Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ trong nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh

TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
NHẬN DIỆN VĂN HÓA, VĂN HỌC NAM BỘ  
TRONG NGHIÊN CỨU CỦA CA VĂN THỈNH  
Lê Sỹ Đồng  
Trường Đại học Thủ Dầu Một  
Ngày nhận bài: 12/10/2018; Ngày duyệt đăng: 17/12/2018  
Tóm tắt  
Từ trước đến nay, việc nhận diện văn hóa, văn học của một vùng miền được tiếp cận ở nhiều  
phương cách khác nhau. Mỗi phương cách cho người đọc có một cách nhìn khác nhau về văn hóa,  
văn học của mỗi vùng. Trong bài viết này, chúng tôi dựa vào những nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh  
để nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ với các khía cạnh như: văn học dân gian, văn học viết, lịch  
sử văn học, văn hóa giáo dục. Từ kết quả nghiên cứu này, trước hết chúng tôi muốn khẳng định  
những đóng góp của Ca Văn Thỉnh với việc mở đường nghiên cứu văn hóa, văn học Nam bộ; sau  
nữa là muốn nhấn mạnh đến những phương diện văn hóa truyền thống ở Nam bộ mà Ca Văn Thỉnh  
đã dày công dành trọn cả đời để nghiên cứu.  
Từ khóa: Ca Văn Thỉnh, văn hóa, văn học, Nam Bộ  
Identification of culture, literature in Southern from Ca Van Thinh 's research  
Abstract  
Until now, the identification cultural and literary of a region has been approached in a variety  
of ways. In each of these ways, the reader has a different recognization on the culture and literature  
of that region. In this article, we rely on the research of Ca Van Thinh to identify the culture and  
literature of the Southern with aspects such as folklore, literature, literary history, culture and  
education. From the results of this research, before of all, we want to confirm the contributions of  
Ca Van Thinh with the opening of the road to study the culture and literature of the Southern; and  
then, we would like to emphasize the traditional cultural aspects of the Southern that Ca Van Thinh  
devotes his own life to research.  
Key word: Ca Van Thinh, culture, literature, southern.  
cũng làm rõ hơn những đóng góp của Ca Văn  
Thỉnh đối với việc bảo tồn văn hóa, văn học  
Nam Bộ.  
Đặt vấn đề  
Khoảng hơn mươi năm đầu thế kỷ XXI, các  
nhà nghiên cứu văn hóa, văn học dần lật lại  
những công trình nghiên cứu của tiền nhân để  
ôn cố tri tân, để đánh giá lại những đóng góp của  
người đi trước đối với tiến trình bảo tồn văn hoá,  
văn học dân tộc. Tuy nhiên, để có cái nhìn toàn  
diện về văn hóa, văn học Nam Bộ không phải là  
một việc dễ dàng. Ở bài viết này, chúng tôi bước  
đầu nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ qua  
những công trình nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh  
nhằm góp thêm một góc nhìn khác về những lớp  
trầm tích văn hóa, văn học Nam Bộ; đồng thời  
Như ta biết, Ca Văn Thỉnh hưởng thọ 85 tuổi  
(1902 – 1987). Trong 85 năm hạnh lạc trên cõi  
đời, ông không ngừng cố gắng phấn đấu để hoàn  
thiện bản thân, tạo lập cho mình sự nghiệp, có  
nhiều cống hiến đáng kể ở nhiều lĩnh vực cho  
nước nhà. Từ trước 1945, Ca Văn Thỉnh (bút  
danh Ngạc Xuyên) đã công bố khá nhiều bài viết  
trên Đại Việt Tập chí như Biên dịch tiểu sử  
Nguyễn Thông; Khổng học đất Đồng Nai; Luận  
về núi; Đền Đế Thiên đối với tiền nhơn ta;  
67  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
Nguyễn Văn Thoại với sự đào Thoại hà và kinh  
Vĩnh tế; Minh bột di ngư – Một quyển sách hai  
thi xã… Sau năm 1945, Ca Văn Thỉnh tiếp tục  
công bố những nghiên cứu của mình trên Tạp  
chí Nghiên cứu Văn học, Tạp chí Nghiên  
cứu Lịch sử, Báo Văn nghệ TP. HCM… Cùng  
với đó, Ca Văn Thỉnh xuất bản cuốn Hào khí  
Đồng Nai, Nxb TP.HCM, năm 1983; và được  
Nxb ĐHQG Hà Nội tái bản năm 2014. Ngoài ra,  
ông còn để lại rất nhiều bản thảo chưa công bố  
như: Nguyễn Đình Chiểu cuộc đời và sự nghiệp;  
Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ chiến đấu vì nghĩa  
cả; Phong trào đấu tranh lục tỉnh trong thời  
gian đầu xâm lược của Pháp; Tìm hiểu lòng đạo  
của Nguyễn Đình Chiểu; Niềm mơ ước của  
Nguyễn Đình Chiểu về mặt xã hội công bằng  
bác ái đang thành hiện thực trong chủ nghĩa xã  
hội ngày nay;… Và 17 cuốn nhật ký. Với những  
công trình này, Ca Văn Thỉnh đã cùng với  
những nhà nghiên cứu đương thời có những  
đóng góp lớn, giúp cho thế hệ sau nhận diện rõ  
ràng hơn về văn hóa, văn học Nam Bộ.  
hoặc chỉ dành một phần nhỏ viết về văn học  
Nam Bộ để cho đầy đủ nội dung văn học vùng  
miền. Có thể do chưa đủ điều kiện để đi khảo  
sát, sưu tầm; hoặc do hạn chế về ý thức mang  
tính lịch sử mà các tác giả những cuốn sách trên  
đã vô tình lãng quên hoặc có những thiếu sót  
trong quá trình biên soạn lịch sử văn học dân  
tộc. Dù với lý do gì thì đó cũng là những hạn  
chế của các nhà nghiên cứu văn học đầu thế kỷ  
trước. Vì vậy mà văn học dân gian Nam Bộ lại  
càng ít được quan tâm, chú ý. Và do vậy, sự dày  
công của Ca Văn Thỉnh nghiên cứu văn học  
Nam bộ để góp sức khắc phục những hạn chế  
của người đi trước là vô cùng quan trọng.  
Ngoài việc giới thiệu, Ca Văn Thỉnh còn  
miệt mài sưu tầm những văn phẩm ở hầu hết các  
thể loại văn học dân gian ở Nam Bộ. Cụ thể như:  
Về ca dao sưu tầm được 78 bài. Bài ngắn nhất  
hai câu, bài dài nhất mười sáu câu; Về tục ngữ  
sưu tầm được 24 câu; Về sưu tầm được 10 bài,  
ngắn nhất 2 câu, bài dài nhất bốn câu; Về truyện  
dân gian sưu tầm được 15 văn bản (Ca Văn  
Thỉnh, 1983).  
Một đóng góp khác, Ca Văn Thỉnh đã chỉ ra  
vai trò, giá trị và vị trí thiết yếu của văn học dân  
gian Nam Bộ trong văn học dân gian của dân tộc  
và trong tiến trình văn học sử Việt Nam. Ca Văn  
Thỉnh đã chỉ ra rằng văn học dân gian Nam Bộ  
có vai trò phản ánh những tâm tư, tình cảm và  
nguyện vọng của người dân Nam Bộ. Như  
Truyện Thủ Huồng, lên án những kẻ gian ác,  
sống trên mồ hôi, nước mắt, xương máu của  
những người nông dân lao động nghèo khổ. Từ  
đó nói lên sự hướng thiện của người Nam Bộ  
chân chất thật thà, khoan dung. Ca Văn Thỉnh  
còn chứng minh điều đó qua các câu ca dao hay  
những mẩu chuyện về những người vợ thuỷ  
chung, những vị anh hùng yêu nước. Ví như  
Truyện Núi Bà Đội Om, một mặt, Ca Văn Thỉnh  
ngợi ca đức hạnh thuỷ chung, chịu thương, chịu  
khó của người vợ; mặt khác lên án chế độ sưu  
thuế, phu phen nặng nề.  
1. Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ  
qua nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh về văn học  
dân gian Nam Bộ  
Qua tìm hiểu những công trình về văn học  
hoặc có liên quan đến văn học của Ca Văn  
Thỉnh, chúng tôi nhận thấy rằng: Về sưu tầm và  
nghiên cứu văn học dân gian Nam Bộ thì cuốn  
Hào khí Đồng Nai là có giá trị nhất, quan trọng  
nhất và có lẽ là tâm huyết nhất mà Ca Văn Thỉnh  
để lại. Mở đầu công trình nghiên cứu này, Ca  
Văn Thỉnh trình bày ý kiến của mình về một số  
truyện, thơ dân gian truyền khẩu với mục đích  
giới thiệu đến công chúng yêu thơ văn dân tộc  
một vùng văn học khá mới mẻ và lạ lẫm – văn  
học dân gian Nam Bộ. Đây chính là sự bổ  
khuyết hết sức quan trọng mà Ca Văn Thỉnh góp  
vào những công trình văn học sử thời bấy giờ.  
Khi xem lại những cuốn văn học sử như:  
Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 4b (Lê Trí Viễn,  
1976), Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam: Giai  
đoạn nửa cuối thế kỷ XIX (Huỳnh Lý và cộng  
sự, 1964), Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa  
đầu thế kỷ XIX (Nguyễn Lộc và cộng sự, 1962),  
chúng tôi thấy các cuốn sách này hầu như không  
Cùng với đó, Ca Văn Thỉnh khẳng định tính  
giáo dục và tính chiến đấu trong các tác phẩm  
dân gian Nam Bộ. Ta thấy ở hầu hết ở các công  
trình của Ca Văn Thỉnh đều đề cập hoặc nhấn  
68  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
mạnh đến mặt giáo dục của văn học dân gian  
Nam Bộ. Ví như các bài viết: Qua nhiều thời  
gian, thành phố ta là một chiến trường chống  
ngoại xâm, Truyền thống quật cường của Nam  
Bộ và Việt Nam, với tinh thần đấu tranh của  
Nguyễn Đình Chiểu, Phong trào đấu tranh của  
nhân dân Lục tỉnh trong thời gian đầu xâm lược  
của quân Pháp. Ở những bài viết trên, tính  
chiến đấu, tinh thần quật cường của người dân  
Nam Bộ được thể hiện khá rõ nét. Đó là những  
cuộc đấu tranh của dân nghèo chống lại địa chủ,  
là những cuộc đấu tranh đòi lại sự công bằng  
cho xã hội; là những cuộc đấu tranh chống lại  
thiên tai để sinh tồn; và hơn hết là những cuộc  
đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược – mà đặc  
biệt là những cuộc đấu tranh chống thực dân  
Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được thể  
hiện trong các tác phẩm như: Truyện Trương  
Quyền, Hịch thiêu muỗi, Hịch con quạ, Bài ca  
phản đế (Ca Văn Thỉnh, 1983)và nhiều tác  
phẩm khác nữa.  
Cuối cùng, Ca Văn Thỉnh chỉ ra vị trí của văn  
học Nam Bộ trong mối quan hệ hữu cơ giữa văn  
học dân gian miền Nam và văn học dân gian  
miền Bắc. Từ đó, ông khẳng định văn học dân  
gian Nam Bộ là một bộ phận của lịch sử văn học  
dân gian Việt Nam trong sự thống nhất của Nam  
Bộ và Bắc Bộ. Trong bài: Ý nghĩ về văn học sử  
Nam Bộ và mối quan hệ Bắc Nam, ông viết:  
“Biên lục văn học dân gian ở Bắc có nhiều tập  
sách. Ngoài những tập sách chữ Nôm, chữ Hán  
được in hoặc chép tay từ xưa còn có hai tập Tục  
ngữ phong giao chữ Quốc ngữ của Nguyễn Văn  
Ngọc” (Ngạc Xuyên, 1975), mà trong đó ta thấy  
những dấu vết lưu lại trong văn học dân gian  
Nam Bộ; hay “đối chiếu mấy tập sách dân gian  
xưa nay, Bắc và Nam, chúng ta sung sướng thấy  
nhiều câu giống nhau, nhất là tục ngữ, phương  
ngôn” (Ngạc Xuyên, 1975).  
2. Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ  
qua nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh về văn học  
viết Nam bộ  
Trước hết đó là những đóng góp trong việc  
giới thiệu các tác giả văn học Nam Bộ. Ta thấy  
hầu hết các công trình, các bài viết của Ca Văn  
Thỉnh về văn học, hoặc có liên quan đến văn học  
như: Nguyễn Hữu Huân thân thế và sự nghiệp  
(Ca Văn Thỉnh, 1976); Nguyễn Đình Chiểu cuộc  
đời và sự nghiệp (Ca Văn Thỉnh, bản thảo a);  
Hào khí Đồng Nai (Ca Văn Thỉnh, 1983); Nhớ  
hai nhà giáo Võ Trường Toản và Nguyễn Đình  
Chiểu (Ca Văn Thỉnh, 1978); Ý nghĩ về văn học  
sử Nam bộ và mối quan hệ Bắc Nam (Ngạc  
Xuyên, 1975) đều đề cập đến ít nhiều một vài  
tác gia, tác phẩm văn học Nam Bộ đó là những  
tác giả có tình yêu nước nồng nàn như: Hồ Huân  
Nghiệp, Phan Văn Trị, Mạc Thiên Tích, Trịnh  
Hoài Đức, Nguyễn Cư Trinh, Võ Trường Toản,  
Đặng Đức Thuật, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang  
Định, Nguyễn Thông, Huỳnh Mẫn Đạt, Trần  
Thiện Chánh, Nguyễn Đình Chiểu. Hẳn nhiên,  
những tác giả này từ trước đã được nhiều nhà  
nghiên cứu biết đến, sưu tầm nghiên cứu.  
Cùng với việc giới thiệu các nhà văn Nam  
Bộ, Ca Văn Thỉnh còn đóng góp tích cực trong  
việc sưu tầm và nghiên cứu văn học viết.  
Về mặt sưu tầm, Ca Văn Thỉnh chú tâm biên  
tập thơ văn của những nhà thơ yêu nước, những  
tác phẩm có tính chiến đấu cao hoặc có ý nghĩa  
giáo dục sâu sắc. Ngoài thơ văn sưu tập và chú  
giải trong hai công trình Nguyễn Đình Chiểu  
toàn tập (2 tập), Ca Văn Thỉnh và cộng sự  
(1982); Thơ văn yêu nước Nam Bộ (nửa sau thế  
kỷ XIX), Bảo Định Giang, Ca Văn Thỉnh (1977),  
Hào khí Đồng Nai, Ca Văn Thỉnh (1983), ông  
còn biên khảo, dịch nhiều thơ văn chữ Hán sang  
chữ Quốc ngữ.  
Về mặt nghiên cứu, ngoài những đóng góp  
về mặt chú giải từ ngữ, tìm hiểu hoàn cảnh ra  
đời của tác phẩm, Ca Văn Thỉnh còn có những  
đóng góp đáng kể trong quá trình đánh giá giá  
trị nội dung những văn phẩm văn học Nam Bộ.  
Ví như:  
Như vậy, qua việc nghiên cứu văn học dân  
gian, Ca Văn Thỉnh bước đầu cho người đọc  
thấy được mối quan hệ giữa văn hóa, văn học  
Nam Bộ với Bắc Bộ; đồng thời, ông cũng chỉ ra  
được nét đặc trưng trong tính cách của người  
Nam bộ là tính hướng thiện, giàu tình nghĩa,  
chuộng sự thẳng ngay và yêu lẽ công bằng.  
Ca Văn Thỉnh nghiên cứu về Nguyễn Đình  
Chiểu khá sớm. Năm 1942, ông có bài Bài diễn  
69  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
văn đọc trong lễ kỷ niệm ngày mất Nguyễn Đình  
Chiểu – đã khẳng định rõ thêm vai trò, vị trí của  
Nguyễn Đình Chiểu trong văn học Nam bộ.  
Tiếp đó, sau 1945, thời kỳ với bộn bề các  
công việc phục vụ cho cách mạng – ông vẫn  
miệt mài nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu.  
Ông luôn cố gắng tìm tòi để chứng minh Nam  
Bộ có một nền văn học thực sự hết sức phong  
phú. Điều đó thể hiện trong các bài viết dù mang  
tính cách mạng thì ông vẫn lấy dẫn chứng trong  
văn học để minh chứng cho điều mình khẳng  
định. Riêng Nguyễn Đình Chiểu – ông có  
khoảng dăm bài viết về hoặc liên quan đến tác  
gia này. Sau Nguyễn Đình Chiểu, Ca Văn Thỉnh  
giới thiệu hàng loạt các tác giả, mà sau này được  
biên soạn trong cuốn Hào khí Đồng Nai – viết  
riêng, và cuốn Thơ văn yêu nước Nam Bộ cuối  
thế kỷ XIX – viết chung với Bảo Định Giang. Để  
khẳng định rõ hơn vai trò của Ca Văn Thỉnh đối  
với văn học viết Nam Bộ, chúng tôi xin bàn  
thêm về vị trí của ông trong công trình này.  
Ngay đầu cuốn sách, Nhà xuất bản Văn học  
Giải phóng (1977) ghi: Thơ văn yêu nước Nam  
được Ca Văn Thỉnh (Ngạc Xuyên, 1943 b) đăng  
trên Đại Việt Tập chí. Thứ ba: Bài giới thiệu  
cuốn sách của Ca Văn Thỉnh không hẳn chỉ có  
chức năng giới thiệu, mà nó là một bài nghiên  
cứu văn học (viết tháng 5/1962, bổ sung và sửa  
chữa tháng 7/1972).  
Như vậy, nên chăng chúng ta phải viết tác  
giả Thơ văn yêu nước Nam Bộ: nửa sau thế kỷ  
XIX là Ca Văn Thỉnh giới thiệu và cùng Bảo  
Định Giang biên soạn để khẳng định đóng góp  
hết sức quan trọng của Ca Văn Thỉnh đối với  
công trình này.  
Qua việc khảo sát những công trình trên,  
chúng tôi nhận thấy Ca Văn Thỉnh đã chứng  
minh được nội dung chủ yếu trong văn học Nam  
bộ đó là tinh thần yêu nước. Tình yêu nước ấy  
"chảy" xuyên suốt từ văn học dân gian đến văn  
học viết. Cũng từ nội dung văn học này, Ca Văn  
Thỉnh cũng đã làm rõ mạch nguồn văn hóa Nam  
Bộ chính là tình yêu nước, ý thức tự cường, và  
tự chủ dân tộc.  
3. Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ  
qua nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh về lịch sử  
văn học Nam Bộ  
Bộ (nửa sau thế kỷ XIX), Bảo Định Giang biên  
soạn, Ca Văn Thỉnh giới thiệu. Cuốn sách này  
được in lần đầu năm 1962, sau đó được tái bản  
nhiều lần, nhưng cơ bản công trình này không  
có gì thay đổi. Dựa vào những nghiên cứu của  
mình, chúng tôi khẳng định, Ca Văn Thỉnh  
không chỉ có công giới thiệu mà còn có công  
cùng Bảo Định Giang biên soạn cuốn sách này.  
Bằng chứng là: Thứ nhất: trước khi cuốn sách ra  
đời – in lần đầu 1962, Ca Văn Thỉnh đã có  
những bài viết về các tác giả ví dụ như: Nguyễn  
Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Phan Văn Trị,  
Nguyễn Hữu Huân… Sau được soạn trong cuốn  
sách này. Thứ hai: Khi so sánh văn bản biên  
soạn trong cuốn sách này với những văn bản  
trong cuốn Hào khí Đồng Nai, Ca Văn Thỉnh  
(1983) thì có một số văn phẩm và tác giả được  
biên soạn trùng nhau. Ví dụ như: Thơ Phan Văn  
Trị có: Con trâu, con mèo, con cua, con rận, đá  
cá thia thia; Bùi Hữu Nghĩa có: Cây vông, cây  
bần; Huỳnh Mẫn Đạt có: Cây dừa; Nguyễn Hữu  
Huân có: Cây bắp; ngoài ra ta còn thấy truyện:  
Câu truyện yếm quỷ của Nguyễn Thông, đã  
Có lẽ trước đây giới nghiên cứu ít quan tâm  
tới văn học Nam Bộ vì họ cho rằng văn học Nam  
Bộ không có lịch sử, không có truyền thống. Do  
đó, nếu có công trình nào có đề cập đến văn học  
Nam Bộ thì cũng chỉ nhắc đến Trịnh Hoài Đức,  
Nguyễn Đình Chiểu chứ không trình bày,  
nghiên cứu kỹ lưỡng và có hệ thống. Thế nên để  
văn học Nam Bộ được các nhà nghiên cứu quan  
tâm thì trước hết phải chứng minh được văn học  
Nam Bộ có quá khứ, có truyền thống và có lịch  
sử hình thành và phát triển. Với niềm tin và tình  
yêu văn học trên mảnh đất Nam Bộ, Ca Văn  
Thỉnh đã chứng mình được điều mà người dân  
Nam Bộ hằng mong đợi: Khẳng định Nam Bộ  
có nền văn hoá, văn học mang truyền thống con  
Hồng, cháu Lạc. Đây chính là niềm tự hào của  
người miền Nam. Trong bài viết Ý nghĩ về văn  
học sử Nam bộ và mối quan hệ Bắc Nam (Ngạc  
Xuyên, 1975), tác giả đã dẫn ra những bằng  
chứng chứng minh nhận định của Nguyễn Văn  
Hầu “văn học Nam Bộ không có quá khứ, là  
sai lạc. Ca Văn Thỉnh đã dựa vào những sự kiện  
70  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
lịch sử để chỉ ra rằng: Khoảng 300 năm trước  
đây, tổ tiên của người Nam Bộ gốc người Quảng  
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế,… vào sinh  
sống ở Đồng Nai. Do vậy những câu truyện xưa,  
những lời dạy dỗ, những nét văn hoá qua ca dao,  
tục ngữ biểu thị rõ tính chất chung của người  
miền Nam được truyền từ thế hệ này sang thế hệ  
khác trong các gia đình Nam Bộ. Về văn học  
dân gian được lưu truyền cả trong Nam, ngoài  
Bắc như: Tục ngữ: Cá chậu chim lồng, Lá rụng  
về cội, ăn một đọi nói một lời; Mía sâu có đốt  
nhà dột có nơi…; Ca dao: Người còn thì của  
cũng còn miễn là nhân nghĩa vuông tròn thì thôi  
hay Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một  
tiếng anh hùng mà thôi; Cổ tích: Trầu cau, Phù  
Đổng, Tấm Cám…  
Trên cơ sở ấy, Ca Văn Thỉnh (1975) đã chỉ  
ra rằng: "văn học Nam Bộ hình thành và phát  
triển trên sự kế thừa văn học Việt Nam từ thời  
Hùng Vương, qua hơn 1000 năm bị phương Bắc  
đô hộ, trước những thách thức lớn lao, nhiều  
phen giành độc lập. Những dấu vết về sự kế thừa  
này có thể tìm thấy trong văn nghệ, văn hoá dân  
gian cũng như trong văn học thành văn. Truyền  
thống văn học ấy gắn liền với sự tiếp thu tư  
tưởng phương Đông một cách chọn lọc". Trong  
bài Góp ý về hai tập lịch sử văn học Việt Nam,  
Ca Văn Thỉnh viết: “Cùng với Nho giáo, Phật  
giáo đã vào đất nước ta với triết lý: Phật ở lòng  
người, không phân đẳng cấp, thích hợp với đức  
tính truyền thống dân tộc. Đến thế kỷ X, sau  
chiến thắng Bạch Đằng, các Triều Đinh, Lê, Lý  
và một phần Triều Trần chịu ảnh hưởng nhiều  
của Thiền tông từ phái Ti-ni-da-lưu-chi đến Vô  
Ngôn Thông và Thảo Đường. Đến thế kỷ XIII,  
Trần Nhân Tông viết bài tự “Thiền tông chỉ  
nam” nhắc lại lời quốc sư ở chùa Yên Tử: “phàm  
đã làm vua trong thiên hạ, phải lấy ý muốn của  
thiên hạ làm ý muốn của mình, phải lầy tấm lòng  
của thiên hạ làm tấm lòng của mình” (Ca Văn  
Thỉnh, 1975).  
Đức tính truyền thống kiên cường, độc lập,  
thống nhất cùng với tinh thần sinh hoạt của  
những nhà nhiệt tình yêu nước yêu dân đã tạo  
điều kiện thuận lợi để vận dụng mặt tích cực của  
Nho giáo. Ngoài Nguyễn Trãi, ta cũng nên tìm  
hiểu thêm Nguyễn Đình Chiểu – một nhà thơ mù  
đầy tình yêu nước, yêu dân; Một người chịu ảnh  
hưởng những điển tích của nhà Tống Nho  
Tương Tái, tác giả của những tập “Tây Minh,  
Chính Mông” – với nội dung khá tiến bộ. Từ tác  
phẩm Lục Vân Tiên đến Dương Từ Hà Mậu, rồi  
Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc đều đề cao những  
người anh hùng xuất thân từ nông dân; những  
người dám hy sinh thân mình vì việc nghĩa, vì  
dân vì nước” (Ca Văn Thỉnh, bản thảo b). Từ  
những nghiên cứu trên, Ca Văn Thỉnh đã chứng  
minh được văn học Nam Bộ không những có  
quá khứ mà còn có mối liên hệ khăng khít với  
văn học miền Bắc.  
Thế là ở Nam Bộ từ khi chưa có văn học  
thành văn thì phong tục, tập quán, ngôn ngữ,  
truyền thống dân tộc thể hiện qua văn học dân  
gian đã truyền từ Bắc vào; ngày càng ăn sâu vào  
tâm trí, tác phong con người Nam Bộ.  
Mặt khác trong bài viết của mình, Ca Văn  
Thỉnh cũng dẫn lại hai tác phẩm, một của Lê  
Quý Đôn - Phủ Biên tạp lục, một của Phạm  
Nguyễn Du - Nam hành ký đắc tập để khẳng  
định mối quan hệ văn hoá Bắc Nam. Riêng phần  
văn học, hai văn sĩ trên đã kỳ công sưu tầm,  
nghiên cứu văn học Nam Bộ – đặc biệt là những  
sự kiện văn học sử hết sức quan trọng, làm  
phong phú thêm văn liệu đất Hà Tiên cùng Gia  
Định. Đáng chú ý như đánh giá của Lê Quý Đôn  
về thơ họ Mạc: “Các văn nhân Trung Quốc và  
Thuận Quảng khá nhiều người đã họa vần 10 bài  
thơ của Mạc. Xem thế đủ biết rằng ở nơi hải  
ngoại cũng có văn chương hay thơ. Trong mười  
bài vịnh cảnh Hà Tiên, có bài thứ 9 và bài thứ 10  
là hay hơn cả" (Ca Văn Thỉnh, 1975). Ở quyển II,  
Nam hành ký đắc tập, Phạm Nguyễn Du cũng  
trích một số thơ của Mạc (Ca Văn Thỉnh, 1975):  
"Những văn thơ chữ Nôm về 10 cảnh Hà Tiên  
của Mạc Thiên Tích rất được phổ biến ở Nam Bộ.  
Những tập thi tuyển chữ Quốc ngữ từ cuối thế kỷ  
XIX của Huỳnh Tịnh Của, Lê Quang Chiểu, Lê  
Sum đã đăng thơ của Mạc Thiên Tích. Đặc biệt  
Đông Hồ đã biên khảo trong nhiều số tạp chí  
Nam Phong về Mạc Thiên Tích.".  
Mặt khác, Ca Văn Thỉnh đã chỉ ra bên cạnh  
những nét chung trong văn học Việt Nam, thì  
71  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
văn học Nam Bộ cũng có những đặc điểm riêng.  
Những đặc điểm riêng ấy gắn liền với lối sống,  
hoàn cảnh sống, cá tính của người Nam Bộ. Văn  
ngôn trong văn học Nam Bộ không cầu kỳ, ít  
sâu xa. Nó gắn liền với lời ăn tiếng nói hằng  
ngày nhưng lại giàu tính giáo dục nhân nghĩa  
đạo đức. Trong bản thân văn học Nam Bộ cũng  
có những mối liên hệ riêng biệt giữa các thời kỳ.  
Cụ thể, Ca VănThỉnh đã chứng minh được mối  
liên hệ ấy qua bài: Minh bột di ngư – Một quyển  
sách hai thi xã (Ngạc Xuyên, 1943 a). Đó là mối  
liên hệ giữa nhóm Chiêu Anh Các ở Hà Tiên do  
Mạc Thiên Tích với nhóm Gia Định tam gia mà  
người đứng đầu là Trịnh Hoài Đức. Từ sự phát  
triển nội tại ấy, văn học Nam Bộ đã để lại một  
khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Tuy nhiên ông  
cũng chỉ ra rằng: Những mối quan tâm đến  
thành tựu và quá trình phát triển của văn học  
miền Nam là chưa đúng mức, cần được quan  
tâm, chú ý hơn nữa (Ngạc Xuyên, 1943 a).  
Đóng góp của ông không chỉ ở cái gọi là “chỉ  
đạo”, mà chính bản thân ông đã xắn áo bắt tay  
vào việc tìm tòi nghiên cứu bổ sung cho những  
thiếu sót hay sai lệch mà các công trình nghiên  
cứu về văn học Nam Bộ mắc phải. Ở đây chúng  
tôi xin không bình luận nhiều mà xin tóm lược  
một đoạn trong Phần II bài viết Góp ý về hai tập  
lịch sử văn học Việt Nam (Ca Văn Thỉnh, 1975)  
để thấy rõ đóng góp và tấm lòng của Ca Văn  
Thỉnh dành cho văn học Nam Bộ sâu nặng đến  
thế nào: "Con dân Nam Bộ, hiểu biết xã hội, văn  
học Nam Bộ với sắc thái riêng của địa phương,  
tôi cảm thấy bản dự thảo lịch sử Việt Nam, tuy  
có nói qua về Mạc Thiên Tích Hà Tiên và ba nhà  
thơ Gia Định, nhưng tác giả ít biết văn hoá, ngôn  
ngữ, văn nghệ dân gian, và ít tìm tài liệu, sách  
báo chữ quốc ngữ xuất bản từ 1865, có phần  
nào, ở thư viện, như Gia Định báo.  
Pháp cho ra đời tờ báo Quốc ngữ “Gia Định  
báo” (1865). Từ 1869 đến 1897, Trương Vĩnh  
Ký làm chủ bút báo này (Ca Văn Thỉnh, 1975).  
Trong giai đoạn này, ta thấy có nhiều tác phẩm  
được phiên âm ra chữ quốc ngữ như: Lục Vân  
Tiên (1873); KimVân Kiều (1875). Về tiếng nói  
Nam Bộ, đáng chú ý có nhiều từ gốc dân tộc. Ví  
dụ: Người Nam Bộ gọi: cây viết, ngòi viết mà  
không gọi “bút”; gọi là “trái cây”, ít gọi là quả;  
gọi là “vỏ, ruột” xe đạp, xe hơi mà không gọi là  
“lốp săm”.  
Về văn học dân gian, ngôn ngữ học, ta có thể  
bổ sung thêm vài tác giả Nam Bộ, thời Pháp  
thuộc đã hợp tác với thực dân như: Huỳnh Tịnh  
Của với Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn (1896);  
Trương Minh Ký với Câu hát An Nam (1898);  
Paulus Của với Chuyện giải buồn; Vè sông rạch  
Nam Bộ, Khuyết danh được Trương Vĩnh Ký  
sưu tầm… Chuyện dân gian có: chuyện Thủ  
Huồng, chuyện Miếu ông bần quỳ, chuyện Bà  
đội om, vè thầy Thông Chánh, Sáu Trọng.  
Về mối quan hệ văn học Bắc - Nam, có Lê  
Quý Đôn, Phạm Nguyễn Du, đã sưu tập văn liệu  
miền Nam, và viết thành Phủ biên tạp lục, Nam  
hành ký đắc tập; Ngoài ra ta còn thấy nhiều thư  
từ, nhiều lời bạt, bình về các tác phẩm của các  
tác giả Nam – Bắc trao đổi qua lại.  
Đặc biệt có hai điểm cần lưu ý bộ Lịch sử  
văn học Việt Nam này: Ở tập 2, trang 213, có  
đoạn viết Cấn Trai thi tập của Lê Quang Định là  
sai. Tác giả của Cấn Trai thi tập là Trịnh Hoài  
Đức; còn Lê Quang Định là tác giả của Hoa  
nguyên thi thảo.  
Như vậy, Ca Văn Thỉnh đã chỉ ra yếu tố hết  
sức quan trọng trong việc hình thành, phát triển  
văn hóa, văn học Nam bộ đó là sự giao lưu và  
giao thoa với văn học miền Bắc; đồng thời đó là  
sự kết hợp giữa thói quen sinh hoạt của người  
Nam bộ với lối giáo dục giáo dục nêu gương qua  
các tác phẩm văn học.  
Ngôn ngữ, chữ quốc ngữ: ở tập 1, trang 28  
“Đầu thế kỷ này (tức thế kỷ XX) chữ Quốc ngữ  
thay thế chữ Nôm…” lại viết thêm: “Nguyễn  
Đình Chiểu phản đối không nhìn đến nó” (chữ  
Quốc ngữ) là không chính xác. Sự thật lịch sử  
không như vậy, sau khi xâm chiếm Nam kỳ  
(1867), Pháp mở trường dạy chữ Quốc ngữ từ  
Sài Gòn đến các tỉnh. Cùng với nó, thực dân  
4. Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ  
qua nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh về giáo  
dục ở Nam Bộ  
Vấn đề biên khảo những tài liệu cổ, những  
văn liệu đã bị thất lạc hoặc lưu truyền đâu đó rải  
rác trong dân gian đã được rất nhiều nhà khoa  
72  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
học quan tâm sưu tầm, nghiên cứu. Tuy vậy, vẫn  
còn không ít tài liệu quý cần được ghi chép, tìm  
kiếm và đính chính. Ý thức được điều đó, Ca  
Văn Thỉnh lấy sở học của bản thân, lấy tình yêu  
mến văn hoá quê hương làm ngọn đuốc soi  
đường cho cuộc sống. Nên ngay khi còn là sinh  
viên Cao đẳng Sư phạm Đông Dương, lúc nghe  
thầy người Pháp giảng: đất Nam Bộ không có  
nền Nho học, dân Nam Bộ vốn gốc là những  
người không kỷ luật, là quân ăn cướp đã làm  
ông vô cùng bứt rứt và khó chịu. Ông viết trong  
Khổng học ở đất Đồng Nai: “Tôi luôn luôn nuôi  
trong lòng mình ý chí phải nghiên cứu để bằng  
mọi cách đánh bại luận điệu rẻ tiền của Bô ni  
phat xi (thầy giáo Pháp dạy sử) (Ngạc Xuyên,  
1943 b). Ngay khi quay về Bến Tre, ông đã miệt  
mài tìm bằng chứng để chứng minh ở Nam Bộ  
có nền Nho học và ông đã làm được điều đó  
bằng bài dịch Bài ký ở văn miếu Vĩnh Long do  
Phan Thanh Giản soạn năm Tự Đức thứ 19, và  
Bài văn bia về Võ Trường Toản trích trong Ngọa  
du sào tập. Đây chính là đóng góp đầu tiên của  
ông trong quá trình biên khảo của mình.  
Vậy đóng góp đầu tiên của Ca Văn Thỉnh  
cho văn hoá Nam Bộ là việc chứng minh Nam  
Bộ có truyền thống văn hóa gắn với truyền  
thống giáo dục Nho học. Rồi nhiều năm sau đó,  
ông tiếp tục tìm kiếm và khuyến khích giới  
nghiên cứu truy cứu tàng thư, sưu tầm thực địa,  
lưu giữ những thành tựu văn hoá tiền nhân để  
lại. Nhà nghiên cứu Mạc Đường nhận xét: “Ông  
(Ca Văn Thỉnh) là một trong những chuyên gia  
lớn đầu tiên về nghiên cứu Nam Bộ đã muốn  
vận dụng “chủ nghĩa Mác và nhân phẩm”, vận  
dụng những ý kiến của đồng chí Lê Duẩn năm  
1949 vào việc giáo dục học sinh và quần chúng  
để nghiên cứu con người Nam Bộ. Ông còn là  
người khuyến khích và ký giấy giới thiệu cho  
đoàn điều tra điền dã dân tộc học đầu tiên vào  
đầu năm 1976 đi công tác sau vụ bạo động ở Trà  
Vinh và Sóc Trăng để nghiên cứu về hậu quả  
của chủ nghĩa thực dân mới đối với vấn đề  
Khmer và Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long.  
Ông đã can thiệp và cử chúng tôi đi tiếp quản  
Trung tâm văn hoá Chăm ở Phan Rang, Thư  
viện sách khoa học xã hội của Trần Lệ Xuân và  
Ngô Đình Nhu ở Đà Lạt, Thư viện của Đảng  
Cần lao Nhân vị thời Ngô Đình Nhiệm ở Vĩnh  
Long, ông rất quan tâm đến nghiên cứu Văn hoá  
Óc Eo” (Ca Văn Thỉnh, 2015).  
Mặt khác, Ca Văn Thỉnh đi tìm hiểu nghiên  
cứu, tiểu sử, sự nghiệp những nhân vật đóng vai  
trò quan trọng trong văn hoá Nam Bộ. Với các  
bài viết như: Bài diễn văn trong buổi lễ kỷ niệm  
Nguyễn Đình Chiểu, Nhớ hai nhà giáo Võ  
Trường Toản và Nguyễn Đình Chiểu, Biên dịch  
tiểu sử Nguyễn Thông, Minh bột di ngư – Một  
quyển sách hai thi xã, Nguyễn Văn Thoại với sự  
đào Thoại Hà và kinh Vinh Tế, Tiểu sử Nguyễn  
Văn Thoại,… Ông đã dựng lại cuộc đời của các  
nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng lớn đến quá  
trình phát triển văn hoá và nhân cách con người  
Nam Bộ. Đồng thời ông muốn kêu gọi nhân dân  
Nam Bộ hãy tiếp tục phát huy những truyền  
thống văn hoá tốt đẹp vốn có của người Nam Bộ.  
Một đóng góp khác khá quan trọng của Ca  
Văn Thỉnh đối với Nam Bộ chính là đóng góp  
vào nền giáo dục Nam Bộ. Ngay khi làm Đốc  
học Bến Tre, ông đã chứng minh cho những nhà  
giáo dục đầu thế kỷ XX thấy rằng: Nam Bộ cũng  
có truyền thống giáo dục, truyền thống ấy bắt  
nguồn từ những lời hát ru, những mẩu chuyện  
mà những người bà, những người mẹ kể cho con  
cháu và sau này kết tinh, hội tụ ở nhà giáo Võ  
Trường Toản, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.  
Bằng nhiệt huyết của một nhà giáo và sự tinh  
tường của một trí thức lớn, Ca Văn Thỉnh đã chỉ  
ra hai phương pháp giáo dục cơ bản: Phương  
pháp nêu gương và phương pháp thực hành. Ở  
phương pháp nêu gương, ông lấy nhân cách của  
những nhà văn hoá, văn học, chí sĩ mẫu mực ở  
đất Nam Bộ từ từ khi hình thành cho tới thời đại  
Hồ Chí Minh để tạo niềm tin và sự ảnh hưởng  
đến nhân cách và hành động của người Nam Bộ.  
Ông nhấn mạnh vấn đề giáo dục con người phải  
bắt đầu từ thuở ấu thơ – tức sự giáo dục ấy phải  
có quá trình từ thấp lên cao, từ đơn giản đến  
phức tạp mà bước đầu là nêu gương, tạo trong  
trí óc con trẻ những tấm gương đạo đức tốt đẹp.  
Ở phương pháp thực hành, Ca Văn Thỉnh đặc  
biệt đề cao phương pháp “Tập nghĩa” của Võ  
Trường Toản. Ông chỉ ra ưu điểm của phương  
73  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
phàp này là vừa giúp người học tiếp thu lý  
thuyết vừa vận dụng vào thực tế; biến những lý  
thuyết giáo điều thành hành động thực tế. Từ đó  
giúp người học hứng thú và làm theo những gì  
đã học.  
Vậy là, Ca Văn Thỉnh qua việc tìm hiểu nên  
giáo dục Nam Bộ đã cho thấy truyền thống văn  
hóa Nam bộ luôn được nuôi dưỡng trong truyền  
thống giáo dục lấy tinh thần yêu nước làm chủ  
đạo, và văn học Nam bộ lấy khuynh hướng "tập  
nghĩa, dưỡng khí" làm đề tài sáng tác.  
Tài liu tham kho  
Bảo Định Giang (1977). Thơ văn yêu nước Nam Bộ  
(nửa sau thế kXIX). Nxb Văn học.  
Bảo Định Giang (2001). Những ngôi sao sáng trên  
bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX.  
Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ.  
Nhiều tác giả (2016). Những vấn đề văn học và ngôn  
ngữ Nam Bộ, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ  
Chí Minh.  
Nguyễn Lộc và Hoàng Hữu Yên (1962). Văn học  
Việt Nam thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX.  
Nxb Giáo dục.  
Kết luận  
Từ kết quả nghiên cứu trên, có thể khẳng  
định rằng, Ca Văn Thỉnh đã góp phần vào việc  
lưu giữ những tác phẩm văn học dân gian - là  
bằng chứng để khẳng định mối quan hệ văn học  
Bắc Nam có từ lâu đời. Đồng thời, ở những tác  
phẩm ông sưu tầm được cũng khẳng định văn  
hóa, văn học Nam Bộ có những đặc thù riêng  
của nó trong quá trình vận động tồn tại và phát  
triển. Chính Ca Văn Thỉnh là một trong những  
nhà nghiên cứu đầu tiên khẳng định cái hay, cái  
tinh hoa của văn học Nam Bộ là ở ngôn ngữ mộc  
mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói người Nam Bộ,  
gần với tính cách "ngang tàng", phóng khoáng  
và thích tự do của người Nam Bộ. Và với đặc  
thù trong lời ăn, nếp ở của người Nam Bộ thì  
văn phong trong các tác phẩm văn học ở Nam  
Bộ không thể nào khác.  
Với những đóng góp của Ca Văn Thỉnh,  
ngày nay khi lật giở những trang sách viết về  
văn học Nam Bộ, người ta thường nhắc đến Ca  
Văn Thỉnh như người có công đầu trong quá  
trình dựng lại văn học sử Nam Bộ. Ngoài ra, ta  
còn thấy đây đó nhiều bài nghiên cứu, hồi kí của  
các nhà cách mạng, nhà văn Nam Bộ nhắc đến  
ông như một người thầy cao quý, một tấm  
gương cần mẫn trong nghiên cứu khoa học.  
Vậy là bằng những nỗ lực của mình, Ca Văn  
Thỉnh đã thực hiện được ý nguyện: "Kẻ hậu học  
này mải lo dại tới “cái vựa thóc văn học” ít ỏi  
này không đủ cung cấp thức ăn tinh thần cho cả  
giống nòi đương khao khát, nên ráng sức mọn  
đi mót từng hột, lượm từng bông ở tận ruộng  
biền, ruộng chéo của đất Lục tỉnh này” trích  
Minh bột di ngư - một quyển sách, hai thi xã  
(Ngạc Xuyên, 1943 a).  
Huỳnh Lý và cộng sự (1964). Sơ khảo lịch sử văn  
học Việt Nam: Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.  
Nxb Văn học.  
Ca Văn Thỉnh (1972). Truyn thng quật cường ca  
Nam Bvà Vit Nam vi tinh thần đấu tranh  
ca Nguyễn Đình Chiểu. Tp chí Nghiên cu  
Văn học, S4.  
Ca Văn Thỉnh (1975). Góp ý vhai tp lch sử văn  
hc Vit Nam. Bn thảo do gia đình cung cấp.  
Ca Văn Thỉnh (1976 a). Nguyn Hu Huân thân thế  
và snghip. Kyếu Vin KHXH Min Nam.  
Ca Văn Thỉnh (1976 b). Snghip ca ThKhoa  
Huân là mt bài ca chính khí, Báo Văn nghệ  
Tp. HCM. S608.  
Ca Văn Thỉnh và Bảo Định Giang (1976). Thơ văn  
yêu nước Nam Bnu cui thế kXIX. Nxb  
Văn học Gii phóng.  
Ca Văn Thỉnh (1978). Nhớ hai nhà giáo Võ Trường  
Ton và Nguyễn Đình Chiểu. Tun báo Văn  
nghTp.HCM, S7.  
Ca Văn Thỉnh và cng s(1982). Nguyễn Đình  
Chiu toàn tp (2 tập). Nxb Đại Hc và Trung  
hc chuyên nghip.  
CaVănThỉnh(1983). okhíĐngNai.NxbTp.HCM.  
Ca Văn Thỉnh (1987). Xây dựng con người mi từ  
tuổi thơ. Nxb Tp. HChí Minh  
Ca Văn Thỉnh (2015). Ca Văn Thính tổng hợp. Nxb  
Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.  
Ca Văn Thỉnh (2016). Nam Bộ đất và người, Nxb Trẻ  
Tp. Hồ Chí Minh.  
Ca Văn Thỉnh. Nguyễn Đình Chiểu cuộc đời và sự  
nghip. Bn tho (a) do gia đình cung cấp.  
Ca Văn Thỉnh. Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ chiến đu  
vì nghĩa c. Bn tho (b) do gia đình cung cấp.  
Ca Văn Thỉnh. Niềm mơ ước ca Nguyễn Đình Chiểu về  
mt xã hi công bằng bác ái đang thành hiện  
thc trong chủ nghĩa xã hội ngày nay. Bn tho  
(c) do gia đình cung cấp.  
74  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
Ca Văn Thỉnh. Phong trào đấu tranh lc tnh trong  
thời gian đầu xâm lược ca Pháp. Bn tho  
(d) do gia đình cung cp.  
Ca Văn Thỉnh. ThKhoa Huân. Bn tho (e) do gia  
đình cung cấp.  
Ca Văn Thỉnh, Tìm hiểu lòng đạo của Nguyễn Đình  
Chiểu, Bản thảo (f) do gia đình cung cấp.  
Ca Văn Thỉnh. Khả năng và lòng đạo ca Nguyn  
Đình Chiểu. Bn tho (g) do gia đình cung cấp.  
Ca Văn Thỉnh. Nht ký (17 tp), thbút (f) do gia  
đình cung cấp.  
Lê Trí Viễn (1976). Lịch sử văn học Việt Nam (Tập  
4b). Nxb Giáo dục.  
Ngc Xuyên (1962). Câu chuyn ym qu. Tp chí  
Nghiên cứu Văn học, S4.  
Ngạc Xuyên (1943 a). Minh bột di ngư – Một quyển  
sách hai thi xã. Đại Việt Tập chí. Số 12.  
Ngạc Xuyên (1943 b). Khổng học ở đất Đồng Nai.  
Đại Việt Tập chí, Số 22, 23.  
Ngc Xuyên (1975). Ý nghĩ về văn học sNam Bộ  
và mi quan hBc Nam. Tp chí Nghiên cu  
Văn học, S3.  
75  
pdf 9 trang baolam 13/05/2022 3520
Bạn đang xem tài liệu "Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ trong nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnhan_dien_van_hoa_van_hoc_nam_bo_trong_nghien_cuu_cua_ca_van.pdf