Nghiên cứu về bản sắc cá nhân của giáo viên qua chia sẻ trên facebook với phương pháp nghiên cứu tường thuật
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
43
NGHIÊN CỨU VỀ BẢN SẮC CÁ NHÂN CỦAGIÁO VIÊN
QUACHIASẺ TRÊN FACEBOOK
VỚI PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU TƯỜNG THUẬT
Mai Ngọc Khôi*, Trần Thị Long
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 03 tháng 02 năm 2021
Chỉnh sửa ngày 29 tháng 02 năm 2021; Chấp nhận đăng ngày 21 tháng 03 năm 2021
Tóm tắt: Bản sắc là kết quả của tính cách cá nhân, quá trình dưỡng dục, trải nghiệm
học tập và công tác và nhiều yếu tố văn hoá xã hội khác, như tương tác xã hội, chuẩn mực và
quy định về đạo đức, nghề nghiệp v.v… Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu về bản sắc
cá nhân của một giảng viên bộ môn tiếng Anh, công tác tại một trường đại học ở Việt Nam. Bài
báo phân tích những dòng trạng thái chia sẻ về trải nghiệm trong cuộc sống trên mạng xã hội
Facebook của đối tượng nghiên cứu. Phỏng vấn sâu được tiến hành trong thời gian hơn một
năm theo quy trình phỏng vấn của nghiên cứu tường thuật. Nghiên cứu cho thấy sự phức tạp,
đan xen của bốn bản sắc cũng như tiềm năng của Facebook như một nền tảng trực tuyến để lan
toả những chiêm nghiệm cá nhân, qua đó cho phép người đọc tham gia vào quá trình kép gồm
xác định (identification) và đàm phán các ý nghĩa (negotiation of meaning) trong quá trình hình
thành bản sắc cá nhân dưới góc nhìn của học thuyết xã hội. Mạng xã hội như vậy có khả năng
hạn chế sự cô lập trong phát triển chuyên môn của giáo viên cũng như có thể thúc đẩy sự hình
thành và phát triển của cộng đồng chuyên môn.
Từ khoá: bản sắc, mạng xã hội, học thuyết xã hội
1. Giới thiệu1*
Bản sắc của giáo viên là một đề tài
bằng và hoà hợp giữa các bản sắc phụ (ví dụ:
Beijaard, Meije & Verloop, 2004) hay quá
trình hình thành bản sắc cá nhân xoay quanh
sự xung đột liên tục giữa các bản sắc (ví dụ:
MacLure, 1993; Samuel & Stephens, 2000).
Hướng nghiên cứu phổ biến tiếp theo liên
quan tới mối quan hệ giữa chiều cá nhân và
xã hội của quá trình hình thành bản sắc. Phần
lớn các nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan
trọng của chiều cá nhân, tập trung vào quá
trình chiêm nghiệm trả lời các câu hỏi: Tôi
là ai, tôi muốn trở thành người như thế nào,
và các kiến thức thực tiễn mang tính cá nhân
quen thuộc trong lĩnh vực giáo dục nói chung
và giảng dạy tiếng Anh nói riêng. Qua khảo
sát các nghiên cứu liên quan tới chủ đề này
được xuất bản trong các tạp chí chuyên
ngành, chúng tôi nhận thấy có ba hướng
nghiên cứu chính. Đầu tiên là các nghiên cứu
về bản chất của bản sắc, là đa diện và đa
chiều với nhiều tương tác lẫn nhau giữa các
bản sắc phụ. Hiện vẫn còn nhiều tranh cãi về
bản chất của các mối tương tác này, là cân
* Tác giả liên hệ
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
44
của giáo viên (ví dụ: Antonek, McCormick
& Donato, 1997). Cũng có những nghiên
cứu tập trung nhiều hơn vào tầm quan trọng
của bối cảnh công tác, như một phần của bối
cảnh chính trị-xã hội, trong việc hình thành
bản sắc của giáo viên (ví dụ: Duff & Uchida,
1997; He, 2002c). Hướng nghiên cứu thứ ba
tập trung vào mối liên hệ giữa nỗ lực cá nhân
và việc chủ động sử dụng các nguồn lực sẵn
có (agency) và cấu trúc cộng đồng, xã hội
trong hình thành bản sắc. Coldron và Smith
(1999) cho rằng lựa chọn của cá nhân sẽ
quyết định bản sắc cá nhân, trong khi các nhà
nghiên cứu như Moore, Edwards, Halpin và
George (2002) lại cho rằng sự chủ động của
cá nhân có thể bị kìm hãm nhiều bởi các
chính sách và bối cảnh. Bài báo này trình bày
kết quả nghiên cứu về bản sắc cá nhân của
một giảng viên bộ môn tiếng Anh, công tác
tại một trường đại học ở Việt Nam. Bài báo
phân tích những dòng trạng thái chia sẻ về
trải nghiệm trong cuộc sống trên mạng xã
hội Facebook của đối tượng nghiên cứu.
thái có sẵn, “bản sắc” có được ngay từ khi
sinh ra), định danh vị trí (cùng với các quy
định, quyền lợi và nghĩa vụ phải tuân theo
khi ở “vai” này), định danh hoàn cảnh (đặc
điểm cá nhân được tạo nên thông qua sự
tương tác với người khác) và định danh thị
hiếu (được tạo nên qua việc chia sẻ các trải
nghiệm trong các nhóm có chung quan tâm,
sở thích). Bốn góc độ này không tách biệt mà
liên quan mật thiết với nhau.
Khái niệm bản sắc trong nghiên cứu
này được nhìn nhận dưới góc độ văn hoá xã
hội, là sản phẩm của những tác động lên giáo
viên và cũng là một tiến trình tương tác
không ngừng trong quá trình phát triển của
người giáo viên đó (Olsen, 2008; Sfard &
Prusak, 2005).
Bản sắc có thể được coi như một cái
nhãn tập hợp các ảnh hưởng và tác
động từ các tình huống hiện tại, sự
hình thành nên con người của hiện tại
từ trước đến nay, vị trí xã hội và các
hệ thống mang ý nghĩa (bản thân mỗi
người là một tập tác động linh hoạt
và tất cả cùng tạo thành một cấu trúc
không ngừng thay đổi). Tất cả hòa
quyện vào nhau bên trong dòng hoạt
động của người giáo viên khi họ phản
ứng và “đàm phán” với các tình huống
nhất định và với các mối quan hệ giữa
con người với nhau tại những thời
điểm nhất định (Olsen, 2008, tr. 139).
2. Cơ sở lý luận
Trong một vài thập kỷ vừa qua, số
lượng các nghiên cứu về sự phát triển bản
sắc giáo viên đã tăng lên đáng kể. Giáo viên
phát triển bản sắc nghề nghiệp được xây
dựng từ các bản sắc khác bao gồm bản sắc
của một người học suốt đời, nhà chuyên
môn, một học giả, một nhà nghiên cứu và
một trí thức (Lankveld và cộng sự, 2016).
Môi trường thể chế làm việc tác động mạnh
đến bản sắc của giáo viên vì nó có thể bù đắp
hoặc củng cố cho những tác động tiêu cực từ
bối cảnh văn hóa xã hội rộng lớn hơn. Gee
(2000, tr. 99) cho rằng bản sắc gợi ra một
kiểu người trong một hoàn cảnh nhất định;
mặc dù mỗi người đều có bản sắc cốt lõi, họ
cũng thể hiện nhiều bản sắc khác nhau hay
nhiều “vai” khác nhau ở các tình huống khác
nhau. Mỗi người có nhiều bản sắc, mỗi bản
sắc này không chỉ gắn với con người thực
của họ mà còn được tiếp nhận bởi những
người khác. Gee cũng nhóm các “vai” này
dưới bốn góc độ: định danh tự nhiên (trạng
Bài báo này ủng hộ quan điểm xem
kể chuyện là một nhu cầu bản năng của con
người và Facebook cung cấp một kênh giao
tiếp mới qua đó cá nhân có thể chia sẻ các
câu chuyện và trải nghiệm của mình. Bruner
(1990) nêu quan điểm rằng qua kể chuyện,
con người không chỉ đơn thuần kể lại, tiết lộ
hay giải thích những gì đã xảy ra, mà qua quá
trình đó họ còn lý giải, tìm hiểu ý nghĩa sự
việc và sự thật. Với Bruner, cuộc sống của
con người được hình thành bởi những câu
chuyện chúng ta kể và tin tưởng, vì thế qua
các câu chuyện con người không chỉ xây
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
45
dựng hiện thực mà còn cả bản sắc cá nhân.
Giddens (1991) nhấn mạnh cả tầm quan
trọng của yếu tố cá nhân và xã hội trong quá
trình kể chuyện, miêu tả nó như một phần
thiết yếu của việc định hình chúng ta là ai,
xây dựng bản sắc theo những cách nhất định
cho chúng ta và mọi người. Nghiên cứu của
Giddens cho thấy phương pháp nghiên cứu
tường thuật cung cấp thông tin về cách mọi
người nhìn thế giới và vị trí của họ trong đó,
và bằng cách hiểu về câu chuyện của mọi
người, chúng ta có thể hiểu về các ý nghĩa và
chuẩn mực văn hoá xã hội.
mạng xã hội, chúng ta càng cần hiểu rõ hơn
những ảnh hưởng về văn hoá và xã hội của
những hành động này. Hiện tại khi Facebook
ở Việt Nam vẫn đang chủ yếu được coi như
một nền tảng cung cấp thông tin, dịch vụ,
giải trí, vai trò của các văn bản trên
Facebook, ở trong bài báo này là các văn bản
dưới dạng dòng trạng thái chia sẻ các mẩu
chuyện, càng cần được thừa nhận có thể đóng
vai trò quan trọng trong giáo dục, thay vì bị
chặn và cấm sử dụng ở nhiều trường học.
Các nghiên cứu về sử dụng các trang
mạng xã hội như Facebook chủ yếu tập trung
tìm hiểu việc học sinh sử dụng các trang
mạng xã hội cho mục đích giáo dục (Ellison
và cộng sự, 2007; Selwyn, 2009) hoặc việc
giáo viên sử dụng chúng trong thực hành sư
phạm, đặc biệt tập trung vào sự hiện diện của
giáo viên và thể hiện bản thân (Mazer và
cộng sự, 2007). Ngoài ra, ngày càng có nhiều
công trình nghiên cứu liên quan đến phát
triển chuyên môn dưới hình thức trực tuyến
trên các trang mạng xã hội như việc các nhà
giáo dục sử dụng Twitter để phát triển
chuyên môn (Carpenter & Krutkab, 2014),
cách giáo viên hỗ trợ nhau trong các nhóm
trực tuyến trên Facebook (Kelly & Antonio,
2016), các cơ chế thành viên của nhóm và
động lực tham gia nhóm của giáo viên trong
việc sử dụng Facebook cho chuyên môn
(Ranieri và cộng sự, 2012), các cộng đồng
mạng không chính thức - nơi phát triển
chuyên môn của giáo viên (Marcia & Garcia,
2016). Trong những nghiên cứu này, các
trang mạng xã hội hoạt động như một nền
tảng lưu trữ các cộng đồng chuyên môn.
Cộng đồng chuyên môn ở đây là “nhóm
những người có chung mối quan tâm hoặc
niềm đam mê đối với việc họ làm và học hỏi
cách làm việc tốt hơn khi họ giao lưu thường
xuyên với nhau” (Wenger & Wenger, 2015).
Việc sử dụng các trang mạng xã hội,
đặc biệt là Facebook, đang gia tăng trong
lĩnh vực giáo dục (Nie & Sundar, 2013).
Facebook được phát hành ban đầu ở Mỹ vào
năm 2004, trước hết là cho sinh viên
Harvard, rồi mở rộng cho tất cả những ai hơn
13 tuổi có địa chỉ hòm thư điện tử. Hiện nay
Facebook gần như đã hiện diện khắp thế
giới, dù có một vài nơi như Trung Quốc,
không ủng hộ nền tảng mạng xã hội này. Là
một hiện tượng mới nên đã và đang có sự gia
tăng các nghiên cứu về tường thuật trên
Facebook trong nhiều lĩnh vực bao gồm tâm
lý, xã hội, ngôn ngữ, y tế, và giáo dục. Page
(2012) đưa ra hai lý do để nghiên cứu các
câu chuyện được chia sẻ trên mạng xã hội.
Thứ nhất là việc kể chuyện vẫn là công cụ
phổ biến nhất mà con người sử dụng để hiểu
về bản thân và thế giới. Lý do thứ hai là do
sự bùng nổ về thói quen chia sẻ thông tin,
trải nghiệm hàng ngày trực tuyến và trên các
nền tảng mạng xã hội ở thế kỉ 21. Công nghệ
số mở rộng giới hạn chia sẻ thông tin, vượt
ra khỏi những ràng buộc của thế giới hiện
thực, kết nối với nhiều người hơn. Việc chia
sẻ những câu chuyện với bạn bè và người lạ
trên mạng xã hội là thú vị nhưng cũng cần
thừa nhận rằng không thể dự đoán tất cả
những phạm vi ý nghĩa văn bản có thể có khi
được đọc, phân tích bởi những người khác,
đặc biệt những người ở trong bối cảnh văn
hoá, xã hội khác với chúng ta. Vì thế chúng
tôi cho rằng, khi ngày càng nhiều người chủ
động sáng tạo và chia sẻ các thông điệp trên
Trong bối cảnh giáo dục Việt Nam
hiện tại, bất chấp những nỗ lực của chính phủ
và Bộ Giáo dục và Đào tạo, vẫn còn thiếu
một sân chơi “an toàn” để phát triển chuyên
môn mà thông qua đó giáo viên có thể tự do
chia sẻ kinh nghiệm và các mối quan tâm về
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
46
việc giảng dạy và cuộc sống (Hashimoto &
Van-Trao, 2018). Nhiều giáo viên đã sử
dụng Facebook như một cộng đồng chuyên
môn trực tuyến (Mai và cộng sự, 2020). Cho
đến nay, theo hiểu biết của chúng tôi, nghiên
cứu về bản sắc giáo viên và phát triển chuyên
môn qua các trang mạng xã hội vẫn còn ít,
đặc biệt là ở Việt Nam, nơi cơ hội phát triển
chuyên môn và các cộng đồng chuyên môn
còn hạn chế. Bài báo này sử dụng phương
pháp nghiên cứu tường thuật để tìm hiểu về
bản sắc của đối tượng nghiên cứu được chia
sẻ qua các dòng trạng thái trên Facebook, và
quá trình này ảnh hưởng đến sự phát triển
bản sắc của các giáo viên đồng nghiệp khác
như thế nào.
tính. Sau đó, chúng được mã hóa theo nội
dung của các bài đăng, và được phân tích
theo chủ đề. Chúng tôi cũng phỏng vấn giáo
viên trong suốt cả năm theo quy trình phỏng
vấn tường thuật. Phỏng vấn tường thuật
được phân loại là phương pháp nghiên cứu
định tính dưới hình thức phỏng vấn không
cấu trúc, chuyên sâu vào các đặc điểm cụ thể
(Riesman, 1993; Flick, 1998). Người phỏng
vấn tránh kiểu phỏng vấn được cấu trúc
trước bằng cách sử dụng kiểu giao tiếp hàng
ngày trong khi phỏng vấn, đó là kể chuyện
và lắng nghe. Tiền giả định là quan điểm của
người được phỏng vấn bộc lộ rõ nhất khi họ
sử dụng ngôn ngữ tự phát trong khi tường
thuật các sự kiện, theo một lược đồ tự tạo chứ
không phải theo cấu trúc do người phỏng vấn
áp đặt. Trong nghiên cứu này, chúng tôi thực
hiện các cuộc phỏng vấn liên quan đến các
bài đăng khác nhau của giáo viên. Có bốn
giai đoạn cơ bản của phỏng vấn tường thuật
theo Jovchelovitch và Bauer (2000, tr. 4) như
được trình bày tóm tắt trong sơ đồ dưới đây.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này thu thập hai loại dữ
liệu. Các bài đăng của giáo viên trên
Facebook trong một năm (2019-2020) được
thu thập dưới dạng ảnh chụp màn hình máy
Mở đầu
Tường thuật chính
Hỏi
Kết thúc trò chuyện
•Dừng ghi âm
•Cho phép các câu hỏi tại sao
•Ghi lại sau phỏng vấn
•Thiết lập chủ đề đầu tiên cho •Không ngắt lời
•Chỉ hỏi điều gì xảy ra lúc đó
•Không hỏi về ý kiến và thái
câu chuyện
•Chỉ dùng cử chỉ để khích lệ
người tham gia tiếp tục câu
chuyện
• Sử dụng hình ảnh minh họa
(các bài đăng Facebook)
độ
•Không hỏi tại sao
•Xem xét các câu hỏi nội tại
•Chờ đoạn kết thúc
Theo Clandinin và Connelly (2000),
khung phân tích tường thuật bao gồm ba
chiều của không gian tìm hiểu tường thuật.
Chiều đầu tiên là “thời gian”, tập trung vào
việc tìm hiểu các trải nghiệm trước đây của
giáo viên, các trải nghiệm hiện tại và kế
hoạch tương lai với tư cách là giáo viên.
Chiều hướng này cũng tương đồng với các
thuộc tính linh hoạt của bản sắc (Gee, 2001).
Chiều thứ hai là chiều tương tác, được kết
hợp vào để tìm hiểu các bản sắc của đối
tượng nghiên cứu xuất hiện và thay đổi liên
quan đến cảm xúc bên trong và tương tác bên
ngoài như thế nào. Do môi trường văn hóa
xã hội và thể chế mà đối tượng nghiên cứu
đang sống, chiều cuối cùng được tìm hiểu là
các yếu tố thuộc về bối cảnh ảnh hưởng đến
sự định hình bản sắc.
Nghiên cứu này cũng sử dụng khung
lý thuyết về quá trình hình thành bản sắc của
giáo viên như một quá trình kép gồm xác
định (identification) và đàm phán các ý
nghĩa (negotiation of meaning) dưới góc
nhìn của học thuyết xã hội Wenger (1998) và
được áp dụng trong nghiên cứu của Tsui
(2007) về bản sắc của giáo viên tiếng Anh.
4. Đối tượng nghiên cứu, bối cảnh làm
việc, câu chuyện, và người đọc
Đối tượng được nghiên cứu là An
(tên thật và giới tính của đối tượng đã được
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
47
thay đổi). An là giáo viên dạy tiếng Anh cho
người nói ngôn ngữ khác (TESOL), chuyên
dạy tiếng Anh học thuật cho sinh viên năm
thứ nhất tại một khoa sư phạm của trường đại
học. An đã có bằng thạc sỹ về giảng dạy
tiếng Anh và có kinh nghiệm giảng dạy hơn
10 năm. Có thể nói đây là một giáo viên có
trình độ và kinh nghiệm. An cũng là đồng
nghiệp cũ của chúng tôi. Điều này giúp cho
việc chia sẻ các câu chuyện cá nhân thông
qua tiến trình của phỏng vấn tường thuật
thuận lợi hơn. Sự tin tưởng lẫn nhau giúp cho
đối tượng nghiên cứu dễ mở lòng qua các
câu chuyện. Mặt khác, chính mối quan hệ
đồng nghiệp giữa người nghiên cứu và
nghiệm thể cũng đem lại tác động nhất định
đến quá trình phân tích, diễn dịch dữ liệu. Ví
dụ như những định kiến chủ quan về nghiệm
thể có thể được hình thành trước khi chúng
tôi tiếp xúc với dữ liệu nghiên cứu này. Tuy
nhiên, điều này không phải là không thể
tránh khỏi. Trên thực tế, thuận lợi của việc
thẳng thắn nhìn nhận tính chủ quan trong
nghiên cứu định tính là khả năng chiêm
nghiệm về những ảnh hưởng của nó với quá
trình nghiên cứu, từ đó người nghiên cứu có
những điều chỉnh phù hợp.
gian và cơ hội gặp gỡ đồng nghiệp. Trong
tuần, họ gặp nhau một đến hai lần trong
khoảng 20 phút trong giờ giải lao tại phòng
giáo viên. Do đó, ngày càng có nhiều giáo viên,
bao gồm cả An, sử dụng Facebook như là nơi
chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy, các nguồn học
liệu và là nơi giao lưu với đồng nghiệp.
Các bài đăng trên Facebook của An
được mã hóa theo chủ đề và phân tích tường
thuật. Qua phân tích, những bài đăng này
được nhóm thành ba loại, phản ánh bốn bản
sắc chính của đối tượng. Các bài đăng được
nhóm lại theo thứ tự dưới đây, sắp xếp theo
mức độ phổ biến cao đến thấp:
• Bài đăng liên quan đến sở thích cá nhân
(ví dụ: xem phim, bình luận về các bài
đăng trên Internet như video hoặc bài
hát trên Youtube);
• Các bài viết liên quan đến giảng dạy (ví
dụ: chia sẻ ý kiến về các vấn đề giáo
dục, chia sẻ cảm xúc những điều đã xảy
ra trong quá trình giảng dạy; giới thiệu
đặc điểm các lớp dạy học của đối
tượng);
• Các bài viết liên quan đến các vấn đề
thời sự (ví dụ: đại dịch Covid, bầu cử
tổng thống Hoa Kỳ; tin tức quốc gia).
Kể từ khi tốt nghiệp, An làm việc tại
một khoa sư phạm của một trường đại học ở
Hà Nội. Là giáo viên có kinh nghiệm tại
khoa, An không cần phải tham gia các
chương trình bồi dưỡng chuyên môn dành
cho giảng viên trẻ vừa tốt nghiệp hoặc vừa
được tuyển dụng. Bồi dưỡng chuyên môn tại
trường đại học này bao gồm các tọa đàm nửa
ngày hoặc một ngày và hội thảo. Trong năm
2019, trường đã tổ chức bốn tọa đàm, một
hội thảo quốc gia và hai hội thảo quốc tế. Là
giảng viên của trường, An được yêu cầu thực
hiện nghiên cứu khoa học và trình bày báo
cáo tại các hội thảo này. Nhà trường cũng đã
có nhiều nỗ lực để xây dựng các nhóm cũng
như mạng lưới nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn
còn thiếu các cộng đồng chuyên môn không
chính thức, ở cả hình thức truyền thống cũng
như trực tuyến. Trên thực tế, do tính chất
giảng dạy tại trường đại học, An có rất ít thời
Trong bài báo này, chúng tôi tập
trung vào các câu chuyện An chia sẻ trên
mạng về việc giảng dạy. Bamberg và
Georgakopoulou (2008) định nghĩa, đây là
những câu chuyện nhỏ chia sẻ về những sự
kiện xảy ra rất gần (ví dụ: sáng nay, tối qua),
hoặc những sự kiện còn đang diễn biến.
Những câu chuyện này mang tính rời rạc,
nhưng cung cấp những mảnh ghép nhỏ về
câu chuyện lớn về cuộc đời và sự nghiệp của
đối tượng nghiên cứu. Những câu chuyện
nhỏ đòi hỏi người phân tích phải đặt chúng
vào bối cảnh không gian, thời gian tương
ứng. Chúng được viết và chia sẻ với những
người đọc tưởng tượng. An chia sẻ trong
phỏng vấn rằng khi viết các dòng trạng thái,
anh thường tưởng tượng những người đọc
chính là những người anh thường xuyên
tương tác trên trang mạng xã hội. Trên thực
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
48
tế, người đọc những chia sẻ này bao gồm cả
những đối tượng trong danh sách bạn bè mà
An không tương tác thường xuyên và cả
những người mà chia sẻ của An hiện lên trong
bảng tin của họ khi cả hai có bạn chung.
nhiều trăn trở về những khó khăn trong công
việc, và bản sắc của một người học suốt đời.
An thể hiện mình là một giáo viên
nghiêm khắc, người thường xuyên thẳng
thắn chỉ trích những học sinh không nghiêm
túc và không chuyên cần trong các lớp học
của mình như ví dụ một bài đăng dưới đây.
Ngoài việc liên kết với nhau bởi nội
dung, liên quan đến hoạt động giảng dạy,
những câu chuyện này còn được liên kết với
nhau bởi yếu tố người đọc. Facebook cho
phép người dùng thể hiện tương tác và tham
gia vào trao đổi qua tính năng “like” mà
chúng tôi hiểu là một kênh phản hồi
(backchannel) theo mô hình của Goffman
(1981). Nhận xét (comment), là một hình
thức tham gia tích cực hơn của người đọc, và
có thể dẫn đến một loạt trao đổi và phản hồi
(reply) về chủ đề của chia sẻ. Cả hai hình
thức phản hồi đều rất phổ biến trên nền tảng
Facebook (87% các chia sẻ của An trên
Facebook nhận được một hoặc cả hai hình
thức tương tác trên). Có lẽ tỉ lệ phản hồi cao
như vậy cũng là một lý do để An lựa chọn sử
dụng nền tảng mạng xã hội này. Như
Bamberg (2007) đã nhấn mạnh, “...điều tồi
tệ nhất có thể xảy đến với một câu chuyện là
không nhận được sự phản hồi nào” (tr. 167).
Cũng giống như các chia sẻ trực tiếp off-line,
đa số thời gian là dành cho người kể chuyện
còn người nghe thì phản hồi để thể hiện mình
đang lắng nghe, các chia sẻ của An nhận
được nhiều lần người nghe nhấn “like” hơn
là nhận xét. Tuy nhiên, gần 50% các chia sẻ
của An nhận được phản hồi trong giai đoạn
từ tháng 10-12/2020. Chủ yếu các phản hồi
mang tính chia sẻ, đồng tình, hoặc đặt thêm
câu hỏi để hiểu rõ hơn về nội dung An chia sẻ.
Nghịch lý trong dạy làm văn: Giáo
viên luôn là người cẩn thận khi viết
lời phê hoặc sửa lỗi cho học sinh.
Trong khi đó, học sinh luôn viết bất
cứ điều gì xuất hiện trong đầu mà
không cố gắng nhớ lại những gì giáo
viên đã liên tục cảnh báo. Những
người lẽ ra không cần phải theo dõi
cẩn thận ngôn ngữ của họ vẫn cần
mẫn làm như vậy, trong khi những
người đáng lẽ phải làm việc chăm
chỉ, cứ mắc lỗi lặp đi lặp lại... Giáo
viên không thông minh hơn học sinh.
Họ chỉ đơn thuần là siêng năng và
cẩn thận hơn, vậy thôi. Nó đơn giản
như vậy nhưng nhiều người không
chịu hiểu nó, và tiếp tục thiếu hiểu
biết. (05/07/2019)
Khi được phỏng vấn về triết lý giảng
dạy của mình, An mô tả mình là một giáo
viên khắt khe, coi trọng sự chăm chỉ và yêu
cầu học sinh của mình phải năng động, tự
giác và có sẵn động lực cao. An không sợ bị
coi là một giáo viên nghiêm khắc, và sẵn
sàng nói những lời khó nghe hay la mắng học
sinh vì sự lười biếng. An tin rằng “thương
cho roi cho vọt”. Ví dụ như trong bài đăng
sau. Bài đăng bằng tiếng Anh, tiếng Việt
được chúng tôi dịch lại ở phía dưới.
5. Bản sắc của đối tượng nghiên cứu thể
hiện qua các chia sẻ trên Facebook
Bản thân là một giáo viên, tôi cũng
nhận ra rằng mình đã lãng phí quá
nhiều thời gian cho những việc đáng
lẽ phải được nói thẳng ra và tiết kiệm
rất nhiều thời gian. Không phải tôi
đánh giá thấp việc giao tiếp khéo léo
hoặc lợi ích tâm lý của phản hồi tích
cực mang tính xây dựng trong giảng
Quá trình phân tích các chia sẻ của
đối tượng nghiên cứu về nội dung giảng dạy
cho thấy có bốn bản sắc nổi trội thường
xuyên được thể hiện trên nền tảng Facebook,
bao gồm bản sắc của một giáo viên nghiêm
khắc, một giáo viên sẵn sàng chia sẻ kinh
nghiệm với đồng nghiệp, một giáo viên
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
49
dạy, nhưng không nhiều học sinh
hiểu và thực sự hưởng lợi từ những
lời ngọt ngào chỉ để nhằm che đậy
những ý kiến thẳng thắn gây tổn
thương về năng lực và thái độ của họ.
Trên thực tế, việc đưa ra những lời
nhận xét dễ chịu thậm chí có thể
khiến những người thiếu kinh
nghiệm và thiếu nhận biết về khuyết
điểm của bản thân bị nhầm lẫn, tạo
cho họ niềm tin sai lầm và tước đi cơ
hội tiến bộ. (Chia sẻ được dịch từ
tiếng Anh - 11/03/2019)
gì tôi thấy cần thiết và không còn nói
những điều không định trước chỉ để
phù hợp với tâm trạng của cả lớp như
tôi đã làm trước đây và giống như
nhiều giáo viên khác, những người
luôn phải vật lộn với những câu đùa
ngẫu hứng hoặc phản ứng giả tạo chỉ
để làm sôi động bầu không khí lớp
học hoặc làm cho học sinh cảm thấy
giải trí khi chúng trông buồn chán.
Bên cạnh đó, tôi đã học được mẹo để
trở nên hài hước mà không cần phải
quá ồn ào, vì vậy việc tạo không khí
cho học sinh, đối với tôi, giờ đây có
thể được thực hiện một cách dễ dàng
và tự nhiên. (Chia sẻ được dịch từ
tiếng Anh - 18/01/2019)
Tuy nhiên, qua các cuộc phỏng vấn
An cho thấy mong muốn thấu hiểu học sinh
của mình vì điều này sẽ dẫn đến sự hài lòng
cho cả giáo viên và học sinh. Đạt được
những điều này có thể coi là động lực để An
tiếp tục công việc giảng dạy.
Phân tích tường thuật cho thấy rằng
do thiếu các hoạt động phát triển chuyên
môn có ý nghĩa tại nơi làm việc và thiếu thời
gian, cơ hội cũng như sân chơi cho các giáo
viên, bao gồm An và đồng nghiệp, để được
gặp gỡ, giao lưu và thảo luận về học sinh
cũng như việc giảng dạy. Do đó, họ sử dụng
Facebook như một công cụ giao tiếp để tiếp
cận với đồng nghiệp và học sinh của mình.
Bản sắc thứ hai của đối tượng nghiên
cứu là của một giáo viên giàu kinh nghiệm,
người sẵn sàng chia sẻ kiến thức và kỹ năng
của mình. An sử dụng Facebook như một
nền tảng để chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức
của mình về việc giảng dạy cũng như những
cảm xúc mà anh đã trải qua trong hoạt động
giảng dạy hàng ngày của mình.
Bản sắc thứ ba của An là của một
giáo viên nhiều trăn trở với nghề, người
không ngừng đấu tranh để vượt qua những
thử thách của môi trường xung quanh. Sự bất
bình của An đến từ các yếu tố khác nhau bao
gồm học sinh và cả những yếu tố từ bối cảnh
văn hóa xã hội và thể chế.
Một số đồng nghiệp từng hỏi tôi làm
cách nào để duy trì giọng nói như vậy
sau nhiều năm làm công việc giảng
dạy vốn dĩ phải nói nhiều và thậm chí
có lúc phải la hét. Tôi nói với họ rằng
ngoài khả năng có được giọng khỏe
do bẩm sinh, tôi đã tự luyện cho mình
cách nói với một giọng điệu cần ít lực
nhưng tạo ra hiệu ứng giống như bất
kỳ diễn giả đặc sắc nào. Cụ thể là,
bây giờ tôi có thể nói với cả những
lớp học lớn khoảng 30 người theo
cách mà tôi thường nói trong các
cuộc trò chuyện nhỏ hoặc bình
thường với bạn bè, và hiếm khi lên
tiếng vì bất kỳ lý do gì trước học
sinh. Hơn nữa, tôi sẽ chỉ nói những
Một trong những điều bất hạnh lớn
nhất của việc giảng dạy là khi giáo
viên coi lớp học như một “thánh
đường” còn học sinh thì không. Sự
không phù hợp và chênh lệch giữa
niềm tin và mục tiêu của người dạy
và của người học là lý do khiến cả hai
bên đều cảm thấy nhức nhối và mệt
mỏi. (Chia sẻ được dịch từ tiếng Anh
- 22/09/2019)
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
50
Qua phỏng vấn chúng tôi nhận thấy
An đặt kỳ vọng cao ở học sinh. Điều này
cũng giải thích thái độ nghiêm khắc thường
xuyên của anh trong lớp học mà anh tin đó
là cách chỉnh đốn sự lười biếng, thiếu động
lực và các hành vi sai trái của học sinh.
cũng cho thấy một số ví dụ về sự bất bình
của An đối với hoạt động đào tạo, chương
trình giảng dạy, v.v. Đối với hầu hết các yếu
tố này, An không thể làm được gì nhiều để
thay đổi nên đành chịu đựng tất cả căng
thẳng. Ngoài ra, An đã hướng đến sự thành
công trong công việc giảng dạy của mình
như một phương tiện để vượt qua những cảm
giác tiêu cực như trong bài đăng dưới đây.
Tôi tin vào sự xấu hổ và sự xấu hổ
giúp sửa đổi hành vi như thế nào. Vì
vậy, ngoài việc thỉnh thoảng truyền
cho học sinh tâm lý tự tin, tự hào,...
tôi kiên quyết khiến những học sinh
ngỗ ngược cảm thấy hối lỗi về hành
vi sai trái của mình để các em kiểm
điểm lại hành động của bản thân và
có động lực sửa đổi để tốt hơn. Và
điều quan trọng là bạn phải cảm thấy
có lỗi. Ngay cả khi không có phương
pháp thích hợp để kỷ luật học sinh,
giáo viên ít nhất nên được trao quyền
để giúp học sinh cảm thấy bản thân
tệ và cảm thấy những điều chúng làm
là sai, chẳng hạn như thông qua lời
giáo viên nói với học sinh. Hoàn toàn
bỏ qua lỗi của học sinh sẽ chỉ khiến
chúng trở thành những người lớn vô
trách nhiệm, thiếu hiểu biết, vô liêm
sỉ, hèn nhát và đổ lỗi cho bất cứ ai
ngoại trừ chúng. (12/4/2019)
Mặc dù thỉnh thoảng có những lời
phàn nàn, tôi vẫn rất thích việc giảng
dạy và thậm chí đôi khi cảm thấy
sung sướng với một số nhóm sinh
viên mà tôi đã có rất nhiều kỷ niệm
khó quên khi làm việc cùng. Vì vậy,
tôi đã quyết định bí mật ghi âm một
số bài học của mình với chúng để tôi
có thể nghe riêng sau này và hồi
tưởng lại tất cả những khoảnh khắc
quý giá trong công việc của mình.
Tôi tưởng tượng rằng một số tệp
thậm chí có thể được giới thiệu trong
các lớp học trong tương lai của tôi
như là những ví dụ điển hình về sự
năng động lý tưởng của một lớp học
và sự chủ động của cá nhân để hướng
dẫn những học sinh kém năng động
về cách học sao cho hiệu quả trong
một lớp học tiếng Anh (tôi là người
nói ít nhất ở đó). Nghe có vẻ hữu ích
hơn rất nhiều cho một giáo viên so
với việc tham dự các hội thảo khoa
học chỉ để có giờ nghiên cứu, đúng
không nào? (Chia sẻ được dịch từ
tiếng Anh - 23/03/2019)
Trong khi tích cực và mạnh mẽ áp
dụng giải pháp trên cho các vấn đề liên quan
đến học sinh, An vẫn phải vật lộn để đối phó
với những thách thức từ môi trường làm việc
của mình và môi trường văn hóa xã hội. Đôi
khi các bài đăng chỉ đơn giản là để mỉa mai.
Để minh họa cho điểm này, chúng ta cùng
xem bài đăng sau đây: An đăng lại một tiêu
đề từ một tờ báo trực tuyến. Tiêu đề trích dẫn
một nghị định vừa được Bộ Giáo dục và Đào
tạo thông qua nhưng gây tranh cãi: “Từ ngày
1 tháng 11, giáo viên không được phép phê
bình học sinh trong lớp của mình”. Để phản
ứng với tin này, anh đã đăng dòng trạng thái
sau: “Vậy thì đừng làm gì cả và tốt nhất là
mọi người hãy về nhà thôi” và kết thúc bằng
một khuôn mặt cười. Phân tích tường thuật
Bản sắc cuối cùng, nhưng không kém
phần quan trọng của An là một giáo viên
luôn nêu gương người học ngoại ngữ suốt
đời. Có thể thấy điều này qua tập hợp các bài
đăng về những bộ phim yêu thích. Tại thời
điểm kết thúc thu thập dữ liệu, có tổng cộng
491 bài đăng về chủ đề này. Các bài đăng
đều được viết bằng tiếng Anh. Trong mỗi bài
đăng, đối tượng viết một đánh giá ngắn về
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
51
bộ phim mà không tiết lộ cốt truyện. Mục
đích của những bài viết này là để An có cơ
hội sử dụng tiếng Anh. Ngoài ra, hoạt động
này cho phép An thể hiện cho người học của
mình thấy cách sử dụng ngôn ngữ. An đã
chọn lựa từ ngữ cẩn thận, bao gồm từ vựng
đã dạy trên lớp. Điều này cũng khiến cho học
sinh của An quan tâm đến những bài đăng
này hơn. Bản sắc người học ngôn ngữ suốt
đời còn được thể hiện qua việc lựa chọn
ngôn ngữ sử dụng trên mạng xã hội, gần 95%
số chia sẻ An đăng trên Facebook trong giai
đoạn thu thập dữ liệu được viết bằng tiếng
Anh. Điều này là phù hợp với chia sẻ của An
trong phỏng vấn.
hình thức này không tồn tại riêng biệt, mà
cần được xem trong mối quan hệ tương tác
hỗ trợ. Trong hình thức đầu tiên, sự dấn thân
(engagement), chúng ta đầu tư vào các hoạt
động cũng như các mối quan hệ với các
thành viên khác của cộng đồng. Qua cách
liên hệ bản thân với người khác, chúng ta
hiểu được mình là ai. Qua dấn thân, chúng ta
tìm ra cách để tham gia vào các hoạt động và
các kĩ năng cần thiết. Hình thức thuộc về thứ
hai là tưởng tượng (imagination), qua quá
trình này, chúng ta liên hệ bản thân rộng hơn
với thế giới, bối cảnh bên ngoài cộng đồng
chuyên nghiệp. Wenger định nghĩa hình thức
này như sự hình thành các hình ảnh về bản
thân và thế giới vượt qua mức gắn kết. Hình
thức thứ ba là liên hệ đối chiếu (alignment),
mà qua quá trình này các thành viên của
cộng đồng được kết nối bằng cách đối chiếu
liên hệ hành động của mình với văn hoá của
tổ chức, cộng đồng. Qua các hoạt động này
mà bản sắc của cộng đồng, ví dụ như tổ chức
nơi công tác, trở thành bản sắc cá nhân.
Wenger chỉ ra rằng việc liên hệ và đối chiếu
này nếu bị áp buộc thì không chỉ ảnh hưởng
đến bản sắc cá nhân mà còn có thể dẫn tới sự
không hoà hợp trong tổ chức, thậm chí có thể
là xa lánh.
6. Quá trình kép trong hình thành bản sắc
Theo Wenger (1998), bản sắc của cá
nhân không chỉ phụ thuộc cách một người
nghĩ và nói về bản thân, hay chỉ về cách
những người khác nói và suy nghĩ về họ, mà
còn ở cách mà bản sắc cá nhân được thể hiện
mỗi ngày. Theo Wenger, bản sắc được hình
thành trong xung đột giữa những đầu tư
(investment) của chúng ta vào các hình thức
thuộc về, trong các hội nhóm, cộng đồng và
cách chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của những sự
việc, hiện tượng có ý nghĩa trong những bối
cảnh đó. Vì thế, quá trình hình thành bản sắc
cá nhân là một quá trình kép bao gồm xác
định (identification) và đàm phán các ý
nghĩa, gồm cả giá trị, hình ảnh, quan điểm, ý
kiến v.v (negotiation of meanings).
Về quá trình đàm phán các ý nghĩa
trong xây dựng bản sắc, trong cộng đồng
thực hành (community of practice), các ý
nghĩa mới, được hình thành qua trải nghiệm
hàng ngày, được đàm phán (tức là được mở
rộng, diễn giải lại, sửa đổi, xác nhận hoặc
loại bỏ). Quá trình này linh hoạt và mang
tính tương tác liên tục, cũng như phụ thuộc
vào thời gian và bối cảnh. Quá trình đàm
phán các ý nghĩa, theo Wenger, quyết định
mức độ mà một cá nhân có thể đóng góp và
quyết định các ý nghĩa mà họ đầu tư, vì thế
nó đóng vai trò cơ bản trong việc hình thành
bản sắc cá nhân. Quá trình đàm phán ý nghĩa
bao gồm hai quá trình: tham gia
(participation) và hữu hình hoá (reification)
các ý nghĩa. Việc tham gia vào quá trình đàm
phán các ý nghĩa bao gồm cả việc hình thành
và chấp nhận các ý nghĩa, và hai quá trình
Quá trình xác định (identification)
theo Wenger (1998) là quá trình mỗi cá nhân
xây dựng các mối quan hệ cũng như sự tách
biệt trong cộng đồng. Quá trình này mang
tính tương tác: Mỗi cá nhân tự xác định bản
thân, hoặc được liên hệ bởi người khác, là
thuộc về những nhóm, vai trò trong xã hội.
Quá trình này cũng mang tính trải nghiệm:
trải nghiệm sống của mỗi cá nhân trong các
hình thức thuộc về sẽ hình thành và quyết
định chúng ta là ai. Wenger (1998) phân loại
ba hình thức thuộc về như là nguồn gốc của
quá trình phát hiện ý nghĩa của bản sắc. Ba
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
này xảy ra đồng thời. Việc tham gia vào quá
52
Có thể thấy trong chia sẻ này, An
trình đàm phán các ý nghĩa là quá trình cá
nhân và xã hội (trong cộng đồng), nó xác
định trình độ cá nhân (cũng như các thiếu
sót) và giúp định hình cộng đồng, và cách
cộng đồng định hình các cá nhân. Khái niệm
hữu hình hoá (reification) chỉ cả quá trình và
sản phẩm - hình thức của trải nghiệm. Polin
(2008) miêu tả quá trình hữu hình hoá này là
sự đóng băng kiến thức trong hình thức vật
phẩm cụ thể bao gồm các công cụ, biểu
tượng, câu chuyện và khái niệm.
không chỉ đưa ví dụ về cách dùng trạng từ,
mà còn thể hiện quan điểm của mình về việc
học của các học sinh trong lớp. Không chỉ
các học sinh mà An đang giảng dạy mà cả
những người đọc Facebook của An đều được
chứng kiến quá trình mà anh hình thành, chia
sẻ các ý nghĩa mà anh tin tưởng về việc dạy
và học, cũng như được chứng kiến những tạo
tác mà bản sắc của An được hữu hình hoá
(reification), chính là các chia sẻ trên
Facebook như ảnh chụp về bảng viết ở trên
chính là một tuyên ngôn về quan điểm dạy
học. Như vậy, qua việc tham gia đọc, thảo
luận và chia sẻ về các chia sẻ của An, người
đọc bao gồm cả đồng nghiệp, phụ huynh học
sinh, học sinh, và bạn bè, được tham gia vào
quá trình xác định các ý nghĩa, mà qua đó họ
được gắn kết, tưởng tượng và đối chiếu với các
ý nghĩa mà An đang tin tưởng và quảng bá.
Khung lý thuyết của Wenger đã được
áp dụng trong nhiều nghiên cứu, phù hợp với
việc phân tích những phức tạp trong quá
trình hình thành của bản sắc của giáo viên
tiếng Anh (Tsui, 2007). Ví dụ dưới đây minh
hoạ cho sự lan toả trong quá trình hình thành
bản sắc của An, cho phép người đọc tham gia
vào quá trình kép, xác định và đàm phán ý
nghĩa. Một trong những bản sắc của An, như
đã nêu ở phần trước, được thể hiện qua các
chia sẻ trên Facebook là của một giáo viên
nghiêm khắc, thẳng thắn chỉ trích học sinh
chưa chăm chỉ và chú tâm vào học tập. Như
vậy, người đọc, qua việc đọc các chia sẻ của
An, có thể xác định và đối chiếu với các ý
nghĩa của họ như một người giáo viên hay
như một người sử dụng và học tiếng Anh. Họ
có thể đồng tình, chia sẻ hoặc phản bác dưới
hình thức nhận xét (comment) hoặc biểu tượng
tình cảm thể hiện qua nút bấm Thích (Like).
Bản sắc của An được hữu hình hoá qua các chia
sẻ trên Facebook. Ví dụ khi An dạy học sinh về
cách dùng trạngtừ, anh đăng trên Facebook ảnh
chụp bảng viết (28/11/2020) với dòng chú
thích: Học cách dùng trạng từ với thầy An.
7. Kết luận
Sự hình thành bản sắc là một khía
cạnh quan trọng để phát triển và trưởng
thành với tư cách là một thành viên trong
cộng đồng (Pennington & Richards, 2016).
Bài báo này trình bày những phát hiện sơ bộ
về cách hình thành và thể hiện bản sắc của
một giáo viên trên Facebook. Bài báo cũng
minh họa ưu thế của phỏng vấn tường thuật
trong việc kết nối những trải nghiệm trong
quá khứ và hiện tại của đối tượng nghiên
cứu, nhằm cung cấp sự thấu hiểu về thế giới
của họ. Có thể thấy rằng đối tượng nghiên
cứu ở đây đã thể hiện các bản sắc khác nhau
thông qua các bài đăng trên Facebook. Đó là
bản sắc của một người sử dụng ngôn ngữ
thành công, một giáo viên ngôn ngữ nghiêm
khắc, một chuyên gia giảng dạy giàu kinh
nghiệm và sẵn sàng chia sẻ, và một giảng
viên đang gặp khó khăn tại nơi làm việc. Đối
tượng nghiên cứu luân chuyển qua các bản
sắc đan xen này khi chúng định hình cách
anh ta nhìn thế giới và tương tác với học
sinh, đồng nghiệp, và những người đọc khác
trên Facebook và trong cuộc sống thực.
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
53
Beijaard, D., Meijer, P. C., & Verloop, N. (2004).
Reconsidering research on teachers’
professional identity. Teaching and Teacher
Education, 20, 107-128.
Một hàm ý quan trọng của nghiên
cứu này là các trang mạng xã hội như
Facebook có thể hoạt động như một cộng
đồng chuyên môn. Internet cung cấp không
gian cho mọi người có thể kết nối với những
người chung quan tâm, sở thích. Những
không gian như vậy khác với không gian
truyền thống bị giới hạn bởi hệ thống cấp bậc
và bộ máy hành chính, đồng thời có khả năng
khích lệ những người có trình độ hiểu biết
khác nhau đóng góp ý kiến và tham vấn lẫn
nhau (Gee, 2004). Ở bối cảnh Việt Nam, khi
các cơ hội học tập và phát triển chuyên môn
còn chưa nhiều, các trang mạng xã hội mang
lại cơ hội để giáo viên thực sự là tác nhân
của những thay đổi. Tuy nhiên, trước tiên
cần phải loại bỏ những giả định cho rằng
cộng đồng chuyên môn chỉ luôn tồn tại trong
thế giới thực và đi cùng với các hệ thống thể
chế. Giáo viên ngày nay có thể chủ động
hình thành cộng đồng chuyên môn của riêng
họ, nâng cao tiếng nói của họ và được lắng
nghe chỉ bằng một cú nhấp chuột.
Boyd, D. (2008). Why youth (heart) social network
sites: The role of networked publics in
teenage social life. In D. Buckingham (Ed.),
Youth, Identity, and Digital Media (pp. 119-
142). MIT Press.
Bruner, J. (1990). Acts of Meaning. Harvard
University Press.
Buffardi, L. E., & Campbell, K. W. (2008).
Narcissism and social networking web sites.
Personality and Social Psychology Bulletin,
34(10), 1303-1314.
Carpenter, J. P., & Krutkab, D. G. (2015).
Engagement
through
microblogging:
Educator professional development via
Twitter. Professional Development in
Education, 41(4), 707-728.
Clandinin, D. J., & Connelly, F. M. (2000). Narrative
inquiry: Experience and story in qualitative
research. Jossey-Bass Inc.
Coldron, J., & Smith, R. (1999). Active location in
teachers’ construction of their professional
identities. Journal of Curriculum Studies,
31(6), 711–726.
Duff, P., & Uchida, Y. (1997). The negotiation of
teachers’ sociocultural identities and
practices in postsecondary EFL classrooms.
TESOL Quarterly, 31(3), 451–486.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được hoàn thành với
sự hỗ trợ của Trường Đại học Ngoại ngữ,
Đại học Quốc gia Hà Nội trong đề tài mã số
N.18.02.
Ellison, N. B., Steinfield, C., & Lampe, C. (2011).
Connection strategies: social capital
implications
of
Facebook-enabled
communication practices. New Media &
Society, 13(6), 873-892.
Tài liệu tham khảo
Flick, U. (1998). An introduction to qualitative
research. SAGE Publications.
Antonek, J. L., McCormick, D. E., & Donato, R.
(1997). The student teacher portfolio as
autobiography: Developing a professional
identity. Modern Language Journal, 81(1),
15-27.
Gee, J. P. (2001). Identity as an analytic lens for
research in education. In W. G. Secada
(Ed.), Review of research in education (Vol.
25, pp. 99-125). SAGE Publications.
Gee, J. P. (2004). Situated language and learning: A
critique of traditional schooling. Routledge.
Bamberg, M. (2007). Stories: big or small - Why do
we care? In M. Bamberg (Ed.), Narrative -
State of the Art (pp. 167-174). John
Benjamins.
Giddens, A. (1991). Modernity and self identity: self
and society in the late modern age. Polity.
Bamberg, M., & Georgakopoulou, A. (2008). Small
stories as a new perspective in narrative and
identity analysis. Text & Talk, 28(3), 377-
396.
Hashimoto, K., & Van-Trao, N. (2018). Professional
development of English language teachers
in Asia. Routledge.
He, M. F. (2002c). A narrative inquiry of cross-
cultural lives: Lives in the North American
academy. Journal of Curriculum Studies,
34(5), 513–533.
Bates, T., Swennen, A., & Jones, K. (2011). In the
professional development of teacher
educators. Routledge.
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
54
Jovchelovitch, S., & Bauer, M. W. (2000). Narrative
interviewing [online]. LSE Research
Online.
Pennington, M. C., & Richards, J. C. (2016). Teacher
identity in language teaching: Integrating
personal, contextual, and professional
factors. RELC Journal, 47, 5–23.
Kelly, N., & Antonio, A. (2016). Teacher peer
support in social network sites. Teaching
and Teacher Education, 56, 138-149.
Polin, L. (2008). Graduate professional education
from a community of practice perspective:
The role of social and technical networking.
In C. Kimble, P. M. Hildreth & I. Bourdon
(Eds.), Communities of practice: Creating
learning environments for educators (pp.
163-178). Information Age Publishing.
Lankveld, T. V., Schoonenboom, J., Volman, M.,
Croiset, G., & Beishuizen, J. (2017).
Developing a teacher identity in the
university context: A systematic review of
the literature. Higher Education Research &
Development, 36(2), 325-342.
Prestridge, S. (2019). Categorising teachers’ use of
social media for their professional learning:
MacLure, M. (1993). Arguing for yourself: Identity
as an organizing principle in teachers’ jobs
and lives. British Educational Research
Journal, 19(4), 311–322.
A
self-generating professional learning
paradigm. Computers & Education, 129,
143-158.
Ranieri, M., Manca, S., & Fini, A. (2012). Why (and
how) do teachers engage in social networks?
An exploratory study of professional use of
Facebook and its implications for lifelong
learning. British Journal of Educational
Technology, 43(5), 754-769.
Mai, T. M., Nguyen, L. T., Tran, L. N., & Le, T. V.
(2020). EFL teachers' Facebook groups as
online communities of practice: Toward
configurations for engagement and
sustainability. Computer-Assisted Language
Learning Electronic Journal, 21(3), 140-158.
Riesman, C. K. (1993) Narrative Analysis. SAGE
Marcia, M., & Garcia, I. (2016). Informal online
communities and networks as a source of
Publications.
teacher professional development:
review. Teaching and Teacher Education,
55, 291-307.
A
Rodgers, C. R., & Scott, K. H. (2008). The
development of the personal self and
professional identity in learning to teach.
Handbook of Research on Teacher
Education (732-755).
Mazer, J. P., Murphy, R. E., & Simonds, C. J. (2007).
I’ll see you on “Facebook”: the effects of
computermediated teacher self-disclosure
on student motivation, affective learning,
and classroom climate. Communication
Education, 56(1), 1-17.
Sachs, J. (2005). Teacher education and the development
of professional identity: Learning to be a
teacher. In P. Denicolo & M. Kompf (Eds.),
Connecting policy and practice: Challenges for
teaching and learning in schools and
universities (pp. 5-21). Routledge.
Moore, A., Edwards, G., Halpin, D., & George, R.
(2002).
Compliance,
resistance
and
pragmatism: The (re)construction of
schoolteacher identities in a period of intensive
educational reform. British Educational
Research Journal, 28(4), 551-565.
Samuel, M., & Stephens, D. (2000). Critical dialogues
with self: Developing teacher identities and
roles - a case study of South African student
teachers.
International
Journal
of
Educational Research, 33, 475-491.
Nie, J., & Sundar, S. S. (2013). Who would pay for
facebook? Self esteem as a predictor of user
behavior, identity construction and
valuation of virtual possessions. In P. Kotzé,
G. Marsden, G. Lindgaard, J. Wesson & M.
Sfard, A., & Prusak, A. (2005). Telling identities: In
search of an analytic tool for investigating
learning as a culturally shaped activity.
Educational Researcher, 34(4), 14-22.
Winckler
(Eds.),
Human-Computer
Tsui, B. M. A. (2007). Complexities of identity
formation: A narrative inquiry of an EFL
teacher. TESOL Quarterly, 41(4), 567-680.
Interaction - INTERACT 2013: Lecture
notes in computer science (Vol. 8119, pp.
726-743). Springer.
Wenger-Trayner, E., & Wenger-Trayner, B. (2015).
Introduction to communities of practice. EB.
communities-of-practice/
Olsen, B. (2008). Teaching what they learn, learning
what they live. Paradigm Publishers.
Page, R. (2012). Stories and social media. Routledge.
NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI, TẬP 37, SỐ 2 (2021)
55
USING NARRATIVE INQUIRYTO EXAMINE TEACHERS'
IDENTITYVIAFACEBOOK NARRATIVES
Mai Ngoc Khoi, Tran Thi Long
VNU University of Languages and International Studies,
Pham Van Dong, Cau Giay, Ha Noi, Vietnam
Abstract: Identity is the result of one's personality, upbringing, learning and working
experience. This article presents the results of a research on the personal identity of a lecturer teaching
English at a university in Vietnam. The article analyzes the teacher's shared narratives on Facebook
about his life and teaching experiences. In-depth interviews were conducted over a one-year period
following narrative inquiry procedure. The paper shows the complexity of the participant's four
intertwined identities as well as the potential of Facebook as an online platform to share and reflect on
personal experiences, thereby allowing readers to engage in a dual process of identification and
negotiation of meanings in identity formation. Social networks have the potential to mitigate the
isolation of teachers in their pursuit of professional development activities and to promote the formation
and development of professional communities.
Keywords: identity, social network, socio-constructivism
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu về bản sắc cá nhân của giáo viên qua chia sẻ trên facebook với phương pháp nghiên cứu tường thuật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nghien_cuu_ve_ban_sac_ca_nhan_cua_giao_vien_qua_chia_se_tren.pdf