Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ trong nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
TẬP 6 SỐ 3
NHẬN DIỆN VĂN HÓA, VĂN HỌC NAM BỘ
TRONG NGHIÊN CỨU CỦA CA VĂN THỈNH
Lê Sỹ Đồng
Trường Đại học Thủ Dầu Một
Ngày nhận bài: 12/10/2018; Ngày duyệt đăng: 17/12/2018
Tóm tắt
Từ trước đến nay, việc nhận diện văn hóa, văn học của một vùng miền được tiếp cận ở nhiều
phương cách khác nhau. Mỗi phương cách cho người đọc có một cách nhìn khác nhau về văn hóa,
văn học của mỗi vùng. Trong bài viết này, chúng tôi dựa vào những nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh
để nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ với các khía cạnh như: văn học dân gian, văn học viết, lịch
sử văn học, văn hóa giáo dục. Từ kết quả nghiên cứu này, trước hết chúng tôi muốn khẳng định
những đóng góp của Ca Văn Thỉnh với việc mở đường nghiên cứu văn hóa, văn học Nam bộ; sau
nữa là muốn nhấn mạnh đến những phương diện văn hóa truyền thống ở Nam bộ mà Ca Văn Thỉnh
đã dày công dành trọn cả đời để nghiên cứu.
Từ khóa: Ca Văn Thỉnh, văn hóa, văn học, Nam Bộ
Identification of culture, literature in Southern from Ca Van Thinh 's research
Abstract
Until now, the identification cultural and literary of a region has been approached in a variety
of ways. In each of these ways, the reader has a different recognization on the culture and literature
of that region. In this article, we rely on the research of Ca Van Thinh to identify the culture and
literature of the Southern with aspects such as folklore, literature, literary history, culture and
education. From the results of this research, before of all, we want to confirm the contributions of
Ca Van Thinh with the opening of the road to study the culture and literature of the Southern; and
then, we would like to emphasize the traditional cultural aspects of the Southern that Ca Van Thinh
devotes his own life to research.
Key word: Ca Van Thinh, culture, literature, southern.
cũng làm rõ hơn những đóng góp của Ca Văn
Thỉnh đối với việc bảo tồn văn hóa, văn học
Nam Bộ.
Đặt vấn đề
Khoảng hơn mươi năm đầu thế kỷ XXI, các
nhà nghiên cứu văn hóa, văn học dần lật lại
những công trình nghiên cứu của tiền nhân để
ôn cố tri tân, để đánh giá lại những đóng góp của
người đi trước đối với tiến trình bảo tồn văn hoá,
văn học dân tộc. Tuy nhiên, để có cái nhìn toàn
diện về văn hóa, văn học Nam Bộ không phải là
một việc dễ dàng. Ở bài viết này, chúng tôi bước
đầu nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ qua
những công trình nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh
nhằm góp thêm một góc nhìn khác về những lớp
trầm tích văn hóa, văn học Nam Bộ; đồng thời
Như ta biết, Ca Văn Thỉnh hưởng thọ 85 tuổi
(1902 – 1987). Trong 85 năm hạnh lạc trên cõi
đời, ông không ngừng cố gắng phấn đấu để hoàn
thiện bản thân, tạo lập cho mình sự nghiệp, có
nhiều cống hiến đáng kể ở nhiều lĩnh vực cho
nước nhà. Từ trước 1945, Ca Văn Thỉnh (bút
danh Ngạc Xuyên) đã công bố khá nhiều bài viết
trên Đại Việt Tập chí như Biên dịch tiểu sử
Nguyễn Thông; Khổng học đất Đồng Nai; Luận
về núi; Đền Đế Thiên đối với tiền nhơn ta;
67
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
VOLUME 6 NUMBER 3
Nguyễn Văn Thoại với sự đào Thoại hà và kinh
Vĩnh tế; Minh bột di ngư – Một quyển sách hai
thi xã… Sau năm 1945, Ca Văn Thỉnh tiếp tục
công bố những nghiên cứu của mình trên Tạp
chí Nghiên cứu Văn học, Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử, Báo Văn nghệ TP. HCM… Cùng
với đó, Ca Văn Thỉnh xuất bản cuốn Hào khí
Đồng Nai, Nxb TP.HCM, năm 1983; và được
Nxb ĐHQG Hà Nội tái bản năm 2014. Ngoài ra,
ông còn để lại rất nhiều bản thảo chưa công bố
như: Nguyễn Đình Chiểu cuộc đời và sự nghiệp;
Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ chiến đấu vì nghĩa
cả; Phong trào đấu tranh lục tỉnh trong thời
gian đầu xâm lược của Pháp; Tìm hiểu lòng đạo
của Nguyễn Đình Chiểu; Niềm mơ ước của
Nguyễn Đình Chiểu về mặt xã hội công bằng
bác ái đang thành hiện thực trong chủ nghĩa xã
hội ngày nay;… Và 17 cuốn nhật ký. Với những
công trình này, Ca Văn Thỉnh đã cùng với
những nhà nghiên cứu đương thời có những
đóng góp lớn, giúp cho thế hệ sau nhận diện rõ
ràng hơn về văn hóa, văn học Nam Bộ.
hoặc chỉ dành một phần nhỏ viết về văn học
Nam Bộ để cho đầy đủ nội dung văn học vùng
miền. Có thể do chưa đủ điều kiện để đi khảo
sát, sưu tầm; hoặc do hạn chế về ý thức mang
tính lịch sử mà các tác giả những cuốn sách trên
đã vô tình lãng quên hoặc có những thiếu sót
trong quá trình biên soạn lịch sử văn học dân
tộc. Dù với lý do gì thì đó cũng là những hạn
chế của các nhà nghiên cứu văn học đầu thế kỷ
trước. Vì vậy mà văn học dân gian Nam Bộ lại
càng ít được quan tâm, chú ý. Và do vậy, sự dày
công của Ca Văn Thỉnh nghiên cứu văn học
Nam bộ để góp sức khắc phục những hạn chế
của người đi trước là vô cùng quan trọng.
Ngoài việc giới thiệu, Ca Văn Thỉnh còn
miệt mài sưu tầm những văn phẩm ở hầu hết các
thể loại văn học dân gian ở Nam Bộ. Cụ thể như:
Về ca dao sưu tầm được 78 bài. Bài ngắn nhất
hai câu, bài dài nhất mười sáu câu; Về tục ngữ
sưu tầm được 24 câu; Về lý sưu tầm được 10 bài,
ngắn nhất 2 câu, bài dài nhất bốn câu; Về truyện
dân gian sưu tầm được 15 văn bản (Ca Văn
Thỉnh, 1983).
Một đóng góp khác, Ca Văn Thỉnh đã chỉ ra
vai trò, giá trị và vị trí thiết yếu của văn học dân
gian Nam Bộ trong văn học dân gian của dân tộc
và trong tiến trình văn học sử Việt Nam. Ca Văn
Thỉnh đã chỉ ra rằng văn học dân gian Nam Bộ
có vai trò phản ánh những tâm tư, tình cảm và
nguyện vọng của người dân Nam Bộ. Như
Truyện Thủ Huồng, lên án những kẻ gian ác,
sống trên mồ hôi, nước mắt, xương máu của
những người nông dân lao động nghèo khổ. Từ
đó nói lên sự hướng thiện của người Nam Bộ
chân chất thật thà, khoan dung. Ca Văn Thỉnh
còn chứng minh điều đó qua các câu ca dao hay
những mẩu chuyện về những người vợ thuỷ
chung, những vị anh hùng yêu nước. Ví như
Truyện Núi Bà Đội Om, một mặt, Ca Văn Thỉnh
ngợi ca đức hạnh thuỷ chung, chịu thương, chịu
khó của người vợ; mặt khác lên án chế độ sưu
thuế, phu phen nặng nề.
1. Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ
qua nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh về văn học
dân gian Nam Bộ
Qua tìm hiểu những công trình về văn học
hoặc có liên quan đến văn học của Ca Văn
Thỉnh, chúng tôi nhận thấy rằng: Về sưu tầm và
nghiên cứu văn học dân gian Nam Bộ thì cuốn
Hào khí Đồng Nai là có giá trị nhất, quan trọng
nhất và có lẽ là tâm huyết nhất mà Ca Văn Thỉnh
để lại. Mở đầu công trình nghiên cứu này, Ca
Văn Thỉnh trình bày ý kiến của mình về một số
truyện, thơ dân gian truyền khẩu với mục đích
giới thiệu đến công chúng yêu thơ văn dân tộc
một vùng văn học khá mới mẻ và lạ lẫm – văn
học dân gian Nam Bộ. Đây chính là sự bổ
khuyết hết sức quan trọng mà Ca Văn Thỉnh góp
vào những công trình văn học sử thời bấy giờ.
Khi xem lại những cuốn văn học sử như:
Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 4b (Lê Trí Viễn,
1976), Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam: Giai
đoạn nửa cuối thế kỷ XIX (Huỳnh Lý và cộng
sự, 1964), Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa
đầu thế kỷ XIX (Nguyễn Lộc và cộng sự, 1962),
chúng tôi thấy các cuốn sách này hầu như không
Cùng với đó, Ca Văn Thỉnh khẳng định tính
giáo dục và tính chiến đấu trong các tác phẩm
dân gian Nam Bộ. Ta thấy ở hầu hết ở các công
trình của Ca Văn Thỉnh đều đề cập hoặc nhấn
68
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
TẬP 6 SỐ 3
mạnh đến mặt giáo dục của văn học dân gian
Nam Bộ. Ví như các bài viết: Qua nhiều thời
gian, thành phố ta là một chiến trường chống
ngoại xâm, Truyền thống quật cường của Nam
Bộ và Việt Nam, với tinh thần đấu tranh của
Nguyễn Đình Chiểu, Phong trào đấu tranh của
nhân dân Lục tỉnh trong thời gian đầu xâm lược
của quân Pháp. Ở những bài viết trên, tính
chiến đấu, tinh thần quật cường của người dân
Nam Bộ được thể hiện khá rõ nét. Đó là những
cuộc đấu tranh của dân nghèo chống lại địa chủ,
là những cuộc đấu tranh đòi lại sự công bằng
cho xã hội; là những cuộc đấu tranh chống lại
thiên tai để sinh tồn; và hơn hết là những cuộc
đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược – mà đặc
biệt là những cuộc đấu tranh chống thực dân
Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được thể
hiện trong các tác phẩm như: Truyện Trương
Quyền, Hịch thiêu muỗi, Hịch con quạ, Bài ca
phản đế (Ca Văn Thỉnh, 1983)… và nhiều tác
phẩm khác nữa.
Cuối cùng, Ca Văn Thỉnh chỉ ra vị trí của văn
học Nam Bộ trong mối quan hệ hữu cơ giữa văn
học dân gian miền Nam và văn học dân gian
miền Bắc. Từ đó, ông khẳng định văn học dân
gian Nam Bộ là một bộ phận của lịch sử văn học
dân gian Việt Nam trong sự thống nhất của Nam
Bộ và Bắc Bộ. Trong bài: Ý nghĩ về văn học sử
Nam Bộ và mối quan hệ Bắc Nam, ông viết:
“Biên lục văn học dân gian ở Bắc có nhiều tập
sách. Ngoài những tập sách chữ Nôm, chữ Hán
được in hoặc chép tay từ xưa còn có hai tập Tục
ngữ phong giao chữ Quốc ngữ của Nguyễn Văn
Ngọc” (Ngạc Xuyên, 1975), mà trong đó ta thấy
những dấu vết lưu lại trong văn học dân gian
Nam Bộ; hay “đối chiếu mấy tập sách dân gian
xưa nay, Bắc và Nam, chúng ta sung sướng thấy
nhiều câu giống nhau, nhất là tục ngữ, phương
ngôn” (Ngạc Xuyên, 1975).
2. Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ
qua nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh về văn học
viết Nam bộ
Trước hết đó là những đóng góp trong việc
giới thiệu các tác giả văn học Nam Bộ. Ta thấy
hầu hết các công trình, các bài viết của Ca Văn
Thỉnh về văn học, hoặc có liên quan đến văn học
như: Nguyễn Hữu Huân thân thế và sự nghiệp
(Ca Văn Thỉnh, 1976); Nguyễn Đình Chiểu cuộc
đời và sự nghiệp (Ca Văn Thỉnh, bản thảo a);
Hào khí Đồng Nai (Ca Văn Thỉnh, 1983); Nhớ
hai nhà giáo Võ Trường Toản và Nguyễn Đình
Chiểu (Ca Văn Thỉnh, 1978); Ý nghĩ về văn học
sử Nam bộ và mối quan hệ Bắc Nam (Ngạc
Xuyên, 1975) đều đề cập đến ít nhiều một vài
tác gia, tác phẩm văn học Nam Bộ đó là những
tác giả có tình yêu nước nồng nàn như: Hồ Huân
Nghiệp, Phan Văn Trị, Mạc Thiên Tích, Trịnh
Hoài Đức, Nguyễn Cư Trinh, Võ Trường Toản,
Đặng Đức Thuật, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang
Định, Nguyễn Thông, Huỳnh Mẫn Đạt, Trần
Thiện Chánh, Nguyễn Đình Chiểu. Hẳn nhiên,
những tác giả này từ trước đã được nhiều nhà
nghiên cứu biết đến, sưu tầm nghiên cứu.
Cùng với việc giới thiệu các nhà văn Nam
Bộ, Ca Văn Thỉnh còn đóng góp tích cực trong
việc sưu tầm và nghiên cứu văn học viết.
Về mặt sưu tầm, Ca Văn Thỉnh chú tâm biên
tập thơ văn của những nhà thơ yêu nước, những
tác phẩm có tính chiến đấu cao hoặc có ý nghĩa
giáo dục sâu sắc. Ngoài thơ văn sưu tập và chú
giải trong hai công trình Nguyễn Đình Chiểu
toàn tập (2 tập), Ca Văn Thỉnh và cộng sự
(1982); Thơ văn yêu nước Nam Bộ (nửa sau thế
kỷ XIX), Bảo Định Giang, Ca Văn Thỉnh (1977),
Hào khí Đồng Nai, Ca Văn Thỉnh (1983), ông
còn biên khảo, dịch nhiều thơ văn chữ Hán sang
chữ Quốc ngữ.
Về mặt nghiên cứu, ngoài những đóng góp
về mặt chú giải từ ngữ, tìm hiểu hoàn cảnh ra
đời của tác phẩm, Ca Văn Thỉnh còn có những
đóng góp đáng kể trong quá trình đánh giá giá
trị nội dung những văn phẩm văn học Nam Bộ.
Ví như:
Như vậy, qua việc nghiên cứu văn học dân
gian, Ca Văn Thỉnh bước đầu cho người đọc
thấy được mối quan hệ giữa văn hóa, văn học
Nam Bộ với Bắc Bộ; đồng thời, ông cũng chỉ ra
được nét đặc trưng trong tính cách của người
Nam bộ là tính hướng thiện, giàu tình nghĩa,
chuộng sự thẳng ngay và yêu lẽ công bằng.
Ca Văn Thỉnh nghiên cứu về Nguyễn Đình
Chiểu khá sớm. Năm 1942, ông có bài Bài diễn
69
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
VOLUME 6 NUMBER 3
văn đọc trong lễ kỷ niệm ngày mất Nguyễn Đình
Chiểu – đã khẳng định rõ thêm vai trò, vị trí của
Nguyễn Đình Chiểu trong văn học Nam bộ.
Tiếp đó, sau 1945, thời kỳ với bộn bề các
công việc phục vụ cho cách mạng – ông vẫn
miệt mài nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu.
Ông luôn cố gắng tìm tòi để chứng minh Nam
Bộ có một nền văn học thực sự hết sức phong
phú. Điều đó thể hiện trong các bài viết dù mang
tính cách mạng thì ông vẫn lấy dẫn chứng trong
văn học để minh chứng cho điều mình khẳng
định. Riêng Nguyễn Đình Chiểu – ông có
khoảng dăm bài viết về hoặc liên quan đến tác
gia này. Sau Nguyễn Đình Chiểu, Ca Văn Thỉnh
giới thiệu hàng loạt các tác giả, mà sau này được
biên soạn trong cuốn Hào khí Đồng Nai – viết
riêng, và cuốn Thơ văn yêu nước Nam Bộ cuối
thế kỷ XIX – viết chung với Bảo Định Giang. Để
khẳng định rõ hơn vai trò của Ca Văn Thỉnh đối
với văn học viết Nam Bộ, chúng tôi xin bàn
thêm về vị trí của ông trong công trình này.
Ngay đầu cuốn sách, Nhà xuất bản Văn học
Giải phóng (1977) ghi: Thơ văn yêu nước Nam
được Ca Văn Thỉnh (Ngạc Xuyên, 1943 b) đăng
trên Đại Việt Tập chí. Thứ ba: Bài giới thiệu
cuốn sách của Ca Văn Thỉnh không hẳn chỉ có
chức năng giới thiệu, mà nó là một bài nghiên
cứu văn học (viết tháng 5/1962, bổ sung và sửa
chữa tháng 7/1972).
Như vậy, nên chăng chúng ta phải viết tác
giả Thơ văn yêu nước Nam Bộ: nửa sau thế kỷ
XIX là Ca Văn Thỉnh giới thiệu và cùng Bảo
Định Giang biên soạn để khẳng định đóng góp
hết sức quan trọng của Ca Văn Thỉnh đối với
công trình này.
Qua việc khảo sát những công trình trên,
chúng tôi nhận thấy Ca Văn Thỉnh đã chứng
minh được nội dung chủ yếu trong văn học Nam
bộ đó là tinh thần yêu nước. Tình yêu nước ấy
"chảy" xuyên suốt từ văn học dân gian đến văn
học viết. Cũng từ nội dung văn học này, Ca Văn
Thỉnh cũng đã làm rõ mạch nguồn văn hóa Nam
Bộ chính là tình yêu nước, ý thức tự cường, và
tự chủ dân tộc.
3. Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ
qua nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh về lịch sử
văn học Nam Bộ
Bộ (nửa sau thế kỷ XIX), Bảo Định Giang biên
soạn, Ca Văn Thỉnh giới thiệu. Cuốn sách này
được in lần đầu năm 1962, sau đó được tái bản
nhiều lần, nhưng cơ bản công trình này không
có gì thay đổi. Dựa vào những nghiên cứu của
mình, chúng tôi khẳng định, Ca Văn Thỉnh
không chỉ có công giới thiệu mà còn có công
cùng Bảo Định Giang biên soạn cuốn sách này.
Bằng chứng là: Thứ nhất: trước khi cuốn sách ra
đời – in lần đầu 1962, Ca Văn Thỉnh đã có
những bài viết về các tác giả ví dụ như: Nguyễn
Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Phan Văn Trị,
Nguyễn Hữu Huân… Sau được soạn trong cuốn
sách này. Thứ hai: Khi so sánh văn bản biên
soạn trong cuốn sách này với những văn bản
trong cuốn Hào khí Đồng Nai, Ca Văn Thỉnh
(1983) thì có một số văn phẩm và tác giả được
biên soạn trùng nhau. Ví dụ như: Thơ Phan Văn
Trị có: Con trâu, con mèo, con cua, con rận, đá
cá thia thia; Bùi Hữu Nghĩa có: Cây vông, cây
bần; Huỳnh Mẫn Đạt có: Cây dừa; Nguyễn Hữu
Huân có: Cây bắp; ngoài ra ta còn thấy truyện:
Câu truyện yếm quỷ của Nguyễn Thông, đã
Có lẽ trước đây giới nghiên cứu ít quan tâm
tới văn học Nam Bộ vì họ cho rằng văn học Nam
Bộ không có lịch sử, không có truyền thống. Do
đó, nếu có công trình nào có đề cập đến văn học
Nam Bộ thì cũng chỉ nhắc đến Trịnh Hoài Đức,
Nguyễn Đình Chiểu chứ không trình bày,
nghiên cứu kỹ lưỡng và có hệ thống. Thế nên để
văn học Nam Bộ được các nhà nghiên cứu quan
tâm thì trước hết phải chứng minh được văn học
Nam Bộ có quá khứ, có truyền thống và có lịch
sử hình thành và phát triển. Với niềm tin và tình
yêu văn học trên mảnh đất Nam Bộ, Ca Văn
Thỉnh đã chứng mình được điều mà người dân
Nam Bộ hằng mong đợi: Khẳng định Nam Bộ
có nền văn hoá, văn học mang truyền thống con
Hồng, cháu Lạc. Đây chính là niềm tự hào của
người miền Nam. Trong bài viết Ý nghĩ về văn
học sử Nam bộ và mối quan hệ Bắc Nam (Ngạc
Xuyên, 1975), tác giả đã dẫn ra những bằng
chứng chứng minh nhận định của Nguyễn Văn
Hầu “văn học Nam Bộ không có quá khứ”, là
sai lạc. Ca Văn Thỉnh đã dựa vào những sự kiện
70
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
TẬP 6 SỐ 3
lịch sử để chỉ ra rằng: Khoảng 300 năm trước
đây, tổ tiên của người Nam Bộ gốc người Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế,… vào sinh
sống ở Đồng Nai. Do vậy những câu truyện xưa,
những lời dạy dỗ, những nét văn hoá qua ca dao,
tục ngữ biểu thị rõ tính chất chung của người
miền Nam được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác trong các gia đình Nam Bộ. Về văn học
dân gian được lưu truyền cả trong Nam, ngoài
Bắc như: Tục ngữ: Cá chậu chim lồng, Lá rụng
về cội, ăn một đọi nói một lời; Mía sâu có đốt
nhà dột có nơi…; Ca dao: Người còn thì của
cũng còn miễn là nhân nghĩa vuông tròn thì thôi
hay Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một
tiếng anh hùng mà thôi; Cổ tích: Trầu cau, Phù
Đổng, Tấm Cám…
Trên cơ sở ấy, Ca Văn Thỉnh (1975) đã chỉ
ra rằng: "văn học Nam Bộ hình thành và phát
triển trên sự kế thừa văn học Việt Nam từ thời
Hùng Vương, qua hơn 1000 năm bị phương Bắc
đô hộ, trước những thách thức lớn lao, nhiều
phen giành độc lập. Những dấu vết về sự kế thừa
này có thể tìm thấy trong văn nghệ, văn hoá dân
gian cũng như trong văn học thành văn. Truyền
thống văn học ấy gắn liền với sự tiếp thu tư
tưởng phương Đông một cách chọn lọc". Trong
bài Góp ý về hai tập lịch sử văn học Việt Nam,
Ca Văn Thỉnh viết: “Cùng với Nho giáo, Phật
giáo đã vào đất nước ta với triết lý: Phật ở lòng
người, không phân đẳng cấp, thích hợp với đức
tính truyền thống dân tộc. Đến thế kỷ X, sau
chiến thắng Bạch Đằng, các Triều Đinh, Lê, Lý
và một phần Triều Trần chịu ảnh hưởng nhiều
của Thiền tông từ phái Ti-ni-da-lưu-chi đến Vô
Ngôn Thông và Thảo Đường. Đến thế kỷ XIII,
Trần Nhân Tông viết bài tự “Thiền tông chỉ
nam” nhắc lại lời quốc sư ở chùa Yên Tử: “phàm
đã làm vua trong thiên hạ, phải lấy ý muốn của
thiên hạ làm ý muốn của mình, phải lầy tấm lòng
của thiên hạ làm tấm lòng của mình” (Ca Văn
Thỉnh, 1975).
Đức tính truyền thống kiên cường, độc lập,
thống nhất cùng với tinh thần sinh hoạt của
những nhà nhiệt tình yêu nước yêu dân đã tạo
điều kiện thuận lợi để vận dụng mặt tích cực của
Nho giáo. Ngoài Nguyễn Trãi, ta cũng nên tìm
hiểu thêm Nguyễn Đình Chiểu – một nhà thơ mù
đầy tình yêu nước, yêu dân; Một người chịu ảnh
hưởng những điển tích của nhà Tống Nho
Tương Tái, tác giả của những tập “Tây Minh,
Chính Mông” – với nội dung khá tiến bộ. Từ tác
phẩm Lục Vân Tiên đến Dương Từ Hà Mậu, rồi
Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc đều đề cao những
người anh hùng xuất thân từ nông dân; những
người dám hy sinh thân mình vì việc nghĩa, vì
dân vì nước” (Ca Văn Thỉnh, bản thảo b). Từ
những nghiên cứu trên, Ca Văn Thỉnh đã chứng
minh được văn học Nam Bộ không những có
quá khứ mà còn có mối liên hệ khăng khít với
văn học miền Bắc.
Thế là ở Nam Bộ từ khi chưa có văn học
thành văn thì phong tục, tập quán, ngôn ngữ,
truyền thống dân tộc thể hiện qua văn học dân
gian đã truyền từ Bắc vào; ngày càng ăn sâu vào
tâm trí, tác phong con người Nam Bộ.
Mặt khác trong bài viết của mình, Ca Văn
Thỉnh cũng dẫn lại hai tác phẩm, một của Lê
Quý Đôn - Phủ Biên tạp lục, một của Phạm
Nguyễn Du - Nam hành ký đắc tập để khẳng
định mối quan hệ văn hoá Bắc Nam. Riêng phần
văn học, hai văn sĩ trên đã kỳ công sưu tầm,
nghiên cứu văn học Nam Bộ – đặc biệt là những
sự kiện văn học sử hết sức quan trọng, làm
phong phú thêm văn liệu đất Hà Tiên cùng Gia
Định. Đáng chú ý như đánh giá của Lê Quý Đôn
về thơ họ Mạc: “Các văn nhân Trung Quốc và
Thuận Quảng khá nhiều người đã họa vần 10 bài
thơ của Mạc. Xem thế đủ biết rằng ở nơi hải
ngoại cũng có văn chương hay thơ. Trong mười
bài vịnh cảnh Hà Tiên, có bài thứ 9 và bài thứ 10
là hay hơn cả" (Ca Văn Thỉnh, 1975). Ở quyển II,
Nam hành ký đắc tập, Phạm Nguyễn Du cũng
trích một số thơ của Mạc (Ca Văn Thỉnh, 1975):
"Những văn thơ chữ Nôm về 10 cảnh Hà Tiên
của Mạc Thiên Tích rất được phổ biến ở Nam Bộ.
Những tập thi tuyển chữ Quốc ngữ từ cuối thế kỷ
XIX của Huỳnh Tịnh Của, Lê Quang Chiểu, Lê
Sum đã đăng thơ của Mạc Thiên Tích. Đặc biệt
Đông Hồ đã biên khảo trong nhiều số tạp chí
Nam Phong về Mạc Thiên Tích.".
Mặt khác, Ca Văn Thỉnh đã chỉ ra bên cạnh
những nét chung trong văn học Việt Nam, thì
71
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
VOLUME 6 NUMBER 3
văn học Nam Bộ cũng có những đặc điểm riêng.
Những đặc điểm riêng ấy gắn liền với lối sống,
hoàn cảnh sống, cá tính của người Nam Bộ. Văn
ngôn trong văn học Nam Bộ không cầu kỳ, ít
sâu xa. Nó gắn liền với lời ăn tiếng nói hằng
ngày nhưng lại giàu tính giáo dục nhân nghĩa
đạo đức. Trong bản thân văn học Nam Bộ cũng
có những mối liên hệ riêng biệt giữa các thời kỳ.
Cụ thể, Ca VănThỉnh đã chứng minh được mối
liên hệ ấy qua bài: Minh bột di ngư – Một quyển
sách hai thi xã (Ngạc Xuyên, 1943 a). Đó là mối
liên hệ giữa nhóm Chiêu Anh Các ở Hà Tiên do
Mạc Thiên Tích với nhóm Gia Định tam gia mà
người đứng đầu là Trịnh Hoài Đức. Từ sự phát
triển nội tại ấy, văn học Nam Bộ đã để lại một
khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Tuy nhiên ông
cũng chỉ ra rằng: Những mối quan tâm đến
thành tựu và quá trình phát triển của văn học
miền Nam là chưa đúng mức, cần được quan
tâm, chú ý hơn nữa (Ngạc Xuyên, 1943 a).
Đóng góp của ông không chỉ ở cái gọi là “chỉ
đạo”, mà chính bản thân ông đã xắn áo bắt tay
vào việc tìm tòi nghiên cứu bổ sung cho những
thiếu sót hay sai lệch mà các công trình nghiên
cứu về văn học Nam Bộ mắc phải. Ở đây chúng
tôi xin không bình luận nhiều mà xin tóm lược
một đoạn trong Phần II bài viết Góp ý về hai tập
lịch sử văn học Việt Nam (Ca Văn Thỉnh, 1975)
để thấy rõ đóng góp và tấm lòng của Ca Văn
Thỉnh dành cho văn học Nam Bộ sâu nặng đến
thế nào: "Con dân Nam Bộ, hiểu biết xã hội, văn
học Nam Bộ với sắc thái riêng của địa phương,
tôi cảm thấy bản dự thảo lịch sử Việt Nam, tuy
có nói qua về Mạc Thiên Tích Hà Tiên và ba nhà
thơ Gia Định, nhưng tác giả ít biết văn hoá, ngôn
ngữ, văn nghệ dân gian, và ít tìm tài liệu, sách
báo chữ quốc ngữ xuất bản từ 1865, có phần
nào, ở thư viện, như Gia Định báo.
Pháp cho ra đời tờ báo Quốc ngữ “Gia Định
báo” (1865). Từ 1869 đến 1897, Trương Vĩnh
Ký làm chủ bút báo này (Ca Văn Thỉnh, 1975).
Trong giai đoạn này, ta thấy có nhiều tác phẩm
được phiên âm ra chữ quốc ngữ như: Lục Vân
Tiên (1873); KimVân Kiều (1875). Về tiếng nói
Nam Bộ, đáng chú ý có nhiều từ gốc dân tộc. Ví
dụ: Người Nam Bộ gọi: cây viết, ngòi viết mà
không gọi “bút”; gọi là “trái cây”, ít gọi là quả;
gọi là “vỏ, ruột” xe đạp, xe hơi mà không gọi là
“lốp săm”.
Về văn học dân gian, ngôn ngữ học, ta có thể
bổ sung thêm vài tác giả Nam Bộ, thời Pháp
thuộc đã hợp tác với thực dân như: Huỳnh Tịnh
Của với Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn (1896);
Trương Minh Ký với Câu hát An Nam (1898);
Paulus Của với Chuyện giải buồn; Vè sông rạch
Nam Bộ, Khuyết danh được Trương Vĩnh Ký
sưu tầm… Chuyện dân gian có: chuyện Thủ
Huồng, chuyện Miếu ông bần quỳ, chuyện Bà
đội om, vè thầy Thông Chánh, Sáu Trọng.
Về mối quan hệ văn học Bắc - Nam, có Lê
Quý Đôn, Phạm Nguyễn Du, đã sưu tập văn liệu
miền Nam, và viết thành Phủ biên tạp lục, Nam
hành ký đắc tập; Ngoài ra ta còn thấy nhiều thư
từ, nhiều lời bạt, bình về các tác phẩm của các
tác giả Nam – Bắc trao đổi qua lại.
Đặc biệt có hai điểm cần lưu ý bộ Lịch sử
văn học Việt Nam này: Ở tập 2, trang 213, có
đoạn viết Cấn Trai thi tập của Lê Quang Định là
sai. Tác giả của Cấn Trai thi tập là Trịnh Hoài
Đức; còn Lê Quang Định là tác giả của Hoa
nguyên thi thảo.
Như vậy, Ca Văn Thỉnh đã chỉ ra yếu tố hết
sức quan trọng trong việc hình thành, phát triển
văn hóa, văn học Nam bộ đó là sự giao lưu và
giao thoa với văn học miền Bắc; đồng thời đó là
sự kết hợp giữa thói quen sinh hoạt của người
Nam bộ với lối giáo dục giáo dục nêu gương qua
các tác phẩm văn học.
Ngôn ngữ, chữ quốc ngữ: ở tập 1, trang 28
“Đầu thế kỷ này (tức thế kỷ XX) chữ Quốc ngữ
thay thế chữ Nôm…” lại viết thêm: “Nguyễn
Đình Chiểu phản đối không nhìn đến nó” (chữ
Quốc ngữ) là không chính xác. Sự thật lịch sử
không như vậy, sau khi xâm chiếm Nam kỳ
(1867), Pháp mở trường dạy chữ Quốc ngữ từ
Sài Gòn đến các tỉnh. Cùng với nó, thực dân
4. Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ
qua nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh về giáo
dục ở Nam Bộ
Vấn đề biên khảo những tài liệu cổ, những
văn liệu đã bị thất lạc hoặc lưu truyền đâu đó rải
rác trong dân gian đã được rất nhiều nhà khoa
72
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
TẬP 6 SỐ 3
học quan tâm sưu tầm, nghiên cứu. Tuy vậy, vẫn
còn không ít tài liệu quý cần được ghi chép, tìm
kiếm và đính chính. Ý thức được điều đó, Ca
Văn Thỉnh lấy sở học của bản thân, lấy tình yêu
mến văn hoá quê hương làm ngọn đuốc soi
đường cho cuộc sống. Nên ngay khi còn là sinh
viên Cao đẳng Sư phạm Đông Dương, lúc nghe
thầy người Pháp giảng: đất Nam Bộ không có
nền Nho học, dân Nam Bộ vốn gốc là những
người không kỷ luật, là quân ăn cướp đã làm
ông vô cùng bứt rứt và khó chịu. Ông viết trong
Khổng học ở đất Đồng Nai: “Tôi luôn luôn nuôi
trong lòng mình ý chí phải nghiên cứu để bằng
mọi cách đánh bại luận điệu rẻ tiền của Bô ni
phat xi (thầy giáo Pháp dạy sử) (Ngạc Xuyên,
1943 b). Ngay khi quay về Bến Tre, ông đã miệt
mài tìm bằng chứng để chứng minh ở Nam Bộ
có nền Nho học và ông đã làm được điều đó
bằng bài dịch Bài ký ở văn miếu Vĩnh Long do
Phan Thanh Giản soạn năm Tự Đức thứ 19, và
Bài văn bia về Võ Trường Toản trích trong Ngọa
du sào tập. Đây chính là đóng góp đầu tiên của
ông trong quá trình biên khảo của mình.
Vậy đóng góp đầu tiên của Ca Văn Thỉnh
cho văn hoá Nam Bộ là việc chứng minh Nam
Bộ có truyền thống văn hóa gắn với truyền
thống giáo dục Nho học. Rồi nhiều năm sau đó,
ông tiếp tục tìm kiếm và khuyến khích giới
nghiên cứu truy cứu tàng thư, sưu tầm thực địa,
lưu giữ những thành tựu văn hoá tiền nhân để
lại. Nhà nghiên cứu Mạc Đường nhận xét: “Ông
(Ca Văn Thỉnh) là một trong những chuyên gia
lớn đầu tiên về nghiên cứu Nam Bộ đã muốn
vận dụng “chủ nghĩa Mác và nhân phẩm”, vận
dụng những ý kiến của đồng chí Lê Duẩn năm
1949 vào việc giáo dục học sinh và quần chúng
để nghiên cứu con người Nam Bộ. Ông còn là
người khuyến khích và ký giấy giới thiệu cho
đoàn điều tra điền dã dân tộc học đầu tiên vào
đầu năm 1976 đi công tác sau vụ bạo động ở Trà
Vinh và Sóc Trăng để nghiên cứu về hậu quả
của chủ nghĩa thực dân mới đối với vấn đề
Khmer và Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long.
Ông đã can thiệp và cử chúng tôi đi tiếp quản
Trung tâm văn hoá Chăm ở Phan Rang, Thư
viện sách khoa học xã hội của Trần Lệ Xuân và
Ngô Đình Nhu ở Đà Lạt, Thư viện của Đảng
Cần lao Nhân vị thời Ngô Đình Nhiệm ở Vĩnh
Long, ông rất quan tâm đến nghiên cứu Văn hoá
Óc Eo” (Ca Văn Thỉnh, 2015).
Mặt khác, Ca Văn Thỉnh đi tìm hiểu nghiên
cứu, tiểu sử, sự nghiệp những nhân vật đóng vai
trò quan trọng trong văn hoá Nam Bộ. Với các
bài viết như: Bài diễn văn trong buổi lễ kỷ niệm
Nguyễn Đình Chiểu, Nhớ hai nhà giáo Võ
Trường Toản và Nguyễn Đình Chiểu, Biên dịch
tiểu sử Nguyễn Thông, Minh bột di ngư – Một
quyển sách hai thi xã, Nguyễn Văn Thoại với sự
đào Thoại Hà và kinh Vinh Tế, Tiểu sử Nguyễn
Văn Thoại,… Ông đã dựng lại cuộc đời của các
nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng lớn đến quá
trình phát triển văn hoá và nhân cách con người
Nam Bộ. Đồng thời ông muốn kêu gọi nhân dân
Nam Bộ hãy tiếp tục phát huy những truyền
thống văn hoá tốt đẹp vốn có của người Nam Bộ.
Một đóng góp khác khá quan trọng của Ca
Văn Thỉnh đối với Nam Bộ chính là đóng góp
vào nền giáo dục Nam Bộ. Ngay khi làm Đốc
học Bến Tre, ông đã chứng minh cho những nhà
giáo dục đầu thế kỷ XX thấy rằng: Nam Bộ cũng
có truyền thống giáo dục, truyền thống ấy bắt
nguồn từ những lời hát ru, những mẩu chuyện
mà những người bà, những người mẹ kể cho con
cháu và sau này kết tinh, hội tụ ở nhà giáo Võ
Trường Toản, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Bằng nhiệt huyết của một nhà giáo và sự tinh
tường của một trí thức lớn, Ca Văn Thỉnh đã chỉ
ra hai phương pháp giáo dục cơ bản: Phương
pháp nêu gương và phương pháp thực hành. Ở
phương pháp nêu gương, ông lấy nhân cách của
những nhà văn hoá, văn học, chí sĩ mẫu mực ở
đất Nam Bộ từ từ khi hình thành cho tới thời đại
Hồ Chí Minh để tạo niềm tin và sự ảnh hưởng
đến nhân cách và hành động của người Nam Bộ.
Ông nhấn mạnh vấn đề giáo dục con người phải
bắt đầu từ thuở ấu thơ – tức sự giáo dục ấy phải
có quá trình từ thấp lên cao, từ đơn giản đến
phức tạp mà bước đầu là nêu gương, tạo trong
trí óc con trẻ những tấm gương đạo đức tốt đẹp.
Ở phương pháp thực hành, Ca Văn Thỉnh đặc
biệt đề cao phương pháp “Tập nghĩa” của Võ
Trường Toản. Ông chỉ ra ưu điểm của phương
73
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
VOLUME 6 NUMBER 3
phàp này là vừa giúp người học tiếp thu lý
thuyết vừa vận dụng vào thực tế; biến những lý
thuyết giáo điều thành hành động thực tế. Từ đó
giúp người học hứng thú và làm theo những gì
đã học.
Vậy là, Ca Văn Thỉnh qua việc tìm hiểu nên
giáo dục Nam Bộ đã cho thấy truyền thống văn
hóa Nam bộ luôn được nuôi dưỡng trong truyền
thống giáo dục lấy tinh thần yêu nước làm chủ
đạo, và văn học Nam bộ lấy khuynh hướng "tập
nghĩa, dưỡng khí" làm đề tài sáng tác.
Tài liệu tham khảo
Bảo Định Giang (1977). Thơ văn yêu nước Nam Bộ
(nửa sau thế kỷ XIX). Nxb Văn học.
Bảo Định Giang (2001). Những ngôi sao sáng trên
bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX.
Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ.
Nhiều tác giả (2016). Những vấn đề văn học và ngôn
ngữ Nam Bộ, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ
Chí Minh.
Nguyễn Lộc và Hoàng Hữu Yên (1962). Văn học
Việt Nam thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Nxb Giáo dục.
Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu trên, có thể khẳng
định rằng, Ca Văn Thỉnh đã góp phần vào việc
lưu giữ những tác phẩm văn học dân gian - là
bằng chứng để khẳng định mối quan hệ văn học
Bắc Nam có từ lâu đời. Đồng thời, ở những tác
phẩm ông sưu tầm được cũng khẳng định văn
hóa, văn học Nam Bộ có những đặc thù riêng
của nó trong quá trình vận động tồn tại và phát
triển. Chính Ca Văn Thỉnh là một trong những
nhà nghiên cứu đầu tiên khẳng định cái hay, cái
tinh hoa của văn học Nam Bộ là ở ngôn ngữ mộc
mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói người Nam Bộ,
gần với tính cách "ngang tàng", phóng khoáng
và thích tự do của người Nam Bộ. Và với đặc
thù trong lời ăn, nếp ở của người Nam Bộ thì
văn phong trong các tác phẩm văn học ở Nam
Bộ không thể nào khác.
Với những đóng góp của Ca Văn Thỉnh,
ngày nay khi lật giở những trang sách viết về
văn học Nam Bộ, người ta thường nhắc đến Ca
Văn Thỉnh như người có công đầu trong quá
trình dựng lại văn học sử Nam Bộ. Ngoài ra, ta
còn thấy đây đó nhiều bài nghiên cứu, hồi kí của
các nhà cách mạng, nhà văn Nam Bộ nhắc đến
ông như một người thầy cao quý, một tấm
gương cần mẫn trong nghiên cứu khoa học.
Vậy là bằng những nỗ lực của mình, Ca Văn
Thỉnh đã thực hiện được ý nguyện: "Kẻ hậu học
này mải lo dại tới “cái vựa thóc văn học” ít ỏi
này không đủ cung cấp thức ăn tinh thần cho cả
giống nòi đương khao khát, nên ráng sức mọn
đi mót từng hột, lượm từng bông ở tận ruộng
biền, ruộng chéo của đất Lục tỉnh này” trích
Minh bột di ngư - một quyển sách, hai thi xã
(Ngạc Xuyên, 1943 a).
Huỳnh Lý và cộng sự (1964). Sơ khảo lịch sử văn
học Việt Nam: Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.
Nxb Văn học.
Ca Văn Thỉnh (1972). Truyền thống quật cường của
Nam Bộ và Việt Nam với tinh thần đấu tranh
của Nguyễn Đình Chiểu. Tạp chí Nghiên cứu
Văn học, Số 4.
Ca Văn Thỉnh (1975). Góp ý về hai tập lịch sử văn
học Việt Nam. Bản thảo do gia đình cung cấp.
Ca Văn Thỉnh (1976 a). Nguyễn Hữu Huân thân thế
và sự nghiệp. Kỷ yếu Viện KHXH Miền Nam.
Ca Văn Thỉnh (1976 b). Sự nghiệp của Thủ Khoa
Huân là một bài ca chính khí, Báo Văn nghệ
Tp. HCM. Số 608.
Ca Văn Thỉnh và Bảo Định Giang (1976). Thơ văn
yêu nước Nam Bộ nửu cuối thế kỷ XIX. Nxb
Văn học Giải phóng.
Ca Văn Thỉnh (1978). Nhớ hai nhà giáo Võ Trường
Toản và Nguyễn Đình Chiểu. Tuần báo Văn
nghệ Tp.HCM, Số 7.
Ca Văn Thỉnh và cộng sự (1982). Nguyễn Đình
Chiểu toàn tập (2 tập). Nxb Đại Học và Trung
học chuyên nghiệp.
CaVănThỉnh(1983). HàokhíĐồngNai.NxbTp.HCM.
Ca Văn Thỉnh (1987). Xây dựng con người mới từ
tuổi thơ. Nxb Tp. Hồ Chí Minh
Ca Văn Thỉnh (2015). Ca Văn Thính tổng hợp. Nxb
Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
Ca Văn Thỉnh (2016). Nam Bộ đất và người, Nxb Trẻ
Tp. Hồ Chí Minh.
Ca Văn Thỉnh. Nguyễn Đình Chiểu cuộc đời và sự
nghiệp. Bản thảo (a) do gia đình cung cấp.
Ca Văn Thỉnh. Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ chiến đấu
vì nghĩa cả. Bản thảo (b) do gia đình cung cấp.
Ca Văn Thỉnh. Niềm mơ ước của Nguyễn Đình Chiểu về
mặt xã hội công bằng bác ái đang thành hiện
thực trong chủ nghĩa xã hội ngày nay. Bản thảo
(c) do gia đình cung cấp.
74
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
TẬP 6 SỐ 3
Ca Văn Thỉnh. Phong trào đấu tranh lục tỉnh trong
thời gian đầu xâm lược của Pháp. Bản thảo
(d) do gia đình cung cấp.
Ca Văn Thỉnh. Thủ Khoa Huân. Bản thảo (e) do gia
đình cung cấp.
Ca Văn Thỉnh, Tìm hiểu lòng đạo của Nguyễn Đình
Chiểu, Bản thảo (f) do gia đình cung cấp.
Ca Văn Thỉnh. Khả năng và lòng đạo của Nguyễn
Đình Chiểu. Bản thảo (g) do gia đình cung cấp.
Ca Văn Thỉnh. Nhật ký (17 tập), thủ bút (f) do gia
đình cung cấp.
Lê Trí Viễn (1976). Lịch sử văn học Việt Nam (Tập
4b). Nxb Giáo dục.
Ngạc Xuyên (1962). Câu chuyện yểm quỷ. Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, Số 4.
Ngạc Xuyên (1943 a). Minh bột di ngư – Một quyển
sách hai thi xã. Đại Việt Tập chí. Số 12.
Ngạc Xuyên (1943 b). Khổng học ở đất Đồng Nai.
Đại Việt Tập chí, Số 22, 23.
Ngạc Xuyên (1975). Ý nghĩ về văn học sử Nam Bộ
và mối quan hệ Bắc Nam. Tạp chí Nghiên cứu
Văn học, Số 3.
75
Bạn đang xem tài liệu "Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ trong nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nhan_dien_van_hoa_van_hoc_nam_bo_trong_nghien_cuu_cua_ca_van.pdf