  
thực hiện hành vi điều chỉnh trên các khoản  
lợi nhuận bằng tiền. Tuy nhiên, đối với  
khoản lợi nhuận dồn tích thì các nhà quản  
lý có thể thay đổi khi vận dụng nguyên tắc  
cơ sở dồn tích trong kế toán. Trên lý  
thuyết, nguyên tắc cơ sở dồn tích nhằm  
đảm bảo doanh nghiệp phản ánh đúng  
doanh thu, chi phí trong kỳ nhằm bảo đảm  
lợi nhuận được phản ánh một cách trung  
thực và hợp lý. Trong thực tế, nguyên tắc  
này có thể bị lợi dụng để thực hiện hành vi  
điều chỉnh lợi nhuận như ghi nhận doanh  
thu khi nghiệp vụ bán hàng chưa được thực  
hiện đầy đủ hay ghi nhận doanh thu khi  
chưa đủ điều kiện ghi nhận theo chuẩn mực  
kế toán hoặc sử dụng việc trích lập các  
khoản dự phòng, chi phí trả trước nhằm gia  
tăng hay giảm bớt chi phí trong kỳ.  
earnings viết tắt là TA). TA còn được gọi  
tắt là biến kế toán dồn tích. Khoản dồn tích  
trong lợi nhuận (TA) được tính bằng cách  
lấy tổng lợi nhuận kế toán sau thuế trừ lưu  
chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh:  
TA = LN sau thuế – dòng tiền thuần  
hoạt động kinh doanh  
Tuy nhiên, không thể sử dụng biến TA  
làm thước đo điều chỉnh lợi nhuận một  
cách trực tiếp do trong đó có các khoản  
dồn tích phù hợp với tình hình kinh doanh  
thực tế của doanh nghiệp như các khoản  
doanh thu bán chịu trong kỳ, các khoản dự  
phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm  
giá hàng tồn kho, các khoản chi phí phải  
trả… Do đó, ta cần phải có một mô hình để  
tách biến TA ra làm hai phần gồm:  
- Các khoản dồn tích không tự định  
(Non-discretionary accruals viết tắt là  
NDA): là các khoản dồn tích được thực  
hiện theo những qui định, nguyên tắc của  
chuẩn mực và chế độ kế toán.  
- Các khoản dồn tích tự định  
(Discretionary accruals viết tắt là DA) hay  
còn gọi là các khoản dồn tích bất thường  
(abnormal accruals): là các khoản dồn tích  
do nhà quản lý thực hiện nhằm mục đích  
điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ.  
Do đó, biến DA mới chính là thước đo  
phù hợp để đánh giá các nhà quản lý có  
thao túng thông tin lợi nhuận hay không và  
từ đó đánh giá CLKT. Theo lý thuyết thì  
khi DA mang giá trị dương thì nhiều khả  
năng nhà quản lý thổi phồng lợi nhuận.  
Ngược lại, trường hợp DA mang giá trị âm  
thì có khả năng nhà quản trị che giấu lợi  
nhuận. Như vậy, biến DA cho thấy có sự  
điều chỉnh chủ quan từ nhà quản lý đến lợi  
nhuận của doanh nghiệp.  
Do đó, các nghiên cứu trên thế giới  
đều cho rằng hành vi điều chỉnh lợi nhuận  
của các công ty xuất phát từ các khoản lợi  
nhuận dồn tích hay còn gọi là các khoản  
dồn tích trong lợi nhuận (total accrual  
Để ước tính giá trị của DA trong TA,  
nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã sử  
dụng mô hình của nguyên gốc của Jones  
22  
NGUYN ANH HIN  
(1991) và mô hình Jones cải tiến của  
Dechow, Sloan and Sweeney (1995).  
Mô hình Jones (1991)  
ΔREVt / At-1 - a3 PPEt / At-1  
Mô hình Jones cải tiến của Dechow,  
Sloan and Sweeney (1995)  
Mô hình được nhiều nhà nghiên cứu  
thừa nhận tính hiệu quả trong việc nhận  
diện điều chỉnh lợi nhuận ở các nước phát  
triển. Theo đó, Jones đã đưa ra mô hình  
nhận diện hành vi điều chỉnh thu nhập  
thông qua 2 bước:  
- Xác định biến kế dồn tích không tự  
định (NDA) theo phương trình sau:  
NDAt / At-1 = α /At-1 + β1 ΔREVt /At-1  
+ β2 PPEt / At-1  
Hạn chế của mô hình Jones (1991) là  
khi chọn REV làm biến nghiên cứu thì có  
thể doanh thu thuần cũng cũng bị tác động  
thông qua các khoản doanh thu bị ghi nhận  
không đúng niên độ và các khoản này có  
thể là doanh thu khống của doanh nghiệp.  
Do đó, các nhà nghiên cứu sau này đưa  
thêm biến tăng giảm khoản phải thu khách  
hàng (ΔREC) vào phương trình nhằm loại  
bỏ ảnh hưởng của các khoản doanh thu dồn  
tích do sự tăng lên của tài khoản phải thu  
khách hàng trong kỳ. Qua đó, giá trị doanh  
thu thuần tăng thêm phản ánh chính xác  
hơn môi trường kinh doanh của doanh  
nghiệp trong năm đó. Dechow, Sloan and  
Sweeney (1995) đã cải tiến mô hình của  
Jones (1991) bằng cách bổ sung thêm sự  
thay đổi của tài khoản nợ phải thu vào mô  
hình (ΔREC). Mô hình Jones được cải tiến  
như sau:  
Trong đó:  
NDAt: Biến kế toán dồn tích không thể  
điều chỉnh được năm t  
At-1: Tổng tài sản cuối năm t-1  
ΔREVt: Biến động doanh thu thuần  
năm t  
PPEt: Nguyên giá của tài sản cố định  
hữu hình năm t  
Trong công thức trên tất cả các biến  
của phương trình đều chia cho At-1 (tài sản  
cuối năm t-1) để giảm thiểu rủi ro do  
phương sai không thuần nhất.  
NDAt / At-1 = α / At-1 + β1 (ΔREVt -  
ΔRECt) / At-1 + β2 PPEt / At-1  
α, β1, β2 là những tham số được tính  
bằng ước lượng bằng phương pháp bình  
phương bá nhất (OLS) của các hệ số a1, a2,  
a3 trong mô hình sau:  
TAt / At-1 = a0 + a1 1 / At-1 + a2 ΔREVt  
/ At-1 + a3 PPEt / At-1 + εt  
Phần dư ε trong mô hình trên đại diện  
cho biến chưa thể nhận diện được, bao gồm  
cả biến dồn tích tự định (DAt)  
Sau khi ước lượng biến dồn tích không  
tự định (NDA), từ phương trình:  
DAt = TAt NDAt  
Trong đó:  
ΔRECt là sự thay đổi trong tài khoản  
phải thu khách hàng.  
Dechow, Sloan and Sweeney (1995)  
cho rằng mô hình Jones cải tiến đã phát  
hiện ra hành vi điều chỉnh lợi nhuận tốt  
hơn so với mô hình nguyên gốc của Jones.  
Nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển đã  
kết luận rằng mô hình Jones và mô hình  
Jones cải tiến đã cho kết quả đáng tin cậy  
về biến dồn tích có thể điều chỉnh (Guay,  
Kothari and Watts, 1996).  
Ta có:  
3. Phương pháp nghiên cứu  
DAt / At-1 = TAt / At-1 NDAt / At-1  
Từ đó xác định biến kế toán dồn tích  
tự định như sau:  
3.1. Mô hình nghn cứu  
Xuất phát từ mô hình đo lường CLKT  
của Dechow, Sloan and Sweeney (1995):  
NDAt / At-1 = α / At-1 + β1 (ΔREVt -  
DAt / At-1 = TAt / At-1 - a1 1 / At-1 - a2  
23  
MI QUAN H GIA LUÂN CHUYN KIM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN…  
ΔRECt ) / At-1 + β2 PPEt / At-1  
GROW: Tốc độ tăng trưởng của công  
Từ phương trình trên, ta tính được  
DAit/At-1 = TAit/At-1 - NDAit/At-1  
ty (được xác định bằng cách lấy tổng tài  
sản năm t trừ tổng tài sản năm t-1 và chia  
lại cho tổng tài sản năm t-1)  
CFO: Dòng tiền thuần từ hoạt động  
kinh doanh của công ty trong năm  
SIZE: Quy mô công ty (được xác định  
bằng cách lấy logarit của tổng tài sản  
doanh nghiệp)  
Khi tỉ số DAit/At-1 quá cao thể hiện các  
khoản DA trong lợi nhuận lớn và CLKT  
giảm xuống. Tuy nhiên, trên thực tế giá trị  
của DA của từng công ty có thể mang giá  
trị âm hoặc dương tùy thuộc vào hành vi  
của nhà quản lý trong kỳ muốn thổi phồng  
lợi nhuận (DA>0) hay giảm bớt lợi nhuận  
(DA<0). Do đó, nghiên cứu này sử dụng  
giá trị tuyệt đối của DAit/At-1 làm biến phụ  
thuộc trong phương trình hồi quy để đại  
diện cho CLKT BCTC. Ký hiệu giá trị  
tuyệt đối của DAit/At-1 là |DA|  
Ngoài ra, kế thừa các nghiên cứu trước  
đây về CLKT, tổng hợp các nhân tố ảnh  
hưởng đến CLKT (Chen và cộng sự; Myers  
và các cộng sự; Siregar và cộng sự…),  
nghiên cứu này sử dụng mô nghiên cứu sau  
để xem xét mối quan hệ tuyến tính giữa  
CLKT BCTC (được đo lường bằng giá trị  
|DA|) và các biến độc lập có liên hệ với  
mức độ điều chỉnh lợi nhuận. Cụ thể mô  
hình nghiên cứu như sau:  
|DA| = α + β1TENURE + β2BIG4 +  
β3LEV + β4GROW + β5CFO + β6SIZE + ε  
Trong đó:  
|DA|: Chất lượng KT (được đo lường  
bằng mức độ điều chỉnh lợi nhuận thông  
qua các khoản dồn tích)  
TENURE: Nhiệm kỳ KTV (được xác  
định bằng cách đếm số năm liên tiếp một  
KTV thực hiện công việc kiểm toán cho  
một công ty)  
3.2. Phương pháp thu thập dữ liệu  
Với mục tiêu tính toán và ước tính DA  
cho từng công ty, nghiên cứu đã thực hiện  
việc lấy số liệu kế toán từ BCTC năm và  
thu thập thông tin về KTV phụ trách KT  
trên BCKT kèm theo của các công ty hiện  
đang niêm yết trên thị trường chứng khoán  
Việt Nam. Trong nghiên cứu này, để xem  
xét mối quan hệ của việc luân chuyển KTV  
và CLKT thì cần phải có dữ liệu chuỗi thời  
gian tương đối dài. Do đó, mẫu nghiên cứu  
là các công ty niêm yết trên các sàn giao  
dịch chứng khoán Việt Nam từ 10 năm trở  
lên. Theo đó, chỉ có một số công ty niêm  
yết trên Sở giao dịch chứng khoáng  
TP.HCM (HOSE) mới đáp ứng yêu cầu  
này. Ngoại trừ các công ty kinh doanh  
trong lãnh vực tài chính, ngân hàng, bảo  
hiểm, thống kê cho thấy trên sàn HOSE có  
70 công ty niêm yết trên 10 năm. Trong đó,  
có 4 công ty dữ liệu không đầy đủ cho 10  
năm nên nghiên cứu này sử dụng dữ liệu  
của 66 công ty niêm yết trong 10 năm từ  
2006 đến 2015 làm mẫu nghiên cứu của đề  
tài. Như vậy, số lượng quan sát trong đề tài  
là 660 quan sát.  
BIG4: Biến giả (dummy variable) biến  
này sẽ mang giá trị bằng 1 nếu công ty  
kiểm toán là một trong các Big4, nếu  
không phải Big4 thì mang giá trị bằng 0.  
LEV: Tỷ lệ nợ của công ty (được xác  
định bằng cách lấy tổng nợ phải trả chia  
cho tổng tài sản trong kỳ)  
Nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập  
các dữ liệu trên BCTC bao gồm số dư các  
khoản mục các khoản phải thu khách hàng,  
tổng nợ phải trả, giá trị còn lại tài sản cố  
định, tổng tài sản trên bảng cân đối kế  
toán; khoản mục lợi nhuận trước thuế thu  
nhập, doanh thu thuần trong kỳ trên báo  
24  
NGUYN ANH HIN  
cáo kết quả kinh doanh; khoản mục lưu  
chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh  
từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Trên báo cáo  
KT, tên KTV chính thực hiện KT BCTC  
năm đó và tên công ty KT sẽ được ghi  
nhận lại.  
lập thực hiện kiểm toán cho cùng một công  
ty. Mỗi chuỗi số liệu sau khi tính toán các  
giá trị cần thiết sẽ là một quan sát để chạy  
hồi qui trên phần mềm SPSS để tìm mối  
tương quan giữa nhiệm kỳ KT và CLKT.  
4. Kết quả nghiên cứu  
Mỗi chuỗi số liệu sẽ được tính toán  
bằng phần mềm Excel để tính tổng lợi  
nhuận dồn tích (TA), từ đó tính toán thông  
qua mô hình nghiên cứu nói trên để tính  
toán các khoản dồn tích tự định (DA).  
Nhiệm kỳ kiểm toán (thời gian luân chuyển  
KTV) được hiểu là số năm một KTV độc  
4.1. Kết quả thống kê thời gian luân  
chuyển KTV và CLKT  
Để phân tích tương quan giữa biến  
TENURE và DA, nghiên cứu tính giá trị  
trung bình của DA tương ứng với từng năm  
luân chuyển KTV, kết quả được trình bày  
trong bảng 1.  
Bng 1. Thng kê CLKT và thi gian luân chuyn KTV  
Nhim kkim toán Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 5 Năm 6 Năm 7  
Giá trtrung bình DA 0,2241 0,2437 0,2108 0,1570 0,1514 0,1523 0,5014  
Số lượng quan sát  
352  
167  
92  
24  
13  
9
3
Qua bảng 1, ta thấy giá trị trung bình  
của DA thấp nhất là ở năm thứ 5 (0,1514)  
và cao nhất là ở năm thứ 7 (0,5014). Kết  
quả DA trung bình trong từng năm cũng  
cho thấy DA ở các năm thứ nhất và năm  
thứ 2 cao cho thấy một thực tế là kiểm toán  
trong hai năm đầu tạo ra nhiều rủi ro cho  
KTV khiến CLKT không được đảm bảo.  
Tuy nhiên, từ năm thứ 3 đến năm thứ 5 giá  
trị DA giảm dần qua từng năm, đến năm  
thứ 6 thì DA tăng trở lại và đặc biệt tăng  
cao ở năm thứ 7. Do đó, CLKT có xu  
hướng tăng dần từ năm KT thứ 3 đến năm  
thứ 5. Bước sang năm thứ 6 thì CLKT bắt  
đầu có xu hướng giảm và giảm mạnh ở  
năm thứ 7. Kết quả này cho thấy khi nhiệm  
kỳ kiểm toán không vượt quá 5 năm thì giá  
trị DA trung bình càng giảm xuống tức là  
CLKT tăng lên.  
4.2. Kết quả phân tích hồi qui  
Để có thể khẳng định việc luân chuyển  
KTV có ảnh hưởng đến CLKT không,  
nghiên cứu tiếp tục thực hiện hồi qui đa  
biến với mô hình nghiên cứu được đề xuất  
ở trên. Kết quả hồi qui được trình bày ở  
bảng 2.  
25  
MI QUAN H GIA LUÂN CHUYN KIM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN…  
Bảng 2. Kết quả hồi qui  
Coefficientsa  
Model  
Unstandardized  
Coefficients  
Standardized  
Coefficients  
t
Sig.  
95,0%  
Confidence  
Interval for B  
Collinearity  
Statistics  
B
Std. Error  
Beta  
Lower Upper Tolerance VIF  
Bound Bound  
(Constant)  
BIG4  
2,333  
,047  
,007  
,498  
,050  
,016  
,000  
,041  
,083  
,043  
4,687 ,000 1,356 3,311  
,043  
,016  
,950 ,342 -,050  
,407 ,684 -,025  
,145  
,038  
,000  
,241  
,153  
,706 1,416  
,956 1,046  
,841 1,190  
,964 1,037  
,949 1,054  
,643 1,555  
TENURE  
1 CFO  
4,544E-014  
,161  
,056 1,334 ,183  
,152 3,911 ,000  
,000  
,080  
GROW  
LEV  
-,010  
-,005 -,124 ,901 -,173  
SIZE  
-,182  
-,201 -4,224 ,000 -,267 -,098  
a. Dependent Variable: DA (Y)  
Bảng 3. Kết quả tổng hợp mô hình  
Model Summaryb  
Mode  
l
R
R
Adjusted Std. Error  
Change Statistics  
Durbin-  
Watson  
Square R Square  
of the  
Estimate  
R Square  
F
df1 df2  
Sig. F  
Change  
Change Change  
1
,219a  
,048  
,039 ,45699679  
,048 5,452  
6
652  
,000  
1,771  
a. Predictors: (Constant), SIZE, TENURE, GROW, LEV, CFO, BIG4  
b. Dependent Variable: DA (Y)  
Kết quả hồi qui đa biến thể hiện ở  
bảng 2 cho thấy biến TENURE không có ý  
nghĩa thống kê trong mô hình (giá trị sig  
đều lớn hơn 5%). Điều này có nghĩa là với  
bộ dữ liệu trong mẫu nghiên cứu không tìm  
thấy bằng chứng về mối liên hệ giữa thời  
hạn luân chuyển KTV và CLKT. Điều này  
là do từ năm 2004 Việt Nam đã có qui định  
thời gian luân chuyển KTV là 3 năm nên  
biến TENURE trong mô hình chủ yếu nhận  
giá trị 1, 2, 3. Các trường hợp biến  
TENURE có giá trị lớn hơn 3 phần lớn là  
do cách năm (không liên tục). Kết quả này  
cũng phù hợp với một số nghiên cứu trên  
thế giới như Siregar và các cộng sự (2012),  
Geiger và Raghunandan (2002), Carcello  
và Nagy (2004), Johnson và cộng sự  
(2002), Knechel và Vanstraelen (2006)…  
Về giá trị và dấu của các biến độ lập khác,  
ta thấy chỉ có biến GROW và SIZE là có ý  
nghĩa thống kê. Điều này có nghĩa là tốc độ  
tăng trưởng và qui mô của doanh nghiệp có  
ảnh hưởng đến CLKT.  
Giá trị R2 điều chỉnh trong mô hình hồi  
qui là 3,9% (bảng 3). Nguyên nhân mức độ  
giải thích của mô hình thấp là do biến DA  
26  
NGUYN ANH HIN  
đại diện cho chất lượng thông tin lợi nhuận  
được dùng để đo lường CLKT. Trong khi  
đó, CLKT bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố  
mà thời hạn luân chuyển KTV chỉ là một  
trong số các nhân tố đó. Do đó, mô hình  
khó có thể giải thích được toàn bộ sự thay  
đổi của DA.  
Chính phủ có thể xuất phát từ yêu cầu phải  
gia tăng tính độc lập của các KTV nhưng  
điều này lại khiến họ phải gặp rủi ro cao  
trong nghề nghiệp khi làm lãng phí những  
kinh nghiệm thực tế, những hiểu biết sâu  
sắc về tình hình và đặc điểm kinh doanh  
của doanh nghiệp khách hàng hiện tại;  
đồng thời họ lại gặp khó khăn trong việc  
tìm hiểu một khách hàng mới để lập kế  
hoạch KT năm đầu tiên khiến số liệu trên  
BCTC sẽ có tính trung thực, hợp lý không  
cao. Do đó, trong chừng mực nào đó, quy  
định này đã làm giảm chứ không làm tăng  
CLKT, tăng thêm chi phí xã hội mà lợi ích  
mang lại không rõ ràng. Với các bằng  
chứng thực nghiệm từ nghiên cứu này,  
Chính phủ nên xem xét nâng thời hạn tối  
đa phải thay đổi KTV lên 5 năm thay vì 3  
năm như hiện nay. Thống kê về qui định  
luân chuyển KTV ở các quốc gia Châu Á  
cũng cho thấy có rất nhiều các quốc gia  
Châu Á chọn mốc thời gian 5 năm làm qui  
định bắt buộc luân chuyển KTV như Trung  
Quốc, Malaysia, Pakistan, Thái Lan,  
Singapore…  
5. Kết luận và khuyến nghị  
5.1. Kết luận  
Mặc dù còn nhiều tranh luận nhưng  
vấn đề luân chuyển KTV đã được áp dụng  
tại nhiều quốc gia với phạm vi áp dụng và  
thời gian luân chuyển khác nhau. Các  
nghiên cứu trên thế giới về quy định này  
cũng khá đa dạng về phương pháp nghiên  
cứu, cách tiếp cận vấn đề cũng như kết quả  
nghiên cứu. Phần lớn trong số các nghiên  
cứu đó không ủng hộ quan điểm cho rằng:  
Thời gian luân chuyển KTV bắt buộc làm  
gia tăng CLKT. Trong nghiên cứu thực  
nghiệm này ở các công ty niêm yết tại Việt  
Nam, nhóm nghiên cứu sử dụng thước đo  
các khoản dồn tích có thể điều chỉnh (DA)  
để đo lường CLKT. Với dữ liệu là 66 công  
ty niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn từ  
năm 2006 đến năm 2015, kết quả nghiên  
cứu cho thấy không có bằng chứng về mối  
quan hệ giữa thời gian luân chuyển KTV  
và CLKT. Tuy nhiên, kết quả thống kê mô  
tả cho thấy nếu cùng 1 KTV thì CLKT sẽ  
tăng dần theo từng năm và đạt cao nhất ở  
năm thứ 5. Từ năm thứ 6 CLKT bắt đầu  
giảm và giảm mạnh ở năm thứ 7.  
- Đối với Hội KTV hành nghề, các  
công ty kiểm toán:  
Hội KTV hành nghề (VACPA) cần  
tăng cường phối hợp công tác kiểm tra,  
kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên  
ngoài, đặc biệt cần chú trọng đến những  
hợp đồng kiểm toán những năm đầu.  
Những trường hợp kiểm toán không liên  
tục nhưng từ năm thứ 6 trở đi cũng cần  
được chú trọng kiểm soát chất lượng.  
5.2. Một số khuyến nghị  
- Đối với Chính Phủ, Bộ Tài chính:  
Theo điều 16 Nghị định 17/2012/NĐ-  
CP của Chính phủ ngày 13/3/2012 qui định  
chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật  
kiểm toán độc lập thì “Kiểm toán viên  
hành nghề không được ký báo cáo kiểm  
toán cho một đơn vị được kiểm toán quá ba  
(03) năm liên tục”. Quy định này của  
Đối với việc kiểm soát chất lượng từ  
bên trong, các công ty KT cần thận trọng  
hơn trong việc tiếp nhận khách hàng mới,  
tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện  
đội ngũ nhằm nâng cao trình độ KTV;  
đồng thời có những chính sách khuyến  
khích việc chia sẻ những kinh nghiệm,  
27  
MI QUAN H GIA LUÂN CHUYN KIM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN…  
(2009). Mandatory audit-partner rotation,  
những hiểu biết từ những KTV tiền nhiệm  
cho nhóm KTV mới nhằm mục tiêu vừa có  
thể tăng cường sự độc lập cho KTV nhưng  
vẫn đảm bảo KTV có được những hiểu biết  
cần thiết về khách hàng để cuộc KT đạt  
được chất lượng mong muốn.  
audit quality and market perception:  
Evidence from Taiwan. Contemporary  
Accounting Research, 26, 359-391.  
3. Dechow, R., Sloan, G., and Sweeney, A., P.  
(1995), “Detecting earnings management”.  
The Accounting Review, Vol.70 (2), pp.  
193-225.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
4. Jones, J. (1991) “Earnings Management  
During Import Relief Investigations.” Journal  
of Accounting Research 29, 193-228.  
1. Chen, C-Y., Lin, C-J., & Lin, Y-C. (2008).  
Audit partner tenure, audit firm tenure and  
discretionary accruals: Does long auditor  
tenure impair earnings quality? Contemporary  
Accounting Research, 25, 415-445.  
5. Sylvia Veronica Siregar, Fitriany Amarullah,  
Arie Wibowo and Viska Anggraita, Audit  
Tenure, Auditor Rotation, and Audit Quality:  
The Case of Indonesia.  
2. Chi, W., Huang, H., Liao, Y., & Xie, H.  
Ngày nhn bài: 20/9/2017  
Biên tp xong: 15/10/2017  
Duyệt đăng: 20/10/2017  
28  
pdf 9 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 220
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán – Nghiên cứu tại các công ty niêm yết ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_luan_chuyen_kiem_toan_vien_va_chat_luong_ki.pdf