Đào tạo nghề cho các lao động ở nông thôn trong thời kì hội nhập
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO CÁC LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN
TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP
VOCATIONAL TRAINING FOR RURAL LABOR IN THE INTEGRATION PERIOD
TS. Nguyễn Thị Thu Thủy
Trường Đại học Thương mại
Tóm tắt
Tham gia TPP sẽ mang đến cơ hội rất lớn cho nông nghiệp của Việt Nam khi được tiếp
cận với một thị trường xuất khẩu rộng lớn với nhiều mặt hàng xuất khẩu nông nghiệp chủ lực của
Việt Nam có mức thuế bằng 0%. Nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành nông nghiệp nói
riêng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức khi phải chịu sức ép cạnh tranh lớn với hàng nhập
khẩu ngay trên thị trường trong nước. Để nắm bắt kịp thời các cơ hội, để từ đó đổi mới và phát
triển nông nghiệp thành công thì các lao động ở nông thôn cần phải đổi mới cho phù hợp với
những yêu cầu cũng như thách thức mới trong thời kì hội nhập. Mục tiêu của bài viết là nêu lên
thực trạng của lao động nông thôn trong bối cảnh hiện tại để từ đó đưa ra một số giải pháp đào
tạo nghề cho lực lượng lao động ở nông thôn sao cho phù hợp với thời kì hội nhập sâu rộng như
hiện nay của nền kinh tế.
Từ khóa:đào tạo nghề, lao động nông thôn, thời kỳ hội nhập.
Abstract
Joining the TPP will bring great opportunities for Vietnam's agriculture when accessing
to a vast export market with major agricultural exports of Vietnam with 0% tariff. However,
Vietnam economy in general and agriculture in particular will face many challenges when they
must compete to imported goods in the domestic market. To seize timely opportunities in order to
innovate and develop the agriculture successfully, rural workers need to innovate to suit the
requirements as well as new challenges in the integration period. The goal of the article is to
analyze the status of rural workers in the current context; on that basis, a number of solutions for
vocational training for the labor force in rural areas in the current period of deep international
economic integration are proposed.
Key words:vocational training, rural labor, integration period.
749
1. MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một xu thế khách quan. Sự gia tăng mạnh mẽ
của toàn cầu hóa kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược, hội
nhập phù hợp với nền kinh tế thế giới và khu vực. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-
NQ/TW về hội nhập quốc tế, khẳng định “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng
chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện thắng lợinhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa” (Nghị quyết của Bộ chính trị về hội nhập quốc tế, 2013). Việc đẩy mạnh
tham gia hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực là một vấn đề quan trọng trong công cuộc
đổi mới.Cụ thể là Việt Nam đã tham gia vào hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình
Dương (Trans - Pacific Partnership - TPP). Quy mô của TPP sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho nền
kinh tế Việt Nam vềcác lĩnh vực quan trọng như tài chính ngân hàng, đầu tư, viễn thông và
thương mại điện tử, xuất khẩu hàng hóa,… Tham gia TPP sẽ mang đến cơ hội rất lớn cho nông
nghiệp của Việt Nam khi được tiếp cận với một thị trường xuất khẩu lớn hơn, với nhiều mặt hàng
xuất khẩunông nghiệp mà có mức thuế bằng 0%. Hơn nữa, vấn đề đầu tư xuyên quốc gia đi kèm
với khoa học công nghệ tiên tiến và nâng cao trình độ năng lực lao động sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho nâng cao quy mô phát triển sản xuất, đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu ngành theo hướng
phát triển bền vững và nâng cao giá trị sản phẩm.
Bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức không nhỏ
ví dụ như vấn đề lao động khi tham gia hiệp định TPP.Cụ thể, ngành nôngnghiệp sẽ phải đối mặt
với nhiều thách thức khi phải chịu sức ép cạnh tranhlớn với các mặt hàng nhập khẩu ngay cả trên
thị trường ở trong nước. Mặc dù sẽ cắt giảm thuế khi tham gia TPP, nhưng tại nhiều nước vẫn
còn hàng rào phi thuế cao, các quy định khác của TPP về bảo vệbản quyền (giống, thuốc bảo vệ
thực vật, phân bón, thuốc thú y), lao động, nguồngốc xuất xứ, bảo vệ môi trường cũng rất chặt
chẽ. Vì vậy, TPP cũng có thểsẽ tạo ra những yếu tố có thể kìm hãm phát triển nông nghiệp Việt
Nam hiện tại.
Để nắm bắtkịp thời các cơ hội, để từ đó đổi mới và phát triển nông nghiệp thành công thì
chủ thể trực tiếp là nông dân cần phải đổi mới cho phù hợp với những yêu cầu cũng như thách
thức mới trong thời kì hội nhập.Khó khăn lớn nhất đốivới nông dân và lao động nông nghiệp nói
chung là hầu như chưa được đào tạonghề, dẫn đến còn nhiều hạn chế về trình độ lao động và áp
dụng kỹ thuật công nghệ trongsản xuất nông nghiệp. Điều này đồng thời dẫn đến năng suất và
chất lượng sản phẩm cósức cạnh tranh thấp. Ngoài ra, việc thực hiện kiểm soát chất lượng, vệ
sinh an toàn thực phẩm còn lỏng lẻo, thiếu các chế tài và biện phápngăn chặn, phòng ngừa. Nên
đây có thể là các rào cản ngăn chặn khả năng xuất khẩu nông sản ViệtNam sang thị trường các
nước.
Bài viết này chỉ ra thực trạng của việc đào tạo nghề cho các lao động nông thôn tại Việt
Nam, và đề xuất một số biện pháp để khắc phục các điểm yếu của hiện trạng này nhằm mục đích
nâng cao chất lượng lao động tại nông thôn cho phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế chung
của cả nền kinh tế.
750
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO CÁC LAO ĐỘNG Ở NÔNG
THÔN
Vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã được Đảng và Nhà nước rất quan tâm
trong giai đoạn hiện nay, khi mà đất nước có sự hội nhập sâu rộng vào thị trường quốc tế thông
qua các hiệp định của TPP. Cụ thể là, theo [1], Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số
1956/QĐ-TTg để phê duyệt các đề án cho việc đào tạo các lao động nông thôn đến năm 2020. Đề
án này là các căn cứ để các bộ ban ngành hoạch định các chính sách và có các chiến lược đào tạo,
nâng cao tay nghề cho lao động nông thôn, ví dụ như Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã có
các công văn tương ứng để chỉ đạo các công tác dạy nghề cho lao động nông thôn của Tổng cục
dạy nghề [3].
Việc nghiên cứu về vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn cũng được đề cập bởi
nhiều chuyên gia từ các Trường, Học viện, Tổ chức chính trị xã hội khác nhau thông qua các
công bố nghiên cứu và tại các hội thảo các cấp. Theo tổng cục trưởng tổng cục dạy nghề Nguyễn
Tiến Dũng [10], số lao động đang làm việc trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân là trên 47
triệu người, trong đó lao động đang làm việc trong nông thôn chiếm gần 70%, làm việc trong lĩnh
vực nông nghiệp chiếm 51%. Hơn thế nữa, các vấn đề về đào tạo nghề cho lao động nông thôn
cũng được đưa vào nghị quyết của đại hội đảng bộ các tỉnh, thành phố [10].
Khi Việt Nam tham gia vào hiệp định TPP, thị trường lao động có nhiều cơ hội, nhưng
cũng gặp không ít các thách thức. Cụ thể là, theo [7,11] có tới 47,7% số người trong độ tuổi lao
động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; nhưng chỉ có 3% trên 16% số lao
động (ở các loại nghành nghề khác nhau) được đào tạo các nghề có liên quan đến lĩnh vực này.
Điều này cho thấy cơ cấu trên thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay còn bộc lộ nhiều dấu hiệu
bất ổn, nhất là đối với các lao động ở vùng nông thôn.
Cũng theo [11, 12], mặc dù có những điều chỉnh lớn trong lực lượng lao động nông thôn,
xu hướng chuyển dịch lao động dư thừa từ nông thôn ra thành thị mới chỉ dừng lại ở mức độ rất
thấp và những chính sách về thị trường lao động đã tạo ra những rào cản lớn ngăn cách nông thôn
với thành thị. Hơn nữa, năng suất lao động nông nghiệp nước ta thấp hơn vài chục lần so với các
nước phát triển hơn trong ASEAN và thấp hơn hàng trăm lần so với các nước G20. Chính vì vậy,
việc cải thiện năng suất lao động cũng là một trong các vấn đề cần phải quan tâm trong trong các
chính sách và các chiến lược đào tạo cho các lao động ởnông thôn để cải thiện vấn đề này.
Có thể nói rằng các nghiên cứu đều đã chỉ ra các rào cản và hạn chế của lao động nông
thôn trong thời kì hội nhập. Tuy nhiên cần có nhưng nghiên cứu cụ thể về thực trang của vấn đề
đào tạo nghề để từ đó khuyến nghị các giải pháp tương ứng cho các lao động nông thôn trong giai
đoạn hội nhập hiện nay.
3. THỰC TRẠNG CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN VÀ ĐÀO TẠO NGHỀ
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
Hội nhập khu vực đang thể hiện vai trò chủ đạo với nhiều hình thức phong phú, đa dạng,
đặc biệt là tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Tham gia Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam có
thêm điều kiện để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hộinâng cao vị thế của Việt Nam trên
751
trường quốc tế. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ gặp không ít cơ hội và thách thức, đặc biệt là trong vấn
đề lao động nói chung và lao động ở nông thôn nói riêng.
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật là một trong các yêu cầu tất yếu của quá trình
hội nhập. Tuy nhiên, theo báo cáo của Tổng Cục Thống kê (2015), tỷ trọng lực lượng lao động đã
qua đào tạo ở nước ta vẫn còn rất thấp. Cụ thể là chỉ tính riêng năm 2014 thì trong tổng số 52,7
triệu người có việc làm của cả nước, chỉ có 9,6 triệu người có việc làm được đào tạo, chiếm
18,2% tổng số người có việc làm. Việc làm vẫn tiếp tục bị dồn nén trong khu vực nông nghiệp
với năng suất thấp, năm 2011 tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm 48,4% thì đến quý 2/2015tỷ lệ
lao động nông nghiệp chiếm đến 44,7% (xem Bảng 1).
Bảng 1. Phân bố phần trăm lao động có việc làm theo nhóm ngành kinh tế
(Đơn vị: %)
Năm
Nông, lâm, thủy sản
Công nghiệp và Xây
Dịch vụ
dựng
21,3
21,1
21,2
21,3
22,1
2011
2012
2013
48,4
47,4
46,8
46,3
44,7
30,3
31,4
32,0
32,4
33,2
2014
Quý 2/2015
(Nguồn Tổng cục Thống kê -2015)
Ở nông thôn hiện nay, những việc được cha truyền con nối hầu hết là những lao động giản
đơn, lao động mùa vụ. Chính vì vậy các công việc lao động này luôn được thể hiện qua các tác
phong làm việc chậm chạp, thiếu sự sáng tạo. Hơn thế nữa, bản thân nhiều người nông dân
cũngkhông có nhu cầu và khả năng gia tăng quy mô đất đai, tạo dựng những trang trại sản xuất
quy mô lớn để có cơ hội tiếp cận công nghệ hiện đại. Chính những điều này có thể kéo theo nguy
cơ mất việc của lao động nông thôn. Tư duy ngại thay đổi, trì trệ cũng đang làm cản trở những
thăng tiến nghề nghiệp khi các lao động nông thôn này cần thay đổi chỗ làm.
Theo báo cáo của tổng cục thống kê (2015), việc chuyển dịch việc làm từ nông thôn ra đô
thị cũng còn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể là tính đếnthời điểm quý 2/2015 thì khu vực thành thị có
15,73 triệu người có việc làm (giảm 663 nghìn người so với quý 1/2015). Khu vực nông thôn có
36,81 triệu người có việc làm (tăng 766 nghìnngười so với quý 1/2015.Tham gia TPP sẽ gópphần
thúc đẩy nhanh tốc độ di chuyển lao động từ nông thôn tới thành phố và các khucông nghiệp. Do
vậy sức ép về việc làm ở các khu đô thị sẽ tăng lên. Với tình trạngchuyển dịch lao động chậm
chạp như hiện nay thì vấn đề mất cân bằng giữa cungvà cầu lao động sẽ có nguy cơ trở nên trầm
trọng hơn dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cónguy cơ tăng cao (xem Bảng 2).
Ngoài những yếu tố bất lợi kể trên thì rủi ro mất việc do có sự phá sản của các nông hộ
cũng là yếu tố cần phải kể đến. Nền nông nghiệp nước ta phổ biến là sản xuất nhỏ, quy mô hộ gia
đình là chủ yếu, trình độ kỹ thuật lạc hậu cùng với những ràng buộc về vốn sản xuất. Do vậy,
không thể ứng dụng được những kỹ thuật, công nghệ hiện đại, phương pháp sản xuất tiên tiến vào
quá trình cung ứng chuỗi sản phẩm nông nghiệp.
752
Bảng 2. Cơ cấu lao động theo thành thị/nông thôn
(Đơn vị: triệu người)
2014
2015
Quý 1
52,83
15,55
37,29
Quý 2
53,26
15,81
37,45
Quý 3
53,44
15,88
37,56
Quý 1
42,43
16,39
36,04
Quý 2
52,53
15,73
36,81
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
(Nguồn Tổng cục Thống kê -2015)
Các hộ nông dân thường là sản xuất với quy mô nhỏ, do đó họ thường phải chịu rủi ro rất
lớn về dịch hại, thời tiết, năngsuất quá thấp, chất lượng giống thấp, chi phí đầu vào cao. Hơn thế
nữa việc liên kết chuỗi cung ứng sản phẩm hầu nhưkhông có, rất nhiều khâu trung gian khi đưa
sản phẩm đến được người tiêudùng,... khiến cho giá thành sản phẩm bị đội giá lên rất cao, khó
cạnh tranh đượcvới dòng sản phẩm ngoại sẽ chảy ồ ạt vào Việt Nam khi TPP có hiệu lực do
hầuhết các mặt hàng nông sản xuất khẩu được giảm thuế về 0%, hoặc còn duy trì ởmức thấp.
Như vậy, lao động nông thôn có nguy cơ cao bị mấtviệc, đồng thời có thể phải gánh chịu các
thiệt hại kinh tế to lớn do mất thị trườngvào doanh nghiệp nhập khẩu hoặc số ít các doanh nghiệp
lớn trên thị trường.
Ngoài ra, quy trình sản xuất theo lối nhỏ lẻ, manh mún cũng khiến chất lượng nông sản
khóđồng nhất. Mọi nguyên liệu để sản xuất nông sản hầu như phụ thuộc vào nhà cung cấp từ
Trung Quốcvới chất lượng chưa được kiểm soát cũng khiến cho nông sản Việt Nam khó vượt qua
được các đợt kiểm tra chất lượng đột xuất. Việc lượng tồn dư chất hóa học,kháng sinh, vi sinh vật
trong nông sản khiến hàng xuất khẩu bị trả lại, gây thiệthại rất cao.
Nhận thức rõ được các cơ hội cũng như các nguy cơ có thể tác động đếnnông nghiệp và
lao động nông thôn, Chính phủ Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lựctrong việc xây dựng, củng cố nền
tảng tri thức nghề nghiệp cho đội ngũ lao độngnày. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều bất cập trong
công tác đào tạo nghề cho laođộng nông thôn hiện nay.
Hiện tại theo báo cáo của Cục thống kê (2015), lực lượng lao động ở khu vực nông thôn
chiếm tỷ lệ xấp xỉ 69%trong tổng số lao động cả nước. Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Pháttriển
nông thôn chỉ ra rằng, mỗi năm sẽ có khoảng 2 triệu lao động nông thôn cần đượcđào tạo nghề để
chuyển đổi sang các ngành nghề khác mà không phải là làm nông nghiệp.
Không chỉ hạn chế về trình độ chuyên môn kỹ thuật màlao động Việt Nam nói chung và
lao động ở nông thôn nói riêngkhi làm việc với các doanh nghiệp nước ngoài (xuất khẩu lao
động) cũng không được đánh giá cao về kỹ năng. Theo công bố của Ngân hàng Thế giới(2012)
về kết quả khảo sát về mức độ đáp ứng các kỹ năng của các lao động Việt Nam so với yêu cầu
của nhà tuyển dụng tại 7 quốc gia Đông Á thì thái độ làm việc của lao động Việt Nam được đánh
giá ở mức thiếu hụt nghiêm trọng. Một trong các điểm yếu của lao động Việt Nam là thiếu các
kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng công nghệ thông tin, kỹ năng lãnh đạo, kỹnăng giải quyết vấn
đề. Ý thức về chất lượng vàđúng giờ/đáng tin cậy là những kỹ năng thiếu hụt lớn nhất. Ngoài ra
753
còn thiếu những kỹ năng về khả năng thích nghi với những thay đổi, khả năng làm việc nhóm,
khảnăng nhận biết tiếp thu và ứng dụng công nghệ mới, kỹ năng máy tính cơ bản…
Thực trạng của công tác đào tạo nghề cho các lao động ở nông thôn
Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước ta chưa được coi trọng đúng mức.
Xã hội nhận thức chưa đầy đủ về đào tạo nghề cho lao động nông thôn, coi việc đào tạo nghề chỉ
mang tính thời điểm, không phải là vấn đề quan tâm thường xuyên, liên tục và có hệ thống. Công
tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn cầm chừng, việc điều tra, khảo sát và dự báo nhu
cầu dạy nghề cho lao động nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, bản thân nhiều nông dân
chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc đào tạo nghề nên không mặn mà với các trung
tâm dạy nghề. Các gia đình ở nông thôn thường mong muốn các em học cao hơn và chỉ tính đến
việc cho con em mình theo học nghề khi không đủ điểm hoặc điều kiện để theo học bất kỳ hệ đào
tạo nào khác. Theo báo cáo của tổng cục thống kê, công tác đào tạo nghề mới chỉ thu hút được
25% số lao động trẻ ở nông thôn tham gia, và tỷ lệ này còn thấp hơn ở nhóm lao động đã có tuổi
(trên 35 tuổi).
Để giải quyết thực trạng này, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ-
TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (Đề án 1956). Trong
đó đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng
lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đề
án cũng đã đề ra mục tiêu tổng quát: “Bình quân hằng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao
động nông thôn, trong đó đào tạo, bồi dưỡng 100.000 lượt cán bộ, công chức xã. Nâng cao chất
lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của lao độngnông thôn; góp
phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn…”.
Đề án được triển khai thực hiện từ năm 2010 và các địa phương đã có những hoạt động
thiết thực, sáng tạo, và đã đưa ra nhiều mô hình dạy nghề và hình thức dạy nghề thích hợp. Ví dụ
như, theo [10], mô hình đào tạo nghề cho lao động ở các vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu
cho các cây công nghiệp như thuốc lá, chè… (có sự phối hợp giữa địa phương và các doanh
nghiệp); mô hình dạy nghề cho lao động trong các làng nghề (sự phối hợp giữa địa phương, các
cơ sở dạy nghề và các làng nghề); mô hình dạy nghề ngắn hạn cho người nông dân ở cộng đồng
(sự phối hợp giữa địa phương, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các trung tâm khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư)…
Hoạt động dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn không chỉ huy động các cơ sở
chuyên dạy nghề mà còn thu hút được sự tham gia của các viện nghiên cứu, các trường đại học;
sự tham gia giảng dạy của những lao động kỹ thuật từ các doanh nghiệp; những nghệ nhân, người
có tay nghề cao trong các làng nghề… Bản thân người nông dân và lao động nông thôn là những
đối tượng được thụ hưởng chính sách cũng đã tích cực, ủng hộ chủ trương của Chính phủ, từ
việc xác định được nhu cầu học nghề của mình phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương đến việc tham gia đầy đủ các khóa đào tạo.
754
Các hạn chế trong công tác đào tạo nghề cho các lao động ở nông thôn
Mặc dù công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên,
kết quả, hiệu quả dạy nghề cho lao động nông thôn chưa đạt được như mục tiêu của Đề án. Việc
xác định danh mục nghề đào tạo cho lao động nông thôn còn dàn trải, chưa xuất phát từ quy
hoạch sản xuất nông nghiệp, quy hoạch xây dựng nông thôn mới và yêu cầu làm nông nghiệp tiên
tiến hiện đại gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Một số địa phương, nhu cầu về công nhân kỹ thuật công nghiệp tại các huyện thị khá cao,
trong khi ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn lại qua tập trung vào các kỹ thuật nông
nghiệp. Hoặc ở một số nơi, hệ thống các khu công nghiệp phát triển nhanh, nhu cầu công nhân
lành nghề về công nghiệp nặng tăng nhưng tỉnh lại mở các lớp may công nghiệp, trồng cây cảnh,
hoặc nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, có tình trạng đúng chuyên môn đào tạo nhưng chất lượng
nguồn nhân lực thấp không đáp ứng được nhu cầu lao động của doanh nghiệp. Thực trạng đó đã
gây ra tình trạng vừa thừa, vừa thiếu không đáp ứng được nhu cầu lao độngthực tế của địa
phương. Nhiều lao động đã được đào tạo nghề nhưng khi làm việc tại các doanh nghiệp, khu
công nghiệp lại không đáp ứng đủ tiêu chuẩn.
Ở một số địa phương thí điểm sát nhập cơ sở giáo dục dạy nghề với Trung tâm giáo dục
thường xuyên, nhưng thực hiện không thống nhất, lúng túng trong trong tổ chức hoạt động, chưa
phát huy được số biên chế cán bộ, giáo viên đông đảo của trung tâm giáo dục thường xuyên và
dạy nghề, giới thiệu việc làm cho người lao động trên địa bàn. Công tác kiểm tra, giám sát, thống
kê kết quả, hiệu quả dạy nghề cho lao động nông thôn còn hạn chế, nhất là ở cấp xã.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách đối với giáo viên, giảng viên dạy nghề còn nhiều
bất cập. Để nâng cao trình độ cho lao động nông thôn, trong quá trình dạy nghề nông dân cần
phải được tiếp cận với tri thức khoa học tiên tiến hiện đại trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều này
đòi hỏi đội ngũ giáo viên giảng viên phải có trình độ chuyên môn cao cũng như cách tiếp cận phù
hợp đối với đối tượng người học có trình độ hạn chế. Đồng thời, các cơ sở đào tạo phải được
trạng bị các phương tiện giảng dạy đồng bộ.
4. GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO NGHỀ CHO CÁC LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN
TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP
Qua việc phân tích thực trạng đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiện nay cũng như các
thách thức mà nông dân Việt Nam đang phải đối mặt khi đất nước trong quá trình hội nhập, có
thể thấy quá trình công nghiệp hoá, và hội nhập quốc tế đã, đang và sẽ làm “dôi dư” một lượng
lao động nông nghiệp lớn và đồng thời tạo ra các yêu cầu nguồn lao động phi nông nghiệp
khác.Như vậy, một lượng lao động nông nghiệp buộc phải chuyểnsang các nghề khác tại nông
thôn hoặc trở thành lao động công nghiệp. Mặt khác,để đảm bảo an ninh lương thực, và duy trìlợi
thế cạnh tranh về xuất khẩu lương thực và hàng nông sản, Việt Nam cần phải ápdụng mạnh mẽ
tiến bộ của khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp đểtăng năng suất lao động và nâng
cao chất lượng sản phẩm hàng hoá. Hay nói cách khác mỗi người nông dân phải trở thành một
“chuyên gia” trong lĩnh vực nôngnghiệp của họ. Cũng vì vậy, sẽ có những giải pháp khác nhau
để tạo ra các hình thức đào tạo nghề khác nhau cho phù hợp với nhu cầu của lao động nông thôn.
755
Giải pháp đào tạo nông dân trở thành người nông dân mới: Đây sẽ là nhóm lao động
nông thôn có thể duy trì vị thế vànâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong lĩnh vực xuất
khẩu nông sảnkhi tham gia TPP. Như vậy, cần tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn về sản xuất nông
nghiệp. Tùy theo khả năng nhận thức và tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân mà nhóm đối tượng
này có thể trở thành các chủ trang trại, nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp (tổ, hội
nhóm,…) hay nông dân tham gia chuỗi liên kết. Công tác đào tạo nghề cho nhóm đối tượng này
cần cho họthấy rõ được lợi ích cũng như khó khăn khi gia nhập thị trường nông sản thế giới. Bên
cạnh đó cần chỉ ra cho họ hiểu về các quy định, tiêu chuẩn của mỗi quốc gia, mỗi thị trường khi
tham gia hội nhập.
Hình thức đào tạo của các nhóm lớp này cũng phải phù hợp với mùa vụ của nông dân,
hoặc thời điểm nông nhàn của người lao động.Mặt khác, vì mục tiêu của khóa học là đào tạo các
lớp cho nông dân có thể thực hiện luôn công việc với vật nuôi, cây trồng. Điều này đòi hỏi việc
xây dựng chương trình đào tạo phảirất linh hoạt và khoa học.Ngoài ra lớp học còn cung cấp các
tài liệu khoa học kĩ thuật gắn với lĩnh vực sản xuất mà họ quan tâm, hoặc hướng dẫn họ cách tra
cứu thông tin nhờ ứng dụng CNTT cụ thể là thông qua Internet.
Giải pháp chuyển đổi từ đào tạo lao động nông nghiệp sang đào tạo lao động trong các
làng nghề. Xu hướng chuyển dịch ngànhnông nghiệp và kinh tế ở nông thôn là chuyển mạnh
sang phát triển các ngànhnghề mới, dựa trên nền tảng công nghệ ngày càng hiện đại, cụ thể là
định hướng xuất khẩu. Theo xu hướng này, công tác đào tạo lao động nông thôn sẽ là đào tạo các
khóa học nghề để tận dụng các ngành thủ công truyền thống là thế mạnh của địa phương,
hoặcđịnh hướng phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp mới phù hợp với địnhhướng của địa
phương.
Hình thức đào tạo nghề cho nhóm này là tập huấn các lớp nghề ngắn ngày, đồng thời mở
các lớp sử dụng kỹ năng ứng dụng CNTT cho các nhân sự quản lý trong các cơ sở nghề để họ có
thể nắm bắt được các xu hướng, nhu cầu cũng như sử dụng, khai thác tối đa cơ sở hạ tầng CNTT
trong các cơ sở nghề.
Đối với các khu vực mà đã có các doanh nghiệp làng nghề sẵn có, có thể tổ chức các lớp
ngắn hạn kết hợp với thực tế bằng cách sử dụng ngay các nghệ nhân ở chính các cơ sở nghề.
Ngoài ra nên chú trọng đào tạo nguồn lao động biết sử dụng các kĩ năng CNTT như gửi/nhận
email, tìm kiếm thông tin, quảng bá sản phẩm nhờ các ứng dụng mạng xã hội,…
Có thể nâng cao chất lượng sản phẩm nghề và quảng bá hình ảnh thương hiệu thông qua
các lớp ngắn hạn về Marketing hoặc sử dụng và quản lý các website thương mại điện tử để họ có
thể cùng nhau chia sẻ thông tin cũng như xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm làng nghề
của mình. Việc này được thực hiện thông qua việc gắn hình ảnh hoặc thương hiệu làng nghề trên
các website làng nghề, website du lịch về địa phương của làng nghề, cũng như các website quảng
bá về đất nước, con người tại địa phương.
Giải pháp chuyển đổi đào tạo lao động nông nghiệp thành đào tạo các lao động công
nghiệp tại các khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, dịch vụ ở nông thôn.
756
Tùy vào tình hình phát triển kinh tế - xã hộicủa từng địa phương, cần thiết phải khảo sát
nhu cầu học nghề của đốitượng, nghĩa là cần có sự phân nhóm đối tượng để tổ chức các khoá đào
tạo phùhợp. Ví dụ như, tổ chức các nhóm đối tượng có trình độ học vấn thấp để hình thành các
lớp ngắn hạn, từ xa,… Tuy nhiên cũng có nhóm đối tượng có thể đào tạo với hình thức dài hạn,
tập trung hơn như những lao động có bằng trung học cơ sở, phổ thông. Họ có thể được đào tạo
tập trung trong các trung cấp hoặc cao đẳng nghề.Việc quan trọng của đào tạo này là chú ý đến
chất lượng lao động và nhu cầu của các doanh nghiệp tại địa bàn để tạo ra công ăn việc làm cho
các nhóm lao động sau đào tạo.
Giải pháp đào tạo các khóa cho các công việc xuất khẩu lao động
Đối với nhóm đốitượng này, việc đào tạo nghề là bắt buộc và kết quả đầu ra là lao động
phảiđáp ứng được yêu cầu của đối tác nước ngoài. Do đó, chương trình đào tạo, cáchthức tổ chức
và đánh giá kết quả đầu ra sẽ bám sát theo nhu cầu của doanh nghiệpnước về lĩnh vực mà lao
động được đào tạo. Như vậy, điều này đảm bảo là học viên đào tạo xong thì sẽ có việc làm.
5. KẾT LUẬN
Hội nhập quốc tế đòi hỏi lao động có những kĩ năng lao động mới và sự thích ứng phù
hợp. Mục tiêu của dạy nghề cho lao độngnông thôn là tạo cho họ có một nghề để họ có thể tựtạo
việc làm trong nông nghiệp thông qua việc tăng năng suất lao động hay tìm được việc làmphi
nông nghiệp ở các ngành nghề khác. Việc nâng cao chất lượng dạy nghề cho lao động nông thôn
cần chú trọng đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là đối với những nhóm lao
động cần chuyển dịch sang các lĩnh vực phi nông nghiệp hay để xuất khẩu lao động. Nếu việc
đào tạo nghề không có chất lượng hoặc không gắn được với việc làm thì người nông dân sẽ
không tham gia họcnghề nữa và nguồn lực xã hội sẽ bị lãng phí. Do đó, việc tìm hiểu rõ nhu cầu
doanh nghiệp cũng như gắn kết giữa đào tạo nghề với đặc thù phát triển của địa phương sẽ làm
cho việc đào tạo nghề thực sự có ý nghĩa và cần thiết cho cả người lao động lẫn doanh nghiệp và
xã hội. Mặt khác trong quá trình đào tạo nghềrất cần thiết có sự kết hợp chặt chẽ với các khu
công nghiệp dịch vụ, các cơ sở sản xuất hay cơ sở làng nghề đểhọ một mặt tham gia vào quá trình
đào tạo; mặt khác có thể tạo cơ hội cho ngườihọc được tham gia vào quá trình sản xuất thực tế
của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho họ có thể có thu nhập cũng như có việc làm ngay sau khi đào
tạo.
757
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1956/ QĐ-TTg phê duyệt Đề án đào tạo lao động nông
thôn đến năm 2020.
2. Nghị quyết của Bộ chính trị về hội nhập quốc tế.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Công văn Chỉ đạo công tác dạynghề cho lao động nông
thôn, Tổng cục dạy nghề, 2013.
4. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội. Tổng cục thống kê, năm 2013, 2014, 6tháng 2015.
5. Vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở Việt Nam hiện
6. The World Bank (2015), Điểm lại cập nhật tình hình phát triển kinh tếViệt Nam.
7. Tổng cục thống kê Việt Nam, Báo cáo điều tra lao động việc làm hàngnăm và hàng Quý.
8. World Bank (2013), Vietnam Development Report 2014, Skilling upVietnam: Preparing
the workforce for a modern market economy.
9. Hoàng Thị Huệ (2015). Lao động - việc làm của việt nam khi tham gia hiệp định đối tác Xuyên
thái bình dương (TPP). Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia Kinh tế - xã hội việt nam năm 2015.
NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.
10. Nguyễn Tiến Dũng. (2011). “Đào tạo nghề cho nông dân trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, có
11. Nguyễn Thị Thu Hoài. (2014). Hiệp định xuyên Thái Bình Dương: Cơ hội và thách thức đối
với thị trường lao động Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Kinh tế và Kinh
doanh, Tập 30, Số 4 (2014) 21-28.
12. Lê Thị Hồng Điệp. (2014). Những hạn chế về lao động và việc làm trên thị trường lao động ở
Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 30, Số 4 (2014)
48-54.
758
Bạn đang xem tài liệu "Đào tạo nghề cho các lao động ở nông thôn trong thời kì hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- dao_tao_nghe_cho_cac_lao_dong_o_nong_thon_trong_thoi_ki_hoi.pdf