Các nội dung nghiên cứu về học thuật số

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
CÁC NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VỀ HỌC THUẬT SỐ  
TS Nguyễn Hồng Sinh, TS Ngô Thị Huyền  
Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh  
Tóm tắt: Bài viết tổng quan về các nội dung đang được triển khai nghiên cứu về học  
thuật số dựa trên quá trình phân tích tài liệu về chủ đề này. Kết quả phân tích các công bố  
khoa học cho thấy, có hai hướng nghiên cứu chính: nghiên cứu về những thay đổi trong hoạt  
động học thuật dưới tác động của môi trường số và đưa ra các định nghĩa về học thuật số, và  
nghiên cứu về sự phát triển của học thuật số. Trong khi đó, các công bố khoa học của Việt  
Nam chủ yếu tập trung vào ‘nguồn tài nguyên thông tin’ và ‘bộ sưu tập số’.  
Từ khóa: Nguồn tài liệu thông tin; bộ sưu tập số; học thuật số.  
Main research themes on digital learning  
Abstract: The article presents overview of some main themes of researches on digital  
learning based on the analysis on topic-related documentations. The results of analyses on scientific  
publications show that there are two main research themes: research on changes in learning  
influenced by digital environment that lead to definitions on digital learning, and research on the  
development of digital learning. Meanwhile, Vietnamese scientific publications mainly focus on the  
two themes: “information resources” and “digital collections”.  
Keywords: Information document resources; digital collections; digital learning.  
1. Đặt vấn đề  
viên và sinh viên trong các trường đại học.  
Trong bối cảnh này, khái niệm học thuật  
số (digital scholarship) được hình thành và  
phát triển. Các nội dung của học thuật số  
ngày càng nhận được sự quan tâm nghiên  
cứu và ứng dụng của các cá nhân và tổ  
chức, đặc biệt là các đơn vị tham gia vào  
quá trình quản lý và hỗ trợ các hoạt động  
học thuật như thư viện đại học. Trước thực  
tế này, sự hiểu biết về các hướng nghiên  
cứu, những nội dung cụ thể đang được tập  
trung nghiên cứu của học thuật số là rất  
cần thiết. Dựa trên quá trình phân tích tài  
liệu đã được công bố trong và ngoài nước  
về học thuật số, bài viết tổng quan các nội  
dung nghiên cứu về học thuật số.  
Môi trường số ngày càng có nhiều thay  
đổi. Đó là sự xuất hiện của các công nghệ  
kỹ thuật số mới (phương tiện truyền thông  
xã hội, dữ liệu lớn, và công nghệ giải pháp  
di động và điện toán đám mây), sự phát  
triển của các thiết bị truy cập và sử dụng  
thông tin số (máy tính cá nhân và điện thoại  
thông minh), sự phong phú và đa dạng của  
các nguồn tài nguyên thông tin số cũng  
như những đổi mới trong phương thức tạo  
lập, chia sẻ và sử dụng thông tin số (dữ  
liệu mở). Điều này có tác động mạnh mẽ  
đến các hoạt động chuyên môn của giới  
học thuật bao gồm nhà nghiên cứu, giảng  
13  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
2. Các hướng nghiên cứu nổi bật về  
học thuật số  
Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng,  
môi trường số đã khiến cho cách thức  
hoạt động của giới học thuật thay đổi.  
Scanlon E (2014) đã chỉ ra rằng, hoạt  
động học thuật với các chức năng khám  
phá, tích hợp tri thức, ứng dụng kiến thức  
của các lĩnh vực, và giảng dạy, ngày càng  
được mở rộng trong môi trường số thông  
qua việc sử dụng các công nghệ và thiết  
bị kỹ thuật số. Cụ thể, để khám phá có thể  
sử dụng các nguồn dữ liệu mở; để tích hợp  
có thể dùng khả năng chia sẻ thông tin,  
dữ liệu số, và xuất bản phẩm mở; để ứng  
dụng có thể dùng các phần mềm hỗ trợ  
kết nối cộng đồng; để dạy có thể dùng các  
nguồn học liệu mở, khoá đào tạo từ xa.  
Tiếp cận một cách toàn diện hơn,  
Thanos C (2014) đã nghiên cứu và xác  
định các đặc tính nổi bật về môi trường hoạt  
động của giới học thuật hiện nay: (1) mạng  
lưới truy cập lượng dữ liệu khoa học khổng  
lồ (dữ liệu lớn-big data), (2) giải quyết các  
vấn đề phức tạp cần dựa trên hiểu biết đa  
lĩnh vực, (3) việc chia sẻ nghiên cứu ngày  
càng dễ dàng và mang tính mở, (4) gia tăng  
khả năng và khuynh hướng hợp tác toàn  
cầu trong nghiên cứu - sự kết nối của các  
hệ sinh thái khoa học vượt qua các rào cản  
ngôn ngữ, chính trị, và xã hội, (5) nghiên  
cứu được thúc đẩy dưới sự hỗ trợ của công  
nghệ 4.0.  
Diễn giải một cách cụ thể hơn những  
thay đổi trong hoạt động nghiên cứu của  
giới học thuật, Llona E (2007) đã cho thấy,  
các nhà nghiên cứu trong mọi lĩnh vực từ  
khoa học cho đến nghệ thuật, đã bắt đầu  
gia tăng việc sử dụng công nghệ số để xử  
lý thông tin cũng như tạo ra tri thức mới.  
Các phần cứng và phần mềm số được sử  
dụng không chỉ để thu thập thông tin, mà  
còn để phân tích các dữ liệu nghiên cứu và  
phổ biến kết quả nghiên cứu. Công nghệ  
số đã tạo ra khả năng thay đổi cách thức  
nghiên cứu và giảng dạy.  
Từ năm 2000 đến nay, học thuật số đã  
trở thành chủ đề nghiên cứu của nhiều lĩnh  
vực và số lượng các công bố khoa học về  
chủ đề này ngày càng tăng. Nghiên cứu  
của Raffaghelli J và các cộng sự năm 2015  
cho thấy, trong số các bài báo công bố  
trên hệ thống Scopus và Web of Science  
trong khoảng thời gian từ 2004 đến 2014,  
học thuật số là một chủ đề nghiên cứu của  
các lĩnh vực: nghệ thuật và nhân văn, lịch  
sử, khoa học xã hội, giáo dục, khoa học  
công, khoa học máy tính, thông tin và thư  
viện học. Nhìn chung, các công bố liên  
quan đến học thuật số phản ánh hai hướng  
nghiên cứu chính: (1) nghiên cứu về những  
thay đổi trong hoạt động học thuật dưới  
tác động của môi trường số, từ đó xác định  
các đặc điểm của môi trường học thuật số,  
cũng như đưa ra các định nghĩa về học  
thuật số; (2) nghiên cứu về việc phát triển  
học thuật số bao gồm nghiên cứu tạo ra hạ  
tầng công nghệ giúp giới học thuật sử dụng  
công nghệ số cho hầu hết các hoạt động  
học thuật của mình (làm cho hoạt động học  
thuật mang tính số hơn), và nghiên cứu tạo  
ra môi trường số hỗ trợ tốt hơn hoạt động  
học thuật (làm cho học thuật số phục vụ  
học thuật tốt hơn).  
2.1. Nghiên cứu về sự thay đổi trong  
hoạt động học thuật và xác lập định  
nghĩa học thuật số  
Chủ đề đầu tiên được tập trung nghiên  
cứu là các thay đổi của hoạt động học thuật  
dưới tác động của môi trường số tại các cơ  
sở đào tạo và nghiên cứu. Đồng thời, các  
nghiên cứu cũng nỗ lực xác định nội hàm  
cho khái niệm học thuật số. Những trọng  
tâm nghiên cứu này được thể hiện trong  
công bố của nhiều cơ quan tổ chức và cá  
nhân, tiêu biểu như Lynch C và Carleton  
D (2009), Burdick A và Willis H (2011),  
Scanlon E (2014), Thanos C (2014), và  
Đại học Washington (2015).  
14  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Tập trung vào hoạt động giảng dạy,  
một nghiên cứu của Burdick A và Willis H  
(2011) cho thấy, những người làm công tác  
giảng dạy đã thay đổi phương thức dạy và  
học bằng cách sử dụng các công nghệ số,  
ví dụ như sử dụng máy tính và các phương  
tiện di động, giao tiếp qua mạng xã hội và  
các công cụ, tiện ích của internet. Nghiên  
cứu của nhiều tác giả đã đi đến kết luận  
rằng, trong phạm vi toàn cầu, giới học  
thuật có thể thu nhận được thông tin, hợp  
tác thực hiện các nghiên cứu, và trao đổi  
các kết quả nghiên cứu một cách dễ dàng  
và nhanh chóng dưới sự hỗ trợ của công  
nghệ [Al-Aufi A and Genoni P, 2010], và sẽ  
không có học thuật nếu không có trao đổi  
học thuật [Lynch C and Carleton D, 2009].  
Có thể thấy, trong bối cảnh hiện nay nếu  
muốn thành công, các nhà khoa học khó có  
thể nghiên cứu đơn lẻ mà cần phải tương  
tác, cộng tác với các cộng đồng khoa học.  
Từ việc xác định các thay đổi cũng như  
các đặc điểm mới trong môi trường học  
thuật, các khái niệm về học thuật số được  
xác lập. Có thể thấy, có khá nhiều phát  
biểu về khái niệm học thuật số được công  
bố trên các bài báo khoa học từ nhiều lĩnh  
vực. Nhiều tác giả đồng thuận rằng, học  
thuật số là những dạng thức vận hành mới  
trong hoạt động chuyên môn của giới học  
thuật, các dạng thức này nối kết với những  
thay đổi trong bối cảnh của hoạt động học  
thuật tại các trường đại học, cũng như nối  
kết với những thay đổi trong bối cảnh văn  
hoá, xã hội và cách thức làm việc trong kỷ  
nguyên số [Weller M, 2011].  
số để phục vụ việc tìm hiểu và phân tích  
thông tin, là việc tạo ra các công cụ phù  
hợp để xây dựng các bộ sưu tập thông tin,  
là việc tạo ra các công cụ phân tích và tìm  
hiểu các bộ sưu tập số, là việc sử dụng các  
bộ sưu tập số và các công cụ nhằm tạo ra  
các sản phẩm trí tuệ, và tạo ra các công  
cụ biên soạn (authoring tools) cho các sản  
phẩm trí tuệ.  
Trong cộng đồng các trường đại học,  
học thuật số được hiểu là việc sử dụng các  
minh chứng, phương pháp, nghiên cứu,  
công bố và bảo quản số nhằm đạt được  
các mục tiêu của hoạt động học thuật bao  
gồm nghiên cứu và giảng dạy [Rumsey A,  
2011]; hoặc, học thuật số là các hoạt động  
học thuật có ứng dụng các khả năng tương  
tác với phương tiện ghi số, cho quá trình  
giảng dạy và nghiên cứu, bao gồm các  
hình thức hợp tác mới, các hình thức công  
bố mới và các phương pháp mới cho việc  
phân tích và hình dung dữ liệu [University  
of Washington, 2015]. Tương tự, theo  
Llona E (2007), học thuật số là sản phẩm,  
kết quả, công cụ nghiên cứu được thể hiện  
dưới dạng số hoặc được chuyển từ dạng  
tín hiệu tương tự (analog) sang dạng số;  
thường được tạo ra từ quá trình khám phá  
tri thức thông qua việc sử dụng công nghệ  
để thu thập, phân tích và công bố dữ liệu và  
thường được sử dụng cho mục đích nghiên  
cứu và giảng dạy.  
Với cộng đồng các thư viện, học thuật  
số là việc ứng dụng công nghệ số để hỗ  
trợ việc truy cập, tìm kiếm và áp dụng tri  
thức. Sản phẩm của học thuật số có thể  
bao gồm phương tiện số, website, nguồn  
lưu trữ thông tin học thuật và vật trưng bày  
số [Mackenzie A and Martin L, 2016].  
Như vậy, các nghiên cứu đã khẳng định  
rằng, dưới tác động của công nghệ số, giới  
học thuật của nhiều lĩnh vực cùng quan  
tâm đến học thuật số và đã thực hiện nhiều  
thay đổi trong quá trình làm việc. Học thuật  
Với góc độ nghiên cứu của các chuyên  
gia trong lĩnh vực công nghệ, Weller M  
(2011) đưa ra khái niệm chung về học  
thuật số. Theo đó, học thuật số là việc một  
người sử dụng cách tiếp cận số để trình  
bày các nội dung chuyên môn trong lĩnh  
vực của mình. Cụ thể, học thuật số là việc  
xây dựng bộ sưu tập thông tin dưới dạng  
15  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
số được xác định là tất cả các phương thức  
mới được giới học thuật sử dụng trong quá  
trình nghiên cứu và giảng dạy trong kỷ  
nguyên số. Vì vậy, nghiên cứu về học thuật  
số sẽ có nhiều cách tiếp cận và sẽ có khả  
năng ứng dụng khác nhau vào nhiều hoạt  
động, nhất là hoạt động quản lý và hỗ trợ  
nghiên cứu.  
Đối với học thuật số được sử dụng để  
kết nối các hoạt động học thuật, nhiều nhà  
nghiên cứu, điển hình như Stewart B (2015)  
đã tập trung nghiên cứu về các tiến bộ  
công nghệ được áp dụng trong hoạt động  
học thuật bao gồm phương thức sử dụng và  
tiếp nhận các mạng xã hội để phổ biến nội  
dung nghiên cứu, truyền tải nội dung giảng  
dạy, truy cập mở cho các nguồn thông tin  
khoa học và giáo dục. Các nghiên cứu về  
việc sử dụng truyền thông mạng xã hội (ví  
dụ, Academia, ResearchGate, Facebook,  
Twitter) chỉ ra rằng các trang mạng này  
ngày càng được sử dụng nhiều hơn để thúc  
đẩy năng lực giao tiếp học thuật bằng cách  
củng cố các mối quan hệ, tạo điều kiện dễ  
dàng cho sự hợp tác giữa các bên, công bố  
và chia sẻ sản phẩm nghiên cứu và thảo  
luận các vấn đề nghiên cứu theo phương  
thức mở và công khai.  
Các công trình về học thuật số áp dụng  
olĩnhvcnnvăn,vídnhưHammarfelt  
B (2014), đã xem xét các cách thức mới với  
sự ứng dụng của công nghệ số và khoa  
học máy tính cho các hoạt động cũng như  
cho các phương pháp nghiên cứu trong  
lĩnh vực xã hội và nhân văn, bao gồm tạo  
ra công cụ và phương pháp nghiên cứu,  
phương thức thể hiện và truyền tải thông  
tin/tài liệu dưới dạng số. Trong nhóm nội  
dung này còn có các công trình trình bày  
những dự án cũng như những nhu cầu về  
việc số hoá và chia sẻ các di sản văn hoá,  
ví dụ như công trình của Wijesundara C và  
Sugimoto S (2017).  
2.2. Nghiên cứu về sự phát triển của  
học thuật số  
Nội dung và ý nghĩa được phản ánh  
trong các định nghĩa về học thuật số cho  
thấy, nghiên cứu về học thuật số mang tính  
liên ngành, bao gồm các lĩnh vực: công  
nghệ thông tin, khoa học máy tính, thông  
tin học, và công nghệ giáo dục [Weller M,  
2011; Raffaghelli J et al, 2015]. Bên cạnh  
đó, học thuật số còn được nghiên cứu trong  
bối cảnh cụ thể của các điều kiện văn hoá,  
xã hội, và tiến bộ công nghệ. Nói một cách  
cụ thể, phát triển học thuật số phải được  
nghiên cứu trên cơ sở phát triển công nghệ  
số, tìm hiểu đặc tính của người sử dụng,  
nghiên cứu sự liên kết giữa quá trình giáo  
dục với các công cụ và đặc tính của môi  
trường số, nghiên cứu cách thức ứng xử  
của xã hội, của văn hoá trong môi trường  
số nơi mà các công nghệ số đang thay đổi  
nhanh chóng.  
Việc phát triển học thuật số được thể  
hiện ở hai khía cạnh: (1) nghiên cứu tạo  
ra hạ tầng công nghệ giúp giới học thuật  
sử dụng công nghệ số cho mọi hoạt động  
(làm cho hoạt động học thuật mang tính số  
hơn); (2) nghiên cứu tạo ra môi trường số  
hỗ trợ tốt hơn hoạt động học thuật (làm cho  
học thuật số mang tính học thuật hơn). Các  
nghiên cứu phát triển học thuật số trong  
thời gian qua có thể nhóm thành ba nội  
dung: học thuật số trong kết nối học thuật  
(networked scholarly), học thuật số trong  
lĩnh vực nhân văn (digital humanities),  
và học thuật số trong hoạt động thư viện  
(digital library).  
Các công trình về học thuật số liên quan  
đến hoạt động thông tin - thư viện (TT-TV),  
điển hình như của Goodfellow R và Lea M  
(2013), đã cung cấp những hiểu biết về  
các đặc tính của cơ sở hạ tầng số và cách  
thức tương tác, sử dụng các chức năng của  
hạ tầng số cho các hoạt động học thuật.  
Các nghiên cứu cũng tập trung vào hành  
vi của người sử dụng, các tính năng của  
hạ tầng số, vai trò và nhiệm vụ của các  
16  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
bên liên quan đến việc cung cấp hạ tầng  
số, cũng như tìm hiểu và xác định vai trò  
mới của các thư viện trong kỷ nguyên số  
trong việc hỗ trợ các hoạt động học thuật.  
Đã có nhiều công trình là những nghiên  
cứu hoặc những dự án triển khai các dịch  
vụ học thuật số trong các trường đại học,  
như trường đại học Virginia, trường đại học  
Tufts, và trường đại học California của Hoa  
Kỳ. Các dịch vụ học thuật số được hiểu  
là các hình thức hỗ trợ khác nhau đối với  
giảng viên và người học để giúp họ trong  
suốt quá trình thực hiện các hoạt động học  
thuật trong môi trường số [Mithcheen P  
and Rice D, 2017].  
Nội dung được nhiều tác giả nghiên  
cứu là việc xây dựng và khai thác nguồn  
tài nguyên số. Một số tác giả, ví dụ như  
Trần Thị Thanh Thuỷ (2012), đã nghiên  
cứu thực trạng và tìm kiếm giải pháp cho  
việc nâng cao giá trị và hiệu quả sử dụng  
của các bộ sưu tập số. Các nội dung cụ thể  
đã được triển khai nghiên cứu gồm có kỹ  
thuật xây dựng các bộ sưu tập số, công cụ  
tra cứu cũng như các yêu cầu về cơ sở hạ  
tầng, thói quen và nhu cầu của người dùng  
tin đối với các nguồn tài nguyên số, cách  
thức cung cấp dịch vụ thông tin, cách thức  
thu hút người dùng tin, cũng như cách thức  
đào tạo kỹ năng thông tin cần thiết để giúp  
người dùng tin gia tăng hiệu quả sử dụng  
các nguồn tài nguyên số. Nhìn chung, các  
nghiên cứu chủ yếu tập trung giải quyết  
các vấn đề đặt ra của một vài đơn vị cụ thể  
và kết quả nghiên cứu vẫn chưa được phổ  
biến và ứng dụng trong thực tiễn.  
Một nội dung khác đã được các tác  
giả tập trung nghiên cứu, đó là việc ứng  
dụng công nghệ thông tin trong quá trình  
sử dụng nguồn tài nguyên số [Phan Huy  
Quế và Nguyễn Hồng Vân (2016)]. Bên  
cạnh đó, các vấn đề chia sẻ nguồn lực  
thông tin cũng được quan tâm xem xét và  
tìm giải pháp, điển hình như bài viết “Chia  
sẻ tài nguyên thông tin trên mạng nghiên  
cứu đào tạo Việt Nam (VinaREN)” của tác  
giả Cao Minh Kiểm và Nguyễn Tuấn Hải  
(2013). Vấn đề bản quyền cũng là một nội  
dung quan trọng của việc sử dụng thông  
tin trong môi trường số. Một vài tác giả đã  
nguyên cứu về hành vi vi phạm bản quyền  
và đưa ra nguyên tắc cũng như các biện  
pháp đảm bảo việc tuân thủ bản quyền,  
ví dụ như Lê Thị Thu Hà và Đào Thị Mai  
Quyên (2016). Ngoài ra, các định hướng,  
chính sách của chính phủ đối với công tác  
ứng dụng công nghệ thông tin nói chung,  
công nghệ số nói riêng cũng đã được đề  
cập trong một số tài liệu, ví dụ như tài liệu  
của Thư viện Quốc gia (2012).  
3. Các nội dung nghiên cứu liên quan  
đến học thuật số trong hoạt động thông  
tin-thư viện tại Việt Nam  
Tại Việt Nam, mặc dù các khái niệm về  
tài liệu số, công nghệ số, thư viện số đã  
trở nên phổ biến, tuy nhiên khái niệm học  
thuật số chưa thực sự quen thuộc với cộng  
đồng học thuật cũng như cộng đồng các cơ  
quan TT-TV. Trên thực tế, các công bố liên  
quan đến ứng dụng công nghệ số trong  
phục vụ thông tin học thuật đang được các  
tác giả Việt Nam sử dụng bằng các thuật  
ngữ “nguồn tài nguyên số” hay “bộ sưu tập  
số”.  
Mặc dù còn thiếu những công trình  
nghiên cứu sâu, toàn diện và dài hơi về  
thực tiễn ứng dụng công nghệ số trong môi  
trường học thuật tại Việt Nam, nhưng cũng  
đã có những nỗ lực nghiên cứu về thực  
trạng cũng như khả năng phát triển các  
nguồn tài nguyên số, về các nội dung liên  
quan của quá trình phát triển các bộ sưu  
tập số, khai thác và phục vụ nguồn tài liệu  
số trong các thư viện đại học. Các công bố  
về những nghiên cứu này có thể tìm thấy  
chủ yếu trong các luận văn cao học, các  
kỷ yếu hội thảo khoa học, và các bài báo  
của các tạp chí chuyên ngành TT-TV. Một  
vài nội dung và nghiên cứu cụ thể có thể  
kể đến như sau:  
17  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Nhìn chung, các vấn đề liên quan đến  
nguồn tài nguyên số đã được quan tâm  
nghiên cứu ở Việt Nam. Tuy nhiên, các  
nghiên cứu phần lớn chỉ xoay quanh việc  
xây dựng và sử dụng các bộ sưu tập số tại  
từng đơn vị cụ thể. Các vấn đề khác của  
học thuật số như là khả năng tương tác, nối  
kết của người dùng tin là giới học thuật, khả  
năng sử dụng các chức năng của hạ tầng  
số cho việc cung cấp dịch vụ thông phục vụ  
học thuật vẫn chưa được nghiên cứu sâu.  
Ngoài ra, các nghiên cứu cơ bản mang tính  
lý luận, khái quát, định hướng, gợi mở các  
hướng nghiên cứu phát triển ứng dụng học  
thuật số cho bối cảnh của Việt Nam cũng  
chưa nhận được nhiều sự quan tâm của  
các nhà nghiên cứu và những người làm  
công tác thực tiễn.  
Ở Việt Nam, trước điều kiện ứng dụng  
công nghệ thông tin ngày càng mạnh mẽ  
trong mọi hoạt động của xã hội, trước các  
xu hướng ứng dụng tiến bộ của công nghệ  
số vào hoạt động nghiên cứu, giảng dạy,  
và học tập, việc nghiên cứu và ứng dụng  
một cách sâu sắc và toàn diện các tiện ích  
của công nghệ số vào hoạt động học thuật  
nói chung, vào dịch vụ thông tin nói riêng  
của các trường đại học Việt Nam sẽ trở  
thành một yêu cầu cần thiết.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Al-Aufi A and Genoni P (2010).  
An investigation of digital scholarship and  
disciplinary culture in Oman. Library Hi Tech,  
vol. 28, no. 3, 414432.  
2. Burdick A and Willis H (2011). Digital  
learning, digital scholarship and design  
thinking. Design Studies, vol. 32, no. 6,  
546-556.  
4. Kết luận  
Trên thế giới, học thuật số là một trong  
những chủ đề đang nhận được sự quan  
tâm của các nhà nghiên cứu cũng như  
những người làm thực tiễn đến từ nhiều  
lĩnh vực khác nhau. Điều này xuất phát từ  
tiềm năng ứng dụng rộng rãi vào các lĩnh  
vực khác nhau của học thuật số. Sự gia  
tăng của các nghiên cứu cũng như hoạt  
động thực tiễn về học thuật số tại nhiều  
quốc gia đã mang lại sự hiểu biết rõ nét  
hơn về thuật ngữ này. Quá trình tổng quan  
tài liệu cho thấy, có những hướng nghiên  
cứu với những nội dung cụ thể rất đa dạng  
về học thuật số và hoạt động thực tiễn liên  
quan đến học thuật số trong các thư viện  
và cơ sở giáo dục cũng ngày càng trở nên  
phổ biến. Học thuật số sẽ còn tiếp tục được  
nghiên cứu và phát triển cùng với những  
thành tựu mà cuộc cách mạng công nghiệp  
4.0 mang lại.  
3. Cao Minh Kiểm và Nguyễn Tuấn Hải  
(2013). Chia sẻ tài nguyên thông tin trên mạng  
nghiên cứu và đào tạo Việt Nam (VinaREN).  
Tạp chí Thông tin Tư liệu, Số chuyên đề, 46-52.  
4. Goodfellow R and Lea M (2013).  
Literacy in the digital university: Critical  
perspectives on learning, scholarship, and  
technology. Abingdon : Routledge. 232 pp.  
ISBN 978-0415537971.  
5. Hammarfelt B (2014). Using altmetrics  
forassessingresearchimpactinthehumanities.  
Scientometrics, vol. 101, no. 2, 14191430.  
6. Lê Thị Thu Hà và Đào Thị Mai Quyên  
(2016). Xâm lược bản quyền trong môi trường  
số: Giải pháp cho nhà phát triển công nghệ.  
Tạp chí Nghiên Cứu Lập Pháp, no. 2+3,  
91-102.  
18  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
7. Llona E (2007). The librarian’s role in  
promoting digital scholarship: Development  
and metadata issues. Slavic & East European  
Information Resources, vol. 8, no. 2/3,  
151-163.  
scholarship. The International Review of  
Research in Open and Distributed Learning.  
org/index.php/irrodl/article/view/2158/3350.  
16. Thanos C (2014). The future of digital  
scholarship. Procedia Computer Science, vol.  
38, 22-27.  
8. LynchCandCarletonD(2009).Lecture:  
Impact of digital scholarship on research  
libraries. Journal of Library Administration, vol.  
49, no. 3, 227-244.  
17. Thư viện Quốc gia (2012). Vai trò của  
thư viện Quốc gia và các cơ quan thông tin - thư  
viện trong việc tạo lập bộ sưu tập tài nguyên số  
quốc gia của Việt Nam (30/11/2012). Hội thảo  
Thư viện quốc gia Việt Nam.  
9. Mackenzie A and Martin L (2016).  
Demonstrating expertise in digital scholarship.  
cilip.org.uk/blog/demonstrating-expertise-  
digital-scholarship.  
10. Mithcheen P and Rice D (2017).  
Creating digital scholarship services at  
Appalachian State University. Libraries and the  
Academy, vol. 17, no. 4. 827-841.  
18. Trần Thị Thanh Thủy (2012). Tổ chức  
và khai thác tài liệu số tại Thư viện Tạ Quang  
Bửu Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (luận  
văn thạc sĩ). Hà Nội : Đại học Khoa học Xã hội  
và Nhân văn.  
11. Phan Huy Quế và Nguyễn Hồng Vân  
(2016). Áp dụng công nghệ điện toán đám mây  
trong các cơ quan Thông tin - Thư viện Việt  
Nam và kết quả thử nghiệm tại cục Thông tin  
Khoa học và công nghệ quốc gia. Tạp chí thư  
viện Việt Nam, no. 3, 3-14.  
19. University of Washington (2015).  
Demystifying  
the  
digital  
humanities.  
Truy cập ngày 01/10/2018 từ https://  
uwdigitalprojectsshowcase2015.wordpress.  
com.  
12. Raffaghelli J, Cucchiara S, Persico D  
and Manganello F (2015). Digital scholarship:  
A systematic review of the literature. Technical  
Report. Genoa: Institute for Educational  
Technologies.  
20. Weller M (2011). The digital scholar:  
How technology is transforming scholarly  
practice. Basingstoke : Bloomsbury Academic.  
256 pp. ISBN 978-1849666176.  
13. RumseyA(2011). New-modelscholarly  
communication: Road map for change.  
Scholarly Communication Institute 9. University  
of Virginia Library. Truy cập ngày 01/10/2018  
9-Road-Map-for-Change.pdf.  
21. Wijesundara C and Sugimoto S (2017).  
Organizing digital cultural heritage resources  
on networked information environments.  
Proceedings of the 9th Asia Library and  
Information Research Group (ALIRG), Khon  
Kaen University, Khon Kaen, Thailand, 79-83.  
14. Scanlon E (2014). Scholarship in  
the digital age: Open educational resources,  
publication and public engagement. British  
Journal of Educational Technology, vol. 45, no.  
1, 12-23.  
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 15-9-2018;  
Ngày phản biện đánh giá: 10-11-2018; Ngày  
chấp nhận đăng: 15-12-2018).  
15. Stewart B (2015). In abundance:  
Networked  
participatory  
practices  
as  
19  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2019  
pdf 7 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 300
Bạn đang xem tài liệu "Các nội dung nghiên cứu về học thuật số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcac_noi_dung_nghien_cuu_ve_hoc_thuat_so.pdf