Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM  
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ  
TS. Hoàng Ngoc Hải1 - TS. Hồ Thanh Thủy2 - TS. Phạm Thị Thủy3  
Tóm tắt: Triển khai tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (TNXHDN) không những sẽ giúp cho doanh  
nghiệp kinh doanh tốt mà còn hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết những vấn đề mang tính chiến lược liên quan  
đến kinh doanh và các vấn đề xã hội. Hoạt động TNXHDN không phải chỉ để làm cho doanh nghiệp cảm  
thấy hài lòng đơn thuần, không hẳn là những hoạt động quảng bá, từ thiện hay tài trợ nhỏ lẻ thông thường  
mà hoạt động này đòi hỏi tính liên tục, cam kết lâu dài cho lợi ích của doanh nghiệp và cho lợi ích của xã  
hội. TNXHDN cần được xem như là lợi ích của doanh nghiệp để họ chủ động triển khai hướng tới một cộng  
đồng doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả với sản phẩm thương hiệu được người tiêu dùng tín nhiệm, xây  
dựng được nguồn nội lực nhân tài quý giá, có vị thế và danh tiếng tốt trong xã hội... Chính vì vậy, nâng cao  
TNXHDN ở nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết.  
Abstract: Good implementation of corporate social responsibility (CSR) will not only help good business  
enterprises but also support businesses to solve strategic issues related to business and social issues. CSR  
activities are not only to make businesses feel satisfied simply, not necessarily the usual small promotional,  
charity or sponsorship activities that require continuity and long-term commitment. for the benefit of the  
business and for the benefit of society. CSR needs to be considered as an enterprise’s benefit for them to  
proactively deploy towards an effective business community with brand products trusted by consumers,  
build valuable internal resources, having a good position and reputation in society ... Therefore, raising CSR  
in our country in the context of international integration is an extremely important and necessary job.  
1. TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VÀ LỢI ÍCH THỰC TIỄN  
TNXHDN vẫn còn là một khái niệm mới đối với đa số doanh nghiệp Việt Nam. Đây là một  
yếu tố khá quan trọng, góp phần vào sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp, đồng thời mang  
lại lợi ích cho xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia trên thị trường quốc tế. TNXHDN được  
lồng ghép vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và trở thành điều kiện để doanh nghiệp  
phát triển, nâng cao và duy trì lợi thế cạnh tranh.  
Cho đến nay, thuật ngữ này đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một số học giả cho rằng  
“TNXHDN liên quan đến những quyết định và hành động được thực hiện mà ít nhất cũng vượt trên  
những lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, là những nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ giữa doanh  
1
Học viện Chính trị khu vực I.  
2
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.  
3
Trường Đại học Lao động – Xã hội.  
PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP  
315  
nghiệp và xã hội”. Caroll (1979) sau khi chỉ ra vai trò chủ yếu của mọi doanh nghiệp là tạo ra lợi  
nhuận bằng cách bán sản phẩm và dịch vụ cho xã hội, khẳng định: “TNXHDN bao gồm sự mong  
đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm  
nhất định”. Maignan và Ferrell (2004) cũng đưa ra một khái niệm súc tích về TNXHDN: “Một doanh  
nghiệp có trách nhiệm xã hội khi quyết định và hoạt động của nó nhằm tạo ra và cân bằng các lợi ích  
khác nhau của những cá nhân và tổ chức liên quan”. Trên thực tế, TNXHDN là một phạm trù rộng,  
có thể được hiểu và diễn đạt theo nhiều cách khác nhau. Hội đồng Kinh doanh Thế giới vì Sự Phát  
triển Bền vững (World Business Council for Sustainable Development) đã đưa ra một định nghĩa về  
TNXHDN. Định nghĩa này được sử dụng khá phổ biến, được coi là hoàn chỉnh và rõ ràng. TNXHDN  
là cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ  
chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương  
công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm…  
theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội.  
Từ năm 2003, khái niệm TNXHDN do Nhóm Phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng Thế  
giới đưa ra đã được chấp nhận và sử dụng rộng rãi nhất. Theo đó, “TNXHDN là sự cam kết của  
doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những việc làm nâng cao  
chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên trong gia đình họ; cho cộng đồng và toàn  
xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”…  
Qua một số cách định nghĩa trên đây đã cho thấy, dù cách thể hiện, hình thức diễn đạt ngôn từ  
có khác nhau, song nội hàm phản ánh của TNXHDN về cơ bản đều có điểm chung là, bên cạnh  
những lợi ích phát triển riêng của từng doanh nghiệp phù hợp với pháp luật hiện hành thì đều phải  
gắn kết với lợi ích phát triển chung của cộng đồng xã hội. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp  
phải gắn liền với vấn đề phát triển bền vững - một yêu cầu khách quan, cấp thiết, có tính toàn cầu  
của sự phát triển hiện nay. Khi cạnh tranh thương trường ngày càng khốc liệt, những yêu cầu, đòi  
hỏi từ khách hàng ngày càng cao và do vậy, xã hội có cái nhìn ngày càng khắt khe hơn đối với  
doanh nghiệp về bổn phận, trách nhiệm trước cộng đồng, xã hội thì các doanh nghiệp muốn phát  
triển bền vững phải luôn tuân thủ không chỉ những chuẩn mực về bảo đảm sản xuất - kinh doanh  
phải có lợi nhuận, thậm chí siêu lợi nhuận, mà còn cả những chuẩn mực về bảo vệ môi trường thiên  
nhiên, môi trường lao động, về thực hiện bình đẳng giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động,  
quyền lợi đào tạo và phát triển của nhân viên, góp phần phát triển cộng đồng, bao hàm cả các hoạt  
động thực hiện an sinh xã hội như nhân đạo, từ thiện,…  
Như vậy, nội hàm của TNXHDN bao gồm nhiều khía cạnh liên quan đến ứng xử của doanh  
nghiệp đối với các chủ thể và đối tượng có liên quan trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp,  
từ người sản xuất, tiếp thị, tiêu thụ, tiêu dùng đến các nhà cung ứng nguyên liệu, vật liệu tại chỗ;  
từ đội ngũ cán bộ, nhân viên cho đến các cổ đông của doanh nghiệp. Trong đó, có cả trách nhiệm  
về bảo vệ tài nguyên, môi trường mà về thực chất, cũng là có trách nhiệm chung với lợi ích cộng  
đồng xã hội, bao gồm cả những hoạt động nhân đạo, từ thiện, hoạt động đóng góp cho sự phát triển  
chung của đất nước.  
Do vậy, những người lãnh đạo doanh nghiệp thời nay phải là những người có tầm nhìn xa, trông  
rộng để hướng tới mục tiêu hoạt động toàn diện, không chỉ giới hạn bởi thặng dư, lợi nhuận kinh tế  
đơn thuần. Thước đo thành công của họ bắt nguồn từ những tác động mà họ tạo ra đối với nhu cầu  
316  
QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0  
xã hội. Các doanh nhân này cần tìm kiếm những giải pháp để thay đổi xã hội theo chiều hướng ngày  
càng tốt hơn và ngược lại, các doanh nghiệp của họ sẽ có những điều kiện để phát triển bền vững  
hơn. Lợi ích dài hạn chủ yếu của TNXHDN là cho chính nội bộ doanh nghiệp, như cải thiện quan hệ  
trong công việc, giảm bớt tai nạn, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất lao động. Ngoài ra,  
TNXHDN còn giúp nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng và các đối tác,  
tạo ra ưu thế trong cạnh tranh và thuận lợi trong việc kêu gọi đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài.  
Thực tiễn cho thấy, những doanh nghiệp thực hiện tốt TNXHDN sẽ không thua thiệt, mà  
thường đạt được những lợi ích đáng kể, bao gồm giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị thương  
hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất và thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới.  
Diễn giải cụ thể hơn, mỗi doanh nghiệp khi đã tự quyết định một cách tự nguyện về thực hiện  
trách nhiệm xã hội của mình, thì bên cạnh những đóng góp, chi phí vì lợi ích cộng đồng xã hội,  
đương nhiên, họ còn có những lợi ích riêng trong kinh doanh, thông qua các hoạt động của mình. Ở  
cấp độ doanh nghiệp, TNXHDN có thể góp phần nâng cao thương hiệu doanh nghiệp, giúp doanh  
nghiệp tăng thị phần và tạo thêm nhiều lợi nhuận hơn thông qua việc giúp doanh nghiệp tăng tính  
cạnh tranh theo một số cách sau đây:  
- Do TNXHDN liên quan đến việc thiết lập mối quan hệ mật thiết với các đối tác của doanh  
nghiệp như nhà cung cấp, khác hàng, người lao động, cộng đồng, v.v... bằng cách quan tâm đến  
những lợi ích của họ, doanh nghiệp có thể khiến các đối tác của mình hài lòng và kết quả là, doanh  
nghiệp có thể hưởng lợi từ những mối quan hệ mật thiết này. Chẳng hạn như, mối quan hệ mật  
thiết với các khách hàng có thể giúp doanh nghiệp nhận thức tốt hơn về những nhu cầu của họ, từ  
đó giúp doanh nghiệp trở nên cạnh tranh hơn trong việc đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm.  
- Trong một số trường hợp, TNXHDN có thể đem lại hiệu suất lớn hơn (chẳng hạn như tiết  
kiệm được chi phí từ việc ứng dụng các kỹ thuật giảm thiểu chất thải, và điều này có thể giúp  
doanh nghiệp có được giá cả cạnh tranh hơn).  
- Ngoài ra, khi TNXHDN khuyến khích các doanh nghiệp đảm bảo môi trường làm việc tốt  
cho người lao động, bao gồm bảo hiểm xã hội, an toàn lao động, đối xử bình đẳng, chăm sóc sức  
khoẻ định kỳ, v.v... Điều này có thể giúp các doanh nghiệp giữ chân được người lao động có kỹ  
năng, tăng hiệu suất lao động và thậm chí thu hút thêm người lao động có trình độ. Tất cả những  
yếu tố này được tin là sẽ giúp các doanh nghiệp cạnh tranh hơn trong việc thu hút lao động.  
- Việc lấy chứng chỉ về TNXHDN có nhiều lợi ích tiềm năng. Lợi ích trước mắt là có thêm  
đơn đặt hàng từ những công ty mua hàng đòi hỏi các tiêu chuẩn về CRS, còn lợi ích dài hạn là cho  
chính công ty như cải thiện quan hệ trong công việc, giảm chi phí, tăng năng suất lao động, giảm tỷ  
lệ nhân viên nghỉ, bỏ việc, giảm chi phí tuyển dụng và đào tạo nhân viên mới, tăng doanh thu, tăng  
giá trị, thương hiệu, và thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới. TNXHDN đối với phát triển  
kinh tế địa phương có thể tạo ra nguồn lao động tốt hơn, nguồn cung ứng rẻ và đáng tin cậy hơn.  
- TNXHDN tốt là yếu tố giúp thu hút nhân tài. Nhân viên là yếu tố quyết định năng suất và  
chất lượng sản phẩm. Việc thu hút nhân tài luôn được các công ty quan tâm. Có được những nhân  
viên tốt đã khó nhưng việc níu chân các nhân viên này còn khó khăn hơn nhiều. Điều này là cả  
một thách thức đối với các công ty. Những công ty trả lương thỏa đáng và công bằng, tạo cho nhân  
viên cơ hội đào tạo, bảo hiểm y tế và môi trường làm việc sạch sẽ có khả năng thu hút và giữ được  
PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP  
317  
nhân viên tốt. Những người chủ doanh nghiệp giỏi thường không lo lắng nhiều về những chi phí  
cho TNXHDN (lo sức khoẻ nhân viên và người nhà của họ, cho nhân viên vay tiền để mua xe, mua  
nhà, tổ chức nhà trẻ, trường học cho con cái họ…). Họ luôn tin rằng đó là khoản đầu tư sáng suốt.  
Ở cấp độ quốc gia, TNXHDN có thể góp phần xoá đói giảm nghèo thông qua những chương  
trình từ thiện do các doanh nghiệp thực hiện như đóng góp cho Quỹ vì người nghèo, Quỹ vì người  
tàn tật, v.v. Các chính sách về TNXHDN trong bản thân các doanh nghiệp như đối xử bình đẳng  
giữa nam giới và nữ giới, với lao động cũ và mới cũng đem lại công bằng xã hội nói chung. Và  
một đóng góp quan trọng nữa của TNXHDN ở cấp quốc gia là góp phần bảo vệ môi trường. Điều  
này được xem là một đóng góp rất quan trọng do tình trạng ô nhiễm môi trường hiện đang đe dọa  
cuộc sống con người hơn bao giờ hết và ngốn nhiều tiền của để xử lý vấn đề này.  
Khi cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đòi hỏi yêu cầu từ khách hàng ngày càng cao và xã hội có  
cái nhìn ngày càng khắt khe đối với doanh nghiệp thì các doanh nghiệp muốn phát triển bền vững  
phải luôn tuân thủ những chuẩn mực về bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường lao động, bình  
đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, đào tạo và phát triển nhân viên, góp phần phát  
triển cộng đồng,…  
Nếu chỉ tính trong ngắn hạn, lợi ích mà TNXHDN có thể đem lại là các đơn đặt hàng từ những  
công ty mua hàng đòi hỏi các tiêu chuẩn về TNXHDN. Tuy nhiên chi phí để áp dụng chương trình  
TNXHDN có thể làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Những người lãnh đạo có  
tầm nhìn xa trông rộng sẽ có mục tiêu hoạt động không chỉ giới hạn bởi lợi nhuận. Thước đo thành  
công của họ bắt nguồn từ tác động mà họ tạo ra đối với nhu cầu xã hội. Các doanh nhân này tìm  
kiếm những giải pháp để thay đổi xã hội theo chiều hướng tốt hơn và đổi ngược lại, doanh nghiệp  
của họ sẽ có những điều kiện để phát triển bền vững hơn. Lợi ích dài hạn chủ yếu của TNXHDN  
là cho chính nội bộ doanh nghiệp như cải thiện quan hệ trong công việc, giảm bớt tai nạn, giảm tỷ  
lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất lao động. Ngoài ra, TNXHDN còn giúp nâng cao uy tín của  
doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng và các đối tác, tạo ra ưu thế trong cạnh tranh và thuận  
lợi trong việc kêu gọi đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài.  
Tuy nhiên công ty không thể chỉ sống nhờ vào TNXHDN. Để phát triển lâu dài, công ty cần  
tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận và TNXHDN có thể song hành, thực tế là trong dài hạn, việc quản lý  
doanh nghiệp theo hướng có trách nhiệm với xã hội thường đem lại tăng trưởng bền vững và lợi  
nhuận lớn hơn.  
Có những e ngại rằng áp dụng TNXHDN ở DNVVN gặp nhiều khó khăn hơn những doanh  
nghiệp lớn vì các nguồn tài nguyên của DNVVN quá hạn chế không thể đáp ứng được những  
chương trình TNXHDN đắt tiền. Quan điểm đó không hoàn toàn chính xác, một doanh nghiệp nhỏ  
mới thành lập nếu muốn thành công và phát triển bền vững thì không thể không tham gia vào các  
hoạt động mang tính trách nhiệm đối với xã hội ngay từ đầu. Hơn nữa, chương trình TNXHDN  
không nhất thiết phải tốn kém. TNXHDN là quan trọng nhưng không phải ở tờ giấy chứng nhận  
mà ở chính quy trình thực hiện nó. Nếu doanh nghiệp chỉ chạy theo hình thức mà không thực thi  
nghiêm túc thì TNXHDN không còn ý nghĩa. Doanh nghiệp sẽ thành công trong việc áp dụng  
TNXHDN nếu có sự cam kết của ban lãnh đạo, thực sự hiểu rõ tầm quan trọng và lợi ích TNXHDN  
sẽ mang lại trong dài hạn và biến TNXHDN thành một phần văn hóa doanh nghiệp.  
318  
QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0  
Cần thấy rằng, nhận thức về TNXHDN ở các nền kinh tế thị trường phát triển hoặc khá phát  
triển trên thế giới hiện nay rõ ràng là không còn mới lạ, mặc dù trong thực tế, cho đến nay, không  
phải bất cứ doanh nghiệp, doanh nhân nào, dù ở những nền kinh tế phát triển nhất, như Mỹ, Nhật  
Bản, Đức,… cũng đều có thể thực hiện tốt TNXHDN mọi lúc, mọi nơi do những tác động cạnh  
tranh quyết liệt của quy luật giá trị, giá trị thặng dư và siêu lợi nhuận chi phối.  
2. THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ  
ĐANG ĐẶT RA  
Ở Việt Nam, việc thực hiện TNXHDN thường vẫn được xem là một hành động giải quyết các  
vấn đề xã hội vì các mục đích từ thiện và nhân đạo. Trong khi đó, TNXHDN nhìn chung phải được  
hiểu là cách thức mà một doanh nghiệp đạt được sự cân bằng hoặc kết hợp những yêu cầu về kinh  
tế, môi trường và xã hội đồng thời đáp ứng những kỳ vọng của các cổ đông và các bên đối tác.  
Cách thức mà doanh nghiệp tương tác với các cổ đông, người lao động, khách hàng, nhà cung cấp,  
chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế và các đối tác khác luôn được coi là một  
đặc điểm then chốt của khái niệm TNXHDN.  
Trước đây, khi nhìn vào sự thành công của một DN, nhiều người mới chỉ dừng lại ở việc xem  
xét các chỉ tiêu hữu hình như doanh số, lợi nhuận, mức lương trả cho nhân viên hay số thuế đóng  
góp cho ngân sách Nhà nước.  
Doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ phát triển bền vững cũng như khẳng định  
thương hiệu của mình trong xã hội. Do đó, đồng hành vào sự phát triển chung của đất nước,  
của cộng đồng không chỉ là trách nhiệm mà còn là lợi ích cho doanh nghiệp. Từ đó, tạo ra giá  
trị nhân văn, văn hóa doanh nghiệp cũng như tăng khả năng cạnh tranh trong bối cảnh hội  
nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Trong quy chế và tiêu chí xét thưởng của Giải thưởng trách  
nhiệm xã hội doanh nghiệp từ năm 2009 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam  
(VCCI) đề xuất, bên cạnh việc thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp ở hai lĩnh vực lao  
động và môi trường nhưng gần đây cũng đặt thêm tiêu chí “hoạt động kinh doanh có hiệu quả  
kinh tế”. Với các tiêu chí được VCCI đề xuất, đã cho thấy Việt Nam đang tiếp nhận và sử dụng  
khái niệm TNXH như đa số các tổ chức và doanh nghiệp khác trên thế giới. Ngoài hiệu quả  
kinh tế, các DN còn có lợi từ việc tạo dựng hình ảnh với đối tác kinh doanh, sự gắn bó và hài  
lòng của người lao động, thu hút lao động có chuyên môn cao. Hiện nay, gắn trách nhiệm xã  
hội với sự phát triển bền vững của DN đang là một xu thế tất yếu trên đường hội nhập của các  
DN, bởi trách nhiệm xã hội mang lại lợi ích cho DN, cho xã hội và nâng cao khả năng cạnh  
tranh của DN. Việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội chính là đầu tư cho chiến lược kinh doanh  
dài hạn và tăng trưởng bền vững của DN.  
Những năm gần đây, ở nước ta đã có một số doanh nghiệp chủ động thực hiện TNXHDN và  
nhờ đó, thương hiệu của họ càng được xã hội biết đến, như các tập đoàn: Mai Linh, Tân Tạo, ACB,  
Sacombank, Kinh Đô,… Từ năm 2005, Việt Nam đã có giải thưởng “TNXHDN hướng tới sự phát  
triển bền vững” được tổ chức bởi Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Bộ Lao  
động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương cùng các hiệp hội Da giày, Dệt may tổ chức nhằm  
tôn vinh các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác TNXHDN trong bối cảnh hội nhập.  
PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP  
319  
Chẳng hạn, tại Tổng Công ty Cổ phần May 10 thời gian qua luôn lấy người lao động là mục  
tiêu và động lực cho phát triển của doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp luôn tạo việc làm ổn định  
cũng như cải thiện điều kiện làm việc. Đồng thời, đầu tư trang thiết bị hiện đại, ứng dụng các phần  
mềm quản lý tiên tiến vào sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng, hạn chế những tác động xấu  
đến môi trường xung quanh. Mặc dù có lực lượng lao động lớn nhưng doanh nghiệp luôn đảm bảo  
đầy đủ về chế độ kèm theo đó là những chính sách an sinh về dài hạn. Từ đó, nhằm giúp người  
người lao động yên tâm gắn bó và cống hiến hết mình với doanh nghiệp. Trong bối cảnh, cạnh  
tranh lao động như hiện nay, việc chăm lo cho người lao động là một trong những yếu tố quyết  
định sự thành công của doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động như Tổng công ty May 10. Chính vì  
vậy, bên cạnh chăm lo đời sống cho người lao động, đây là doanh nghiệp duy nhất có trường mầm  
non, phòng khám đa khoa tương đương với bệnh viện cấp huyện, có trường cao đẳng đào tạo nghề  
cho người lao động.  
Có thể khẳng định, TNXHDN được du nhập vào Việt Nam thông qua các hoạt động đầu tư  
của các công ty đa quốc gia. Do đó hoạt động TNXHDN thường được các công ty này thực hiện  
bởi các bộ quy tắc ứng xử và chuẩn mực văn hóa kinh doanh và được thực hiện có bài bản, đạt hiệu  
quả cao. Chương trình cùng nhau làm sạch trái đất của công ty Ajinomoto Việt Nam, chương trình  
giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ em tại các tỉnh miền núi của công ty Unilever, chương trình khôi  
phục thị lực cho trẻ em nghèo của Western Union,... Còn các công ty trong nước tham gia thực hiện  
TNXH chủ yếu đến từ các công ty xuất khẩu, đây là đối tượng tiếp cận trực tiếp đến TNXH. Hầu  
hết các đơn hàng đến từ châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản đều yêu cầu các công ty Việt Nam áp dụng  
chế độ lao động tốt (tiêu chuẩn SA8000 đối với các doanh nghiệp dệt may) hay đảm bảo an toàn  
vệ sinh thực phẩm (đối với các doanh nghiệp nông nghiệp và thủy sản). Trong khi đó các doanh  
nghiệp nước ngoài hợp tác kinh doanh với các DN Việt còn yêu cầu đáp ứng các tiêu chuẩn quản  
trị công ty tốt (đối với các công ty tài chính và ngân hàng). Lao động trong nhiều doanh nghiệp FDI  
cũng ngày càng được quan tâm bảo vệ quyền lợi. Qua rà soát, đánh giá các điều khoản trong thỏa  
ước lao động tập thể của Liên đoàn Lao động tỉnh Bắc Giang thực hiện yêu cầu thành lập thư viện  
thỏa ước điện tử của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, có tới 80% thỏa ước trên địa bàn tỉnh này  
có từ 3 - 5 nội dung có lợi cho người lao động nằm ngoài các quy định bắt buộc của pháp luật lao  
động. Một số doanh nghiệp thực hiện nghiêm việc ký mới, ký lại hoặc bổ sung phụ lục phát sinh  
với điều khoản có lợi cho người lao động, như: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nichirin Việt Nam  
(Khu công nghiệp Quang Châu) có điều khoản cho phép công nhân nghỉ giữa ca để giảm căng  
thẳng; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Việt Pan Pacific (Thành phố Bắc Giang) khen thưởng lao  
động tích cực theo tuần, theo tháng; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Haem Vina (Khu công nghiệp  
Song Khê - Nội Hoàng) phát vitamin cho công nhân nữ có thai và ứng trước tiền lương 6 tháng  
nghỉ thai sản cho lao động nữ sinh con để bảo đảm chi phí sinh hoạt…  
Tuy nhiên, vẫn còn không ít doanh nghiệp chưa hiểu rõ hết vai trò quan trọng cũng như lợi  
ích từ việc thực hiện trách nhiệm xã hội đem lại nên đã không thực hiện nghiêm túc trách nhiệm  
xã hội của mình. Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, sản xuất hàng kém chất  
lượng, cố ý gây ô nhiễm môi trường để tối đa hóa lợi nhuận... Ngoài ra, nhiều DN vi phạm các quy  
định pháp luật về lương bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao động cho người lao động đã và  
đang gây bức xúc cho xã hội.  
320  
QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0  
Biểu hiện rõ nhất gần đây ở nước ta về tình trạng thiếu trách nhiệm xã hội, thiếu đạo đức, văn  
hoá trong sản xuất - kinh doanh của không ít các doanh nghiệp là đã để xảy ra hàng loạt các sự  
kiện liên quan đến các mặt hàng nông sản, thực phẩm không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm,  
thực phẩm bảo quản bằng foocmon, hàn the, rau được tưới các chất kích thích tăng trưởng, cá nuôi  
trong môi trường bị ô nhiễm, nông sản, thực phẩm chế biến sử dụng các chất bảo quản độc hại,  
dư lượng kháng sinh hay thuốc bảo vệ thực vật vượt quá tiêu chuẩn cho phép, các sản phẩm sữa  
nhiễm melamine - một chất độc hại gây ra sạn thận ở trẻ em, có thể dẫn tới tử vong.  
Đối với các doanh nghiệp FDI, bên cạnh những thành công kể trên, TNXHDN trong thời  
gian qua cũng bộc lộ nhiều bất cập, nổi bật là: Chất lượng chưa tương xứng với số lượng; các  
dự án FDI có công nghệ trung bình so với thế giới (80%), một phần đáng kể có công nghệ lạc  
hậu (14%) và chỉ có 6% có công nghệ cao. Ngay cả trong trường hợp thu hút một số tập đoàn  
công nghệ cao nổi tiếng toàn cầu như Nokia, Samsung,... công đoạn sản xuất tại Việt Nam là  
công đoạn cuối, tức là chỉ lắp ráp, không đòi hỏi lao động chất lượng cao và công nghệ tiên tiến.  
Ngoài ra, do nhiều dự án FDI đưa vào dây chuyền công nghệ lạc hậu, chưa tự giác trong việc  
tuân thủ quy định về bảo vệ môi trường, nên có tác động tiêu cực đến môi trường, như Công ty  
Vedan tại Đồng Nai, Công ty Tung Kuang tại Hải Dương, Công ty Long Tech tại Bắc Ninh và  
mới đây là Công ty Fomosa Đài Loan tại Hà Tĩnh... Đồng thời, việc các doanh nghiệp FDI khai  
thác bừa bãi thiếu quy hoạch các tài nguyên khoáng sản từ dầu khí đến than đá, quặng,… đã và  
đang gây tổn thất lớn nguồn tài nguyên không tái tạo được của Việt Nam.  
Mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn yếu, không hỗ trợ  
nhiều cho khu vực doanh nghiệp trong nước phát triển. Tỷ lệ sản phẩm đầu vào được mua từ  
các nhà chế biến chế tạo trong nước ở tất cả loại hình doanh nghiệp FDI là tương đối thấp. Các  
doanh nghiệp FDI nhập khẩu phần lớn thành phần đầu vào thông qua công ty mẹ hay nhập trực  
tiếp, chỉ số ít sử dụng đầu vào từ các doanh nghiệp tư nhân trong nước. Hiện tượng thất thu thuế  
và chuyển giá trên thực tế là nghiêm trọng.  
Bên cạnh đó, nhiều dự án FDI còn để xảy ra tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội, tranh  
chấp lao động, với hàng ngàn cuộc đình công đòi quyền lợi về lương, thưởng, thời gian làm  
thêm, nghỉ giữa giờ và các chế độ phúc lợi khác (lương thấp, nhà ở không bảo đảm, chất  
lượng bữa ăn kém, tiền đi lại, phụ cấp nuôi con nhỏ, phụ cấp thâm niên…) giữa những lao  
động và người sử dụng lao động... Đặc biệt, tình trạng lao động trong các khu doanh nghiệp  
có vốn FDI bị thất nghiệp sau tuổi 35 đang trở thành xu hướng gia tăng đáng báo động về  
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với lao động và áp lực an sinh xã hội từ khu vực  
doanh nghiệp FDI…  
Thực tế còn cho thấy, nhiều công ty hay tập đoàn đang coi trách nhiệm xã hội với môi  
trường và lao động là một “gánh nặng” hoặc chỉ là cách thức hoạt động Maketing, tạo hình ảnh  
làm sao để có lợi cho doanh nghiệp nhất; không ít các doanh nghiệp đã để xảy ra hàng loạt các sự  
kiện liên quan đến các mặt hàng nông sản, thực phẩm không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm  
và gây hệ lụy tiêu cực đến môi trường; hơn nữa, không nên ngộ nhận và không nên đồng nhất việc  
doanh nghiệp làm từ thiện nhiều đã là thực hiện tốt trách nhiệm xã hội.  
PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP  
321  
3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM CẢI THIỆN MỨC ĐỘ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP  
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP  
* Về phía doanh nghiệp  
Một là, thành lập đội chuyên trách về TNXHDN  
Thực tế thường gặp ở các công ty Việt Nam là các hoạt động TNXHDN thường không được  
thực hiện một cách nhất quán và thường xuyên. Lý do căn bản là trong doanh nghiệp không có đơn  
vị chuyên trách về TNXHDN. Vì vậy, để nâng cao hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, cần  
thành lập đội chuyên trách về TNXHDN.  
Theo đó, đội chuyên trách này cần có quy mô và thành phần phù hợp với cơ cấu tổ chức của  
doanh nghiệp, bao gồm các bộ phận liên đới đến vấn đề trọng tâm về TNXHDN đã lựa chọn. đội  
chuyên trách về TNXHDN có thể được thành lập gồm 5-7 thành viên, mỗi thành viên thuộc một  
bộ phận chức năng (tổng hợp, tài chính kế toán, kế hoạch thị trường, kỹ thuật - KCS,…), đặc biệt  
đội chuyên trách này cần có một thành viên nằm trong ban giám đốc công ty. Sở dĩ như vậy là vì  
các chính sách và chương trình TNXHDN chỉ có thể được thực hiện và có tính bền vững nếu có sự  
cam kết cao của các nhà quản trị công ty.  
Mặt khác, trong đội chuyên trách, các thành viên cũng cần có hiểu biết chung về TNXHDN,  
có thể thuê thêm chuyên gia bên ngoài tham gia với tư cách là thành viên kiêm nhiệm để tư vấn cho  
đội chuyên trách và công ty về những vấn đề TNXHDN được coi là điểm nóng cần giải quyết ngay.  
Việc thành lập đội chuyên trách có thể phát sinh chi phí cho doanh nghiệp nhưng đây là việc  
làm cần thiết đối với doanh nghiệp khi ở giai đoạn bắt đầu thực thi TNXHDN, khi mà những  
nguyên tắc, quy chuẩn về TNXHDN chưa được người lao động hiểu rõ, khi mà những hoạt động  
TNXHDN chưa được thực hiện một cách có hệ thống. Sau này, khi các hoạt động của công ty đã đi  
vào nề nếp, khi người lao động đã có nhận thức tốt và chủ động thực thi các hoạt động TNXHDN  
thì các thành viên của đội chuyên trách có thể trở về hoạt động tại các bộ phận của mình. Có thể  
nói, hình thức hoạt động của đội chuyên trách giống như nhóm dự án, đảm bảo tính linh hoạt và  
chuyên nghiệp của đội.  
Hai là, lập kế hoạch chiến lược về TNXHDN  
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp nên lập kế hoạch chiến lược  
về TNXHDN vì chỉ khi có chiến lược, doanh nghiệp mới xác định rõ mục tiêu cũng như con đường  
để thực hiện TNXHDN một cách chủ động và mang tính lâu dài. Trong công tác lập kế hoạch chiến  
lược, ban quản trị công ty với sự giúp sức của đội chuyên trách về TNXHDN có thể thực hiện một  
số bước sau: Xác định tầm nhìn về TNXHDN của doanh nghiệp; Phân tích thực trạng TNXHdoanh  
nghiệpvà các yếu tố môi trường tác động để xác định thứ tự ưu tiên của các vấn đề liên quan đến  
TNXHDN, những điều kiện về nguồn lực dành cho việc thực hiện TNXHDN; Đề xuất một số  
giải pháp tổng thể để thực hiện TNXHDN, nói cách khác, đây chính là các hoạt động TNXHDN  
cụ doanh nghiệpcần triển khai; Phân tích và lựa chọn một vài giải pháp phù hợp; Chi tiết hóa các  
chương trình TNXHDN và phổ biến đến toàn thể người lao độ doanh nghiệp.  
Ba là, tạo điều kiện để người lao động tham gia nhiều hơn vào các hoạt động TNXHDN  
322  
QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0  
* Về phía các cơ quan quản lý nhà nước:  
Tăng cường tuyên truyền đối với các doanh nghiệp về nghĩa vụ và lợi ích của việc thực  
hiện TNXHDN. Việc tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua nhiều hình thức, như qua các  
phương tiện thông tin đại chúng, các đợt tập huấn bắt buộc cho lãnh đạo các doanh nghiệp, các hội  
nghị, hội thảo khoa học... Hơn nữa, việc tuyên truyền này cần được mở rộng đến cả các cơ quan  
quản lý nhà nước có liên quan, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách vĩ mô... Đồng thời,  
nội dung của việc thực hiện TNXHDN, các thông tin cập nhật về các bộ quy tắc ứng xử, các tiêu  
chuẩn trách nhiệm xã hội liên quan phải được phổ biến đầy đủ và rõ ràng đến các doanh nghiệp.  
Phân định rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể liên quan  
trong việc hoạch định chính sách, thông tin, tuyên truyền, kiểm tra, xử lý sai phạm của các doanh  
nghiệp đối với các vấn đề liên quan đến TNXHDN nói chung, trách nhiệm đối với thị trường,  
người tiêu dùng và việc bảo vệ môi trường nói riêng. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà  
nước với các chủ thể khác có liên quan cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, bởi trách nhiệm xã  
hội của doanh nghiệp chỉ được coi trọng và trở nên cấp thiết khi có cơ chế giám sát đồng bộ, có  
sự kết hợp giữa chính quyền và các lực lượng dân sự trong xã hội, đặc biệt là các hiệp hội, tổ chức  
phi chính phủ và các phương tiện truyền thông, báo chí.  
- Ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã  
hội. Đặc biệt, cần quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản thực, phẩm trong  
việc thực hiện các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, sản xuất theo công nghệ sạch.  
- Cần có các biện pháp đủ mạnh để xử lý vi phạm của các doanh nghiệp trong việc thực hiện  
trách nhiệm xã hội, nhất là đối với các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng nông sản, thực phẩm  
không bảo đảm chất lượng, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng và  
gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời, cần tăng cường các hình thức khuyến khích, động viên, khen  
thưởng đối với các doanh nghiệp tự giác và thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, như giải thưởng trách  
nhiệm xã hội, thương hiệu “xanh”, cấp chứng chỉ cho các doanh nghiệp bảo đảm các yêu cầu liên  
quan đến các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội trong các bộ quy tắc ứng xử được áp dụng...  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1.  
Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, “TNXHDN: một số vấn đề lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt  
Nam”, Tạp chí Quản lý kinh tế, Số 4, 2008.  
2.  
Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư. “Tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh  
nghiệp đối với người tiêu dùng và đối với môi trường ở Việt Nam vì sự phát triển bền vững”, Chủ nhiệm đề tài  
PGS.TS. Nguyễn Đình Tài, 2009.  
3.  
Trần Anh Phương, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực tiễn vận dụng ở Việt Nam hiện nay”, Tap chí  
Triết học, số 8 (219), tháng 8 – 2009.  
pdf 9 trang baolam 12/05/2022 3220
Bạn đang xem tài liệu "Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftrach_nhiem_xa_hoi_cua_cac_doanh_nghiep_viet_nam_trong_boi_c.pdf