Từ mối quan hệ tôn giáo và kinh tế đến kinh tế tôn giáo
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 – 2019
3
ĐỖ QUANG HƯNG*
TỪ MỐI QUAN HỆ TÔN GIÁO VÀ KINH TẾ ĐẾN KINH TẾ
TÔN GIÁO
Tóm tắt: Từ thập niên 1980, thuật ngữ kinh tế học tôn giáo
(Economics of Religion) mặc dù còn những sự thận trọng nhất
định, nhưng đã được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế và tôn giáo
cho rằng, nó không những trở thành một ngành chuyên biệt
trong nghiên cứu tôn giáo mà còn là một ngành của Kinh tế học
nói chung, bên cạnh những ngành kinh tế cổ điển, như: kinh tế
nông nghiệp, kinh tế thương nghiệp, kinh tế thương mại,… Bằng
cách nhìn lại mối quan hệ giữa tôn giáo và kinh tế, tiếp cận tôn
giáo như một yếu tố xã hội, kết nối các “biến số” của tôn giáo
với các “biến số” của kinh tế, để có thể mường tượng khái niệm
“Kinh tế học tôn giáo” và có thể tìm hiểu tôn giáo sẽ có ảnh
hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế, bài viết này đề cập
đến các nội dung: 1) Đặc điểm và sự biến chuyển mối quan hệ
giữa tôn giáo và kinh tế; 2) Kinh tế học tôn giáo và các yếu tố
của nó; 3) Kinh tế học tôn giáo và sự ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế.
Từ khóa: Kinh tế học tôn giáo (Economics of Religion); các biến
số tôn giáo (Religious Variables); các biến số kinh tế (Economic
Variables; Tăng trưởng kinh tế (Economic Growth); Tính tôn giáo
và thực hành kinh tế (Religiosity and Economic Performance).
1. Mối quan hệ tôn giáo và kinh tế
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa tôn giáo và kinh tế chúng ta cần
lưu ý rằng phê bình tôn giáo về mặt kinh tế là giai đoạn thứ ba của
Marx kể từ năm 1857 qua những tác phẩm: Những cơ sở của sự phê
bình kinh tế chính trị, Góp phần vào phê bình Kinh tế chính trị, và đặc
* Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ngày nhận bài: 5/02/2019; Ngày biên tập: 15/02/2019; Duyệt đăng: 22/02/2019.
4
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019
biệt là tác phẩm nổi tiếng: Tư bản1. Có thể coi Marx thuộc số những
người đầu tiên nhận định rằng, Tôn giáo là sản phẩm của một nền
kinh tế và tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, một yếu tố thuộc về
kiến trúc thượng tầng và tôn giáo chính là sự phản ánh nền kinh tế.
Vấn đề chỉ còn là ở chỗ, sẽ là sai lầm nếu những người kế thừa những
quan điểm ấy của ông chỉ chú trọng vào luận điểm then chốt sản xuất
vật chất, kinh tế quyết định tôn giáo mà quên rằng Marx cũng đã có
lần đề cập quan điểm tôn giáo cũng như những hình thái ý thức xã hội
khác cũng có sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội2.
Cũng do cách hiểu chưa toàn diện về những luận đề của Marx về
tôn giáo, đặc biệt là Luận đề chức năng an ủi của tôn giáo nên mối
quan hệ giữa tôn giáo và kinh tế trong tư duy của Marx dần dần đã
được hiểu một cách thô thiển là Tôn giáo là vật cản của sự phát triển
kinh tế, xã hội và tiến trình khoa học kỹ thuật như nhận xét của Michel
Laillement3. Thực ra, mối tương quan giữa tôn giáo và kinh tế được
đặt ra rất sớm, có lẽ, từ khi Adam Smith viết Sự giầu có của quốc gia
(The wealth of National, 1776). Trong cuốn sách này, lần đầu tiên
Adam Smith đã phát hiện một số khía cạnh thuộc về các nhân tố tôn
giáo trong sự vận động của nền kinh tế, động cơ, sự cạnh tranh, định
hướng lợi nhuận trong hoạt động kinh tế.
Nhưng có thể nói, với tác phẩm Đạo đức Tin lành và tinh thần của
chủ nghĩa tư bản (từ 1904 - 1905), M. Weber đã tạo nên sự khác biệt
căn bản trong cách nhìn nhận mối quan hệ tôn giáo và kinh tế.
Ở thế kỷ XIX, trong khi giới khoa học xã hội tập trung nghiên cứu
xã hội học, nhân chủng học và tất nhiên triết học về tôn giáo thì ở Mỹ
người ta đã tập trung tranh luận mối quan hệ giữa đường lối phát triển
kinh tế và các khuynh hướng thần học, xã hội của các phong trào tôn
giáo. Đỉnh cao của mối quan tâm này chính là nghiên cứu của M.
Weber xung quanh vấn đề Tôn giáo và xã hội4.
Ở thế kỷ XX, hàng loạt các tác phẩm về chủ đề này lần lượt xuất
hiện, như của Greeley (1962) nói về sự cạnh tranh tôn giáo trong lĩnh
vực kinh tế và xã hội. Lần đầu tiên R. Finke và R. Stark đã đưa ra lập
luận về phạm trù “kinh tế tôn giáo” (1992), hoặc Warner (1993) “hiện
đại hóa xã hội ở Mỹ đã đi cùng với sự huy động tôn giáo”. Đặc biệt,
Đỗ Quang Hưng. Từ mối quan hệ tôn giáo và kinh tế…
5
những kết quả khảo sát nghiên cứu gần đây của Pew Forum về Quang
cảnh tôn giáo toàn cầu (2012), trong đó có hàng loạt chỉ số về đời
sống tôn giáo và tăng trưởng kinh tế, v.v...
Như vậy là, khái niệm kinh tế tôn giáo hình thành trên cơ sở thỏa
mãn logic của Marx: làm thế nào để áp dụng mô hình kinh tế theo lối
lập luận của ông cho rằng các tôn giáo luôn luôn là một sản phẩm
của một hệ thống kinh tế nhất định, nhưng đồng thời lại phải thỏa
mãn logic đảo ngược của M. Weber, nền kinh tế tôn giáo hoàn toàn có
thể là một phần nền tảng của cấu trúc kinh tế xã hội?
2. Tiến tới một định nghĩa Kinh tế tôn giáo
2.1. Những người đi tiên phong
Mặc dù khái niệm kinh tế tôn giáo mới ra đời và được công nhận
gần đây (nó khác với những hoạt động kinh tế của một tôn giáo đã có
trong lịch sử), nhưng với giới nghiên cứu thì khái niệm này đã được
thai nghén từ lâu.
Các nhà nghiên cứu tôn giáo và kinh tế thường cho rằng Adam
Smith trong cuốn Sự giầu có của các quốc gia (1776), lần đầu tiên đã
đề cập đến mối quan hệ tôn giáo và kinh tế. Ông cho rằng, các cá nhân
tôn giáo với những hoạt động ngành nghề khác nhau đã dẫn đến các
quy trình thị trường khác nhau. Điều này có vẻ ngày càng “tách biệt”
với đời sống tôn giáo. Dù sao thì những vấn đề như: động cơ trong sản
xuất hàng hóa, định hướng lợi nhuận, sự cạnh tranh đã in dấu “các
nhân tố tôn giáo”. Ý kiến của Adam Smith được Marx thúc đẩy trong
những tư duy Mácxít, đó là sự tiến hóa của nền kinh tế, sự phát triển
của một xã hội luôn dựa trên những nền tảng cơ cấu kinh tế xã hội mà
như chúng ta đã khẳng định ở trên, nó quyết định sự vận hành của tôn
giáo như một hình thái ý thức xã hội, thuộc về kiến trúc thượng tầng
của xã hội,…
Tuy vậy, mối quan hệ của tôn giáo và kinh tế chỉ được quan tâm
thực sự từ nửa sau thế kỷ XX khi mà tôn giáo đã trải qua giai đoạn “bị
gạt sang bên lề của đời sống cá nhân” trước sự thắng thế của Chủ
nghĩa thế tục. Nhưng để có thể xuất hiện khái niệm này, ít nhất cần hai
điều kiện: Thứ nhất, địa vị kinh tế của các tôn giáo phải là “có thực”;
6
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019
Thứ hai, giới nghiên cứu kinh tế và tôn giáo có ý thức, có nhu cầu tìm
kiếm nó trên cơ sở có lý thuyết và phương pháp mới. Người ta nhận
thấy những cơ sở lý thuyết như thế đã dần dần được hình thành từ nửa
sau thế kỷ XX với hai khuynh hướng đó là: Lý thuyết “Sự lựa chọn
duy lý” (Ration Choice Theory in Religion) và Lý thuyết “Mô hình thị
trường” (Market Model).
Như đã nói ở trên, quá trình này thực sự được bắt đầu từ nửa sau
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong đó, có đóng góp nổi bật nhất của hai
nhà xã hội học quan trọng hàng đầu khi họ nghiên cứu căn bản về mối
quan hệ kinh tế và tôn giáo (đã trình bày ở phần trên).
Chúng ta cần dừng lại ở những luận đề của Max Weber có liên
quan trực tiếp đến logic tìm kiếm định nghĩa kinh tế tôn giáo. Với việc
cho rằng, đạo đức tôn giáo và lối sống của con người trong các
phương thức sản xuất, cái nhìn mới về quan hệ tôn giáo và kinh tế:
quy chuẩn tôn giáo (Tin Lành) quan hệ thế nào đến sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản, M. Weber trên thực tế đã cho thấy sự cần thiết phải tìm
hiểu định nghĩa này.
Dưới đây là những nấc thang nghiên cứu tiếp theo đáng chú ý:
G. Simmel: Tôn giáo có tác động gì đến hành vi kinh tế?
(Economic behavior?). Câu hỏi quan trọng này của ông cho thấy
những hệ quả xã hội của tiền bạc là sự tăng trưởng của sự hoán đổi vật
chất như quà tặng (Philosophie des Geldes, 1907) mà điều này luôn có
vai trò của tình cảm tôn giáo. Marcel Mauss còn đi xa hơn trong
hướng nghiên cứu về Lễ tặng quà (potlatch) biểu thị sự tàn phá các
giá trị kinh tế của chiến tranh,….
Ở đây, vai trò của triết học Pháp là rất quan trọng khi đầu thế kỷ
XX, nó đã vượt qua chủ nghĩa phi duy lý triết học mới (Irrationalism)
để phân định rõ hơn các phạm trù kinh tế, tôn giáo và đạo đức. Theo
đó, Georger Bataille (Pháp, năm 1933) đưa ra thuật ngữ “tiêu dùng”
(dépense), xóa dần sự đối lập giữa vật chất và tinh thần, đây là một
nguồn gốc nhận thức của kinh tế tôn giáo.
Pierre Bourdieu (Pháp): Nâng ý kiến của M. Weber về “tôn giáo”
và đời sống xã hội và “các loại vốn” (“vốn xã hội”) và thói quen
Đỗ Quang Hưng. Từ mối quan hệ tôn giáo và kinh tế…
7
(habitus). Qua nghiên cứu về Công giáo, Bourdieu đã thực sự góp
thêm vào định nghĩa “kinh tế tôn giáo” với cái nhìn “vũ trụ luận” về
kinh tế của kinh tế gia đình tiền tư bản (1998). Trong đó ông đề cập
trực tiếp đến mối quan hệ mà chúng ta quan tâm nhất: Người Công
giáo - đi lễ nhà thờ - hoạt động kinh tế.
Mô hình kinh tế thị trường (1970) đến nay, dựa trên lý thuyết xã
hội học Lựa chọn duy lý và Kinh tế tôn giáo (“Mô hình thị trường”),
vượt qua lý thuyết thế tục hóa, nhấn mạnh rằng, khả năng lựa chọn tôn
giáo tùy thuộc khá nhiều vào các yếu tố sau: Nhà nước với các định
chế về thị trường tôn giáo, điều mà chúng tôi sẽ bàn dưới đây; Mức độ
về sự đa dạng tôn giáo; Lý thuyết cung và cầu của thị trường tôn giáo
(như của M. Cleay 2010 hay Stolz 2006).
Peter Beger với nghiên cứu về Tin Lành Mỹ hiện đại và vấn đề thị
trường cạnh tranh giữa các hệ phái (1963); Tiếp theo là một số học giả
khác đã nêu trên từ sau 1975 đến nay đã dẫn đến một kết luận quan
trọng khác: “Tích lũy vốn con người tôn giáo là một lợi ích”. Cho đến
đầu những năm 1980, với sự xuất hiện của Stark và Finke, khái niệm
kinh tế tôn giáo hiện rõ hơn với những luận điểm tôn giáo với những
dạng “không chính thức”, tạo nên sự biến đổi trao đổi xã hội thông
qua sự Lựa chọn duy lý, nhất là sự đền bù ở kiếp sau là một sự hiến
tặng cụ thể được các công ty có liên quan đến tôn giáo thực hiện….
Để tiến tới khái niệm kinh tế tôn giáo, trước thập niên 1980, giới
nghiên cứu đã thấy rõ còn 3 khoảng trống. Thứ nhất, giới nghiên cứu
kinh tế có vẻ như “vẫn còn né tránh” khả năng kinh tế của tôn giáo
quốc gia và khu vực; Thứ hai, các dữ kiện liên quan đến tôn giáo và
kinh tế thường “không chính thức”, trừ những số liệu về hoạt động
nhân đạo, từ thiện; Thứ ba, các nhà kinh tế vẫn chưa đánh giá đúng
quan hệ Đức tin - Kinh tế; Họ cũng không quan tâm đến các mô hình
kinh tế tôn giáo đang phát triển ở nhiều khu vực (Iannaccome, Club
Good Models, 1992). Chúng ta có thể bổ sung nhận định trên rằng, ít
nhất, với nhiều khu vực trên thế giới, bản thân các tôn giáo lớn vì
nhiều lý do chủ quan và khách quan cũng không quan tâm đúng mức
đến vị trí năng lực, đóng góp kinh tế của tôn giáo mình. Có lẽ, trừ
trường hợp Islam giáo,…
8
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019
Chính Iannacome đã góp phần bổ sung nghiên cứu, lấp đầy những
khoảng trống đó. Trong nhiều công trình của ông, các vấn đề cơ bản
tiếp nối được giải quyết, như: tôn giáo và quản lý rủi ro trong đầu tư
và bảo hiểm tài chính và sản xuất của cá nhân; tôn giáo trong quan hệ
giao dịch tiền tệ và dịch vụ. Inanacome đã chỉ ra sự khác biệt giữa 2
loại tôn giáo Đông và Tây: nếu như các Giáo hội Kitô giáo được coi
như những cực đại về lợi nhuận khi tạo ra vốn xã hội, hay nói cách
khác, là sự tạo ra một thị trường tôn giáo cân bằng giữa các Giáo hội
lớn và các hệ phái thì ở các Giáo hội phương Đông có nhiều điểm
khác biệt mà chính ông cũng thận trọng khi kết luận: “Một thị trường
cân bằng tồn tại trong các giáo phái “giá cao” và các Giáo hội giá
thấp”5. Cần nói thêm rằng, khi tiến tới một định nghĩa về kinh tế tôn
giáo, Iannaccome còn có những nghiên cứu về tính nghiêm khắc của
luật lệ tôn giáo, vai trò của các thủ lĩnh cũng như quyền bính của các
giáo hội như một sự đối trọng với các nhà nước thế tục hiện đại.
Gần đây nhất, trong một Tiểu luận nghiên cứu dày dặn của Sriya
Iyer thuộc Đại học Cambridge năm 2015 với tiêu đề Kinh tế mới của
tôn giáo tiếp tục hướng nghiên cứu này trên nhiều bình diện đáng chú
ý. Theo tác giả, hầu hết những nghiên cứu theo lối của Iannccone về
“kinh tế của tôn giáo” thường chỉ tập trung vào “bên cầu”, ưu tiên cho
những người tiêu thụ tôn giáo hoặc “bên cung” theo nghĩa của cấu
trúc các tổ chức tôn giáo. Một khuynh hướng khác là những người
nghiên cứu kinh tế của tôn giáo thường lưu ý đến vai trò của các cá
nhân khi cố gắng giữ đức tin tôn giáo nhưng đồng thời cũng ngày một
quan tâm đến hệ quả xã hội của các tôn giáo qua các thống kê rất chi
tiết về quan hệ kinh tế và tôn giáo. Từ đó, tác giả tiểu luận này đã tập
trung xem xét những nghiên cứu của chính các nhà kinh tế về “kinh tế
của tôn giáo”. Tác giả cũng ý thức rằng, một khó khăn có tính chất
phương pháp phải vượt qua là chỉ ra được biên giới của những khoa
học xã hội nói chung về tôn giáo và công trình của các nhà kinh tế.
Bằng cách tiếp cận cả 2 lối tiếp cận này, kinh tế và phi kinh tế có được
cái nhìn đầy đủ hơn nữa về những sắc thái mới kinh tế của tôn giáo.
Cần nói thêm rằng, theo tác giả, phần lớn các nghiên cứu về kinh tế
của tôn giáo thường tập trung vào các nước phát triển, với các phạm
trù nghiên cứu thực nghiệm với các yếu tố quen thuộc. Nghiên cứu
Đỗ Quang Hưng. Từ mối quan hệ tôn giáo và kinh tế…
9
của Sriya Iyer đã bù đắp những thiếu hụt ấy bằng cách nghiên cứu đầy
đủ hơn các chiều kích xung đột và hợp tác (kể cả chủ nghĩa khủng bố;
sự xung đột giữa thương mại và chính trị; tự do tôn giáo và kinh tế);
kết hợp việc nghiên cứu các yếu tố thương mại, chính trị xã hội với
các dịch vụ xã hội được cung cấp bởi tôn giáo, tôn giáo và tài chính,…
trong một phạm vi rộng lớn hơn của mối quan hệ kinh tế và tôn giáo ở
những nước đang phát triển. Vậy Sriya Iyer quan niệm như thế nào về
kinh tế mới của tôn giáo? Theo tác giả, kinh tế mới của tôn giáo phải
là sự tổng hợp của 4 lĩnh vực tiếp cận: 1) Tôn giáo và nhân chủng học;
2) Tôn giáo, quy trình chính trị, và những tương tác của chúng đối với
các quy trình kinh tế; 3) Các khía cạnh tiếp thị, quản lý giao tiếp của
tôn giáo; 4) Làm thế nào kinh tế của tôn giáo có thể đóng góp cho các
tranh luận rộng hơn về khoa học và tôn giáo?6.
Tóm lại: Khi tiếp cận kinh tế tôn giáo, giới nghiên cứu kinh tế và
nghiên cứu tôn giáo đều nhìn nhận với 3 phương diện:
1) Quan hệ và sự phụ thuộc của tôn giáo với kinh tế (cách nhìn lý
thuyết văn hóa).
2) Kinh tế tôn giáo nhìn từ các lý thuyết kinh tế (chủ nghĩa tư bản,
thị trường tự do).
3) Tôn giáo và hoạt động kinh tế của nó qua công cụ kinh tế học:
đã có một ngành gọi là kinh tế tôn giáo.
2.2. Định nghĩa Kinh tế tôn giáo
Năm 1980, người Mỹ coi kinh tế tôn giáo là một ngành của Kinh tế
học sau các nghiên cứu của Rodney Stark, William S. Brain, and
Roger Finke (cơ sở xã hội học, phương pháp sự lựa chọn duy lý) và
đặc biệt của Iananacome.
Năm 1995 ở Đức, Brukkhard và Gladigow nghiên cứu các điều
kiện về tài chính và kinh tế tôn giáo. Tiêu biểu, vào năm 2004, Anne
Koch (University of Salzburg) trong một nghiên cứu chính diện và
khá đầy đủ đã tiến dần đến một định nghĩa về kinh tế tôn giáo.
Đòi hỏi chung của các nhà nghiên cứu kinh tế và tôn giáo ở thời
điểm này đã rõ ràng. Vai trò kinh tế của các tôn giáo trong xã hội
đương đại ngày một rõ ràng, lớn mạnh khiến cho nhu cầu nhận thức
10
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019
chung về nền “Kinh tế tôn giáo” phải được hiểu như một ngành kinh
tế chuyên biệt trong nghiên cứu về tôn giáo (speciali zation which
Study of Religion) vừa là một ngành của kinh tế học: có thể coi đây là
hai yếu tính cơ bản của kinh tế tôn giáo.
Chúng tôi lựa chọn định nghĩa kinh tế tôn giáo của Laurence
Iannaccone (1998) khi ông lần đầu tiên làm rõ khái niệm Kinh tế tôn
giáo như một bước tiến dài quan trọng. Ông đã nghiên cứu khá toàn
diện các lý thuyết kinh tế, từ kinh tế công, kinh tế thực nghiệm, kinh
tế vĩ mô về tăng trưởng, tất nhiên là cả về lịch sử kinh tế, phát triển
kinh tế với đời sống tôn giáo. Cách tiếp cận toàn diện ấy đã giúp ông
có được những nhận định có tính định nghĩa khái niệm Kinh tế tôn
giáo như sau: “Kinh tế tôn giáo là nghiên cứu sử dụng các công cụ và
phương pháp của kinh tế để nghiên cứu tôn giáo như một biến số phụ
thuộc hoặc để nghiên cứu tôn giáo như một biến số độc lập về những
kết quả kinh tế xã hội khác. Làm việc đó, nó vạch ra những ý tưởng
trong kinh tế công, kinh tế lao động, tổ chức công nghiệp, kinh tế phát
triển và thương mại quốc tế, và sử dụng các công cụ được phát triển
trong cuộc chơi lý thuyết và toán kinh tế. Kinh tế tôn giáo phải được
phân biệt từ cái mà được gọi là “kinh tế tôn giáo” có thể được dùng
các ý tưởng tôn giáo để đưa ra bình luận xã hội về các hệ thống hoặc
các hành vi kinh tế. Kinh tế tôn giáo bản thân nó cũng không quan
tâm đến sự truyền bá thần học và thể chế của các đức tin tôn giáo cá
nhân và khảo sát này sẽ không mạo hiểm bình luận về các chủ đề này.
Không phải rằng đức tin tôn giáo cá nhân là không quan trọng; đơn
giản rằng, với những nhà kinh tế học nó khó đối với chúng ta để bình
luận nó một cách đúng đắn”7.
Thực ra ý tưởng về nền kinh tế tôn giáo đã xuất hiện từ những thập
niên 40 - 50 của thế kỷ XX với ít nhất là nhà Kinh tế học Anh, gốc
Đức Schumacher trong tác phẩm: Small and Beautiful, A Study of
Economics, As if People Mattered (Blond and Briggs, London, 1977).
Từ luận điểm xuất phát: “Tiến bộ kinh tế chỉ có thể có được khi bản
năng tham lam của con người được kích thích và đó là điều phần lớn
các tôn giáo đều muốn chống lại”. Mặt khác, kinh tế chỉ để ý đến giá
trị trên thị trường (Market Value) chứ không chú ý đến giá thực. Giải
Đỗ Quang Hưng. Từ mối quan hệ tôn giáo và kinh tế…
11
quyết mâu thuẫn ấy ông đề xuất khái niệm “Kinh tế học Phật giáo”
(Buddhist Economics), bởi theo ông “Phật giáo không khuyến khích
lòng ham muốn, gia tăng nhu cầu hưởng thụ. Phật giáo khác với
Mácxít, không xem tư hữu là xấu xa vì nó không ít thì nhiều có liên hệ
đến nghiệp báo của từng cá nhân, miễn là lợi tức này làm ra bằng các
phương tiện chính đáng và hợp pháp.…. Có hai yếu tính của kinh tế
Phật giáo là tính giản dị và không bạo động…”8.
Từ định nghĩa Kinh tế tôn giáo nêu trên, chúng tôi rút ra những đặc
tính của “loại hình kinh tế” đặc biệt này như sau: Trước hết, với tư
cách là một thành phần kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, nó gắn chặt
với cơ cấu xã hội, các thể chế và thị trường. Đồng thời, một xã hội
hiện đại, luôn lấy “Lựa chọn hợp lý” làm nền tảng thì nền kinh tế tôn
giáo cũng phải tìm chỗ đứng “hợp lý” trong môi trường kinh tế quốc
gia, khu vực và kinh tế thế giới. Hơn thế nữa, nền kinh tế tôn giáo
không chỉ thích ứng mô hình kinh tế thị trường hội nhập quốc tế mà
còn phải giữ được truyền thống văn hóa tôn giáo (tâm thức dân tộc,
tâm thức tôn giáo tộc người).
3. Kinh tế tôn giáo và sự ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
Mặc dù khái niệm tôn giáo kinh tế đã được khẳng định dần trong
giới nghiên cứu, nhưng trên thực tế, trong giới nghiên cứu kinh tế, tôn
giáo vẫn chịu thách đố trước những câu hỏi phổ biến, như: ở mức độ
vĩ mô, sự phát triển kinh tế trong thế giới toàn cầu hóa vai trò của các
tôn giáo trong lĩnh vực này có đều nhau và cái gì là yếu tố quyết định,
đức tin tôn giáo hay vai trò kinh tế xã hội của các tín đồ? Một câu hỏi
khác, các nước phát triển kinh tế thường đi liền với tính thế tục cao,
trong khi thế giới hiện nay “đang trở nên tôn giáo hơn”, vậy thì, thuyết
thế tục hóa và phát triển kinh tế có còn tương thích? Tương tự như
vậy, ở các xã hội ngoài Âu - Mỹ và là những xã hội phi Kitô giáo thì
các nền kinh tế tôn giáo (nếu có) như trường hợp Islam giáo, Phật
giáo, Ấn giáo,… sẽ được hiểu như thế nào với định nghĩa trên?,…
Đó là chưa kể nền kinh tế tôn giáo của mỗi quốc gia luôn phải
quyết mối quan hệ giữa những “biến số độc lập” và “phụ thuộc” của
mỗi tôn giáo, trong đó có vai trò quan trọng đặc biệt của thể chế nhà
nước. Để có thể làm rõ một phần quan trọng nói trên, chúng tôi sử
12
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019
dụng ý kiến của Sriiya lyre đã nói trên về việc khu biệt 4 lĩnh vực
nghiên cứu của các nhà kinh tế tôn giáo9. Trực tiếp hơn, chúng tôi vận
dụng ý kiến của Anne Koch về hai phương diện tiềm năng kinh tế của
tôn giáo. Thứ nhất, “hoạt động tôn giáo và kinh tế phải được giải thích
trong bối cảnh trong các mẫu hình văn hóa và thể chế. Các mô hình
kinh tế là yếu tố có ý nghĩa quyết định để xem xét hoạt động kinh tế
của các tôn giáo như một thực tại xã hội”. Thứ hai, hoạt động kinh tế
của các tôn giáo “theo ý nghĩa là một hệ thống ý nghĩa giá trị hoàn
thiện, hấp dẫn và rộng rãi thị trường tài chính của thế giới tư bản hiện
nay đã coi ‘tôn giáo thế giới thực sự có vị trí trong thế giới tiền tệ như
một môi giới ẩn dụ, và đức tin tôn giáo trong nhiều trường hợp là cơ
sở của thị trường, có tác dụng điều chỉnh những thị trường dấu tên’….
Thông qua chủ nghĩa tiêu thụ, tôn giáo có vai trò tư vấn, quản lý giữ
đạo đức kinh doanh. Đúng như lịch sử kinh tế được viết như một phần
của lịch sử văn hóa, cũng đã đến lúc phải viết nó như một phần của
tôn giáo toàn cầu”10.
Không chỉ có những nghiên cứu và khảo sát vĩ mô như của B.
Grim, các nhà kinh tế hiện nay còn tiếp tục có những nghiên cứu đức
tin tôn giáo và tăng trưởng kinh tế (Religious Faith and Economic
Growth) có ý nghĩa như thế nào. Nếu như năm 2004, Robert Barro
mới có thể đưa ra nhận định rằng, tương tác giữa tôn giáo và một loạt
các yếu tố chính trị xã hội tuy có khác nhau nhưng chắc chắn “tôn
giáo ngày càng có vai trò quan trọng với thực hành kinh tế thông qua
các tác động của đức tin đến những đặc điểm hoạt động kinh tế như:
đạo đức làm việc, tính trung thực,… và những điều này có thể tạo nên
khuynh hướng khuyến khích năng suất lao động và tăng trưởng kinh
tế”11. Vậy thì, đối với mỗi tôn giáo cụ thể, hiện nay, quan hệ như thế
nào đối với sự tăng trưởng kinh tế? Một nghiên cứu mới đây Hamki
Khalfaoui (2015) thuộc Đại học Tunis El Manar, Tunisia, thông qua
việc nghiên cứu thực nghiệm dữ liệu tôn giáo và kinh tế của 20 nước
Islam giáo (1990- 2014) đã chỉ ra rằng phần lớn các nước Islam giáo
không khuyến khích tăng trưởng kinh tế, nhưng ông rút ra một số
nhận định cụ thể và khá giá trị: i) Các nước Islam giáo nếu có tỷ lệ cư
dân là người Islam giáo càng cao thì mức phát triển kinh tế càng thấp;
ii) Điều kiện xã hội luôn là quan trọng. Tác động tiêu cực của Islam
Đỗ Quang Hưng. Từ mối quan hệ tôn giáo và kinh tế…
13
giáo lên tăng trưởng kinh tế sẽ càng tăng nếu các nước Islam giáo ấy
chịu tác động mạnh của nạn mù chữ, thất nghiệp. Ngược lại, ở các
nước “Islam giáo vàng” thuộc đế chế Ottoman và Abbasid thì khả
năng Islam giáo gắn kết xã hội và tăng trưởng kinh tế tốt hơn; iii)
Kinh Koran có những ý tưởng về thúc đẩy phát triển kinh tế (việc làm,
kiến thức, làm giầu,…) nhưng vẫn song hành tình trạng kém phát triển
của những cộng đồng Islam giáo cực đoan trong sự “thối ruỗng trong
bản thân” cộng đồng Islam giáo ấy12.
Mối quan hệ tôn giáo và kinh tế cũng như vai trò của Kinh tế tôn
giáo trong thế giới hiện nay diễn ra với nhiều chiều kích mới mẻ,
phong phú hơn rất nhiều so với những biểu hiện quen thuộc, đơn giản
của mô hình “tôn giáo làm từ thiện”. Ngày nay, Kinh tế tôn giáo
không chỉ là một thành phần kinh tế mà còn có nhiều dạng thức hoạt
động chưa từng có trong một thế giới mà xu hướng xung đột và hợp
tác luôn đi liền với nhau. Phần lớn, các nghiên cứu về kinh tế tôn giáo
hiện nay thường tập trung trong các nước phát triển. Người ta tỏ ra
quan tâm không chỉ vì sự xung đột và hợp tác trong phát triển xã hội
nảy sinh rất nhiều bởi yếu tố tôn giáo mà còn lan tới yếu tố phát triển
kinh tế, v.v…
Vậy điều kiện nào để kinh tế tôn giáo có khả năng tham gia phát
triển kinh tế?
Đối với xã hội, khả năng kích thích kinh tế, xã hội của tôn giáo còn
ở chỗ nhiều tôn giáo có khả năng cung ứng những dịch vụ tâm linh,
giá trị đạo đức và an ninh sinh tồn cho những cộng đồng ngoài tôn
giáo của nó.
Không phải mọi tôn giáo đều có khả năng kích thích tăng trưởng
kinh tế, xã hội. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào việc chủ thể tôn giáo
và nhà nước có khả năng khuyến khích những mặt tích cực, khắc phục
những mặt hạn chế của chúng. Ở đây có vai trò quyết định của môi
trường luật pháp, khả năng gắn kết cộng đồng, chính sách kinh tế xã
hội và đặc biệt chính sách tôn giáo.
Kết luận
Đã có thể khẳng định, sự tăng trưởng kinh tế (economic growth)
ngày nay, chắc chắn có sự tác động của yếu tố tôn giáo. Tăng trưởng
kinh tế không chỉ bởi các biến số kinh tế, yếu tố chính trị xã hội mà phải
14
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019
tính đến việc các tôn giáo là một nguồn lực từ vốn xã hội đến truyền
thống, tính cách dân tộc, tư duy, lối sống và phương pháp sản xuất.
Mối quan hệ giữa tôn giáo và sự phát triển (rộng hơn sự tăng
trưởng kinh tế) ngày nay càng không thể tách rời vì lý do: các ý niệm
tôn giáo hướng các tín đồ vào đời sống và khích lệ những hoạt động
hữu ích, tạo nên một lực lượng xã hội có khả năng kích thích tăng
trưởng kinh tế xã hội, đồng thời còn có khả năng tích lũy đầu tư như
một ngành kinh tế “độc lập”. /.
CHÚ THÍCH:
1
2
3
Quan điểm xã hội học về tôn giáo của Marx trải qua 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ
nhất, giai đoạn phê bình có tính triết học về tôn giáo (1841 - 1844). Giai đoạn
thứ hai, thời kỳ Marx chuyển sự phê bình tôn giáo sang địa hạt trực tiếp (1845 -
1856) và Giai đoạn thứ ba, sau năm 1857, phê bình tôn giáo về mặt kinh tế. Giai
đoạn thứ 3 là đáng chú ý nhất đối với nghiên cứu này. Xem: Đỗ Quang Hưng
(2009), “Tôn giáo và Kinh tế: Từ Marx đến Weber”, Khoa học xã hội, số 6.
Thực ra, chỉ những thập niên gần đây những nhà nghiên cứu Macxit trong và
ngoài nước mới chú ý đến chiều kích ngược lại này. Nhiều thập niên trong thời
kỳ Chiến tranh Lạnh, khi những quan điểm tả khuynh về tôn giáo còn khá phổ
biến trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, người ta thường bỏ qua ý
kiến này của Marx và chỉ nhấn mạnh đến “thực tại kinh tế - xã hội” nói chung
trong sự hình thành và phát triển tôn giáo.
Xem: Chủ nghĩa Mác sau Mác trong cuốn Michel Lallement, Histoire de idees
sociologiques des origines à Weber, tr. 94 - 95. Ở Việt Nam, đặc biệt từ trước năm
1975, tại miền Nam có rất nhiều cuốn sách chỉ trích quan điểm, chính sách tôn giáo
của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó đa số họ cũng lợi dụng vấn đề này để “kết
tội” những người Mácxít không những là những người “tam vô” (vô Tổ quốc, vô
gia đình, vô tôn giáo) mà còn là những người không biết coi trọng các giá trị về
đức tin, tâm linh, đạo đức và lối sống tôn giáo trong sự phát triển kinh tế
Vấn đề này chúng tôi tham khảo cuốn: Max Weber, Economie et socie’te, 1995,
Paris, Ed. Plon, trang 146 - 165. Ngoài ra, có thể tham khảo thêm M. Weber
trong: Tôn giáo Trung Hoa (1913), Tôn giáo Ấn Độ (1916).
Ẩn ý của Iannacome là sự hiểu biết của chúng ta về các giáo phái, giáo hội trong phát
triển kinh tế hiện nay như thế nào. Tác giả bài viết trên (được đang tải trên Journal of
Economic Politics, với ý tưởng tôn giáo qua các Mô hình Câu lạc bộ đã thể hiện ý
tưởng về khả năng sản xuất, các hình thức tổ chức sản xuất “tiềm ẩn” và sự tiêu thụ
tôn giáo. Gần đây, có một số nghiên cứu như của McBride, 2007, đã phát triển
nghiên cứu trên của Iannacome khi ông cho rằng “một ‘Câu lạc bộ’ là cách để các
tôn giáo chia sẻ những kinh nghiệm về chi phí sản phẩm, hợp tác giữa các thành
viên trong sản xuất theo nguyên tắc hướng thiện cũng như chia sẻ lợi ích”.
Sriya Iyer (2015), The New Economics of Religion, University of Cambridge and
IZA, Bonn, Gernamny.
4
5
6
7
Xem: L. Ianaccome (1998), Journal of Economic Literature, hoặc Ianacome L.
R. and Berman, “Religiuos Extremism: The God, the Bad, and The Deadly”,
Đỗ Quang Hưng. Từ mối quan hệ tôn giáo và kinh tế…
15
Public Choice 128 (1), pp. 109 - 129, 2006. Nhờ những nghiên cứu như của
Iannaccome, Kinh tế học tôn giáo đã có mã số nghiên cứu riêng như một chuyên
ngành (JEL), dù đến nay vẫn chưa có tạp chí riêng. Điều này phản ánh thực tế là
nghiên cứu trong các mối quan tâm của kinh tế học tôn giáo với các lĩnh vực
khác trong kinh tế như kinh tế lao động, kinh tế công và tổ chức công nghiệp,
cũng như bên ngoài kinh tế như trong xã hội học và khoa học xã hội chính trị.
Khi các tác giả có thể công bố công trình của họ ở một loạt các nơi, điều này
thường gây khó khăn đối với một nhà nghiên cứu lĩnh hội một khả năng nắm bắt
toàn bộ tài liệu trong kinh tế học tôn giáo.
8
9
Xem: Quán Như (1996), “Kinh tế Phật giáo”, trong Phật giáo trong thế kỷ mới,
tập 1, Giao điểm, Hoa Kỳ, tr. 239 - 243.
Sriya Iyer (2015), The New Economics of Religion,… ibid.
10 Ana Knock (2015), “Economics of Religion”, VSR, University of Salzburg, in:
R. Segal, K. von Stuckrad (Red.) Vocabulary for Study of Religion, Vol. 1-3,
VRS, Leiden.
11 R. Barro, R. M. McCleary (2006), Religion and Economy, Journal of Econocic
Perspectives, Volume 20, Number 2, Spring, pp. 49 - 72.
12 Xem: Hamdikhalfaui (2015), Islame and economic growth, International
Journal of Social Sciences Studies, Vol. 3, No. 6, November.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alles G. (2009), “Religious Econnomies and Rational Choice: On Rodney Strak
and Roger Finke’s Acts of Faith 2000”, in M. Stausberg (ed), Contemprorary
Theories of Religion, London.
2. Barro R., McCleary R. M. (2003), “Religion and Economic Growth Across
Countries”. American Sociological Review, 68 (5), pp. 760 - 781.
3. Bateman, Bradley W. and Ethan B. Kapstien (1999), “Between God and the
Market: The Religuos Roots of the American Economic Association”, Journal of
Economic Prespectives 13 (4), Fall, pp. 249 - 257.
4. Berger P. L. (1963), “A Market Model for the Analysis of Ecumenicity”, Social
Research 30 (1), pp. 77-93.
5. Buordieu P. (1994), “The Economy of Symbolic Goods”, in Practical Reason:
On the Theory of Action, Cambridge.
6. Iannaccome L. R. (1994), “Rational Choice: Framework for the Social Scientific
Study of Religion”, in L. A. Young (ed), Rational Choice Theory and Religion,
New York, pp. 24 - 25.
7. Iannaccome, L. R., and E. Berman (2006): “Religion Extremism: The Good, The
Bad, and the Deadly”, Public Choice, 128 (1), pp. 109 - 129.
8. Inglehart R., and P. Norris (2004), Sacred and Secular: Religion and Politics
Worldwide, New York.
9. Koch A. (2014), Partyly Annotated Bibliography of Economics of Religion,
Open access University of Munich, http://epub.ub.uni.-muenchen.de/12437/, Iast
update: Feb.
10. Kolm, S., and J. M. Ythier (eds) (2006), Handbook of Economies of Giving,
Altruism and Reciprocity I, Amsterdam.
11. Michel Lallement (1993), Histoire des ide’es sociologique des origines à Weber,
Nathan, Paris.
16
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019
12. Max Weber Economies et sociologique (bản dịch tiếng Pháp).
13. Max Weber (2010), Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản
(Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang dịch), Nxb.
Tri thức, Hà Nội.
14. Nguyễn Đức Sự (2005), Mác - Ăngghen - Lênin về tôn giáo, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
15. Widmer, Andreas (2012), Ministering to the Pioneers of Prosperity, in Free
Markets and the Culture of the Common Good, edited by Martin Schlag and Juan
Andre’s Mercado, London: Springer, pp. 167 -176.
16. Woodberry, Robert (2013), Pentecostalism, edited by Donald E.Miller, Kimon
H. Sargeant and Richard Flory, Oxford: Oxford University Press, pp. 119 - 137.
17. Young, Stephen (2003), Moral Capitalism: Reconciling Private Capitalism with
the Public Good, San Fracisco: Berrtt - Konehler.
18. Ziai, Aram (ed) (2007), Exploring Post - Deverlopmen: Theory and Practice,
Problem and Perspectives, London: Routledge.
Abstract
FROM THE RELATIONSHIP BETWEEN RELIGION AND
ECONOMY TO ECONOMICS OF RELIGION
Do Quang Hung
Vietnam National University, Hanoi
Since the 1980s, although there has been caution, many economic
and religious researchers have stated that the term of “Economics of
Religion” did not only became a specialized discipline in research on
religion but it is also a discipline of Economics in addition to
agricultural economics, commercial economics, etc. Through
exploring the relationship between religion and economy, approaching
religion as a social element, connecting the “variables” of religion
with the “variables” of the economy, to be able to determine the
concept of “Economics of Religion” and how religion affects
economic growth, this article indicates the following contents: 1)
Characteristics and the transformation of relationships between
religion and economy; 2) Economics of Religion and its elements; 3)
Economics of Religion and its influence on economic growth.
Keywords: Economics of Religion; Religious Variables; Economic
Variables; Economic Growth; Religiosity and Economic Performance.
Bạn đang xem tài liệu "Từ mối quan hệ tôn giáo và kinh tế đến kinh tế tôn giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
tu_moi_quan_he_ton_giao_va_kinh_te_den_kinh_te_ton_giao.pdf