Xu hướng đào tạo nhân lực trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vấn đề đặt ra với các trường Đại học Việt Nam

XU HƯỚNG ĐÀO TẠO NHÂN LỰC TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0  
VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM  
ThS. Ngô Thị Mai1  
Tóm tắt: Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra có tác động sâu và rộng tới cung, cầu, cơ cấu lao động cũng  
như yêu cầu công việc. Đây là cơ hội cho Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa  
nhưng cũng là thách thức vô cùng lớn, đặc biệt là trong công tác đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự  
thay đổi. Trong đó các trường đại học - chủ thể trực tiếp thực hiện công tác đào tạo - có vai trò quan trọng  
trong việc tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao cho xã hội.  
Trong bài viết này tác giả tập trung phân tích xu hướng dịch chuyển nhân lực, nhu cầu đào tạo nhân lực và  
phương thức đào tạo nhân lực trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trên cơ sở đánh giá thực  
trạng đào tạo đại học ở Việt Nam, từ đó đề xuất những thay đổi cần thiết đối với các trường đại học trong  
công tác đào tạo trong kỷ nguyên số.  
Từ khóa: Đào tạo nhân lực, cách mạng công nghiệp 4.0, cơ sở đào tạo.  
Abstract: Fourth industrial revolution takes place with deep and wide impact on supply, demand, labor  
structure as well as job requirements. This is an opportunity for Vietnam to accelerate the process of  
industrialization and modernization, but it is also a great challenge, especially in the human resources  
training to meet the requirements of change. In which universities are the subjects directly implementing the  
education and training, playing an important role in creating high quality human resources for the society.  
In this article, the author focuses on analyzing the trend of manpower movement, the training demand and the  
training method in the context of the fourth industrial revolution. The author also assesses the status of higher  
education in Vietnam, then propose the necessary changes for universities in the training in the Digital era.  
Keywords: Human resource training; fourth industrial revolution; university training.  
1. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện đang phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng tác động tới tất  
cả mọi ngành nghề, lĩnh vực hoạt động. Sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra sự  
chuyển dịch cơ cấu lao động, từ những ngành thâm dụng tài nguyên, lao động giản đơn sang các  
ngành đòi hỏi hàm lượng tri thức, khoa học công nghệ và giá trị gia tăng cao, từ đó gia tăng năng  
suất lao động, hiệu quả sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh. Để thực hiện cuộc cách mạng công  
nghiệp 4.0 cần có đội ngũ nhân lực 4.0. Sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng công nghệ giúp  
tự động hóa nhiều khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này đòi hỏi nhân lực phải có  
đủ kiến thức và kỹ năng mà máy móc không thể thay thế được để vận hành, quản lý hệ thống sản  
1
Email: ngomai0610@gmail.com, Khoa Quản trị nhân lực, Trường Đại học Thương mại.  
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP  
647  
xuất, kinh doanh mới dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật.  
Ngoài ra tác động từ việc Việt Nam đã và đang ký kết, gia nhập nhiều hiệp định thương mại tự do  
song phương và đa phương thế hệ mới dẫn đến nhu cầu về “nhân lực chất lượng cao không chỉ đáp  
ứng tiêu chuẩn trong nước, mà cần phải tính tới những tiêu chuẩn và yêu cầu của thị trường nước  
ngoài”, Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh nhận định. Tương lai sẽ có sự thay đổi lớn giữa  
cung, cầu, cơ cấu lao động. Nhiều lĩnh vực, số lượng nhân lực ở nhiều vị trí công việc giảm mạnh  
do nhiều công việc biến mất, nhưng cũng nhiều lĩnh vực sẽ xuất hiện nhiều công việc mới.  
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng  
nhiều nhất từ cách mạng công nghiệp 4.0. Nguồn nhân lực nhìn chung chất lượng còn thấp, năng  
suất lao động thấp hơn nhiều nước trong khu vực ASEAN.  
Bảng 1: Lực lượng lao động Việt Nam năm 2017 phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật  
Đơn vị: nghìn người  
Trình độ chuyên môn kỹ thuật  
Đại học trở lên  
Số lượng  
5,264.48  
1,567.03  
2,110.85  
2,957.68  
42,867.23  
54,767.25  
Tỷ lệ (%)  
9.61  
Cao đẳng chuyên nghiệp  
Trung cấp chuyên nghiệp  
Dạy nghề từ 3 tháng trở lên  
Không có trình độ chuyên môn kỹ thuật  
Tổng  
2.86  
3.86  
5.40  
78.27  
100  
Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động việc làm quý 4/2017  
Diễn đàn Kinh tế thế giới đã chỉ ra trong báo cáo về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong  
tương lai, Việt Nam xếp thứ 70/100 về nguồn nhân lực, 81/100 về lao động có chuyên môn cao,  
80/100 về chất lượng đào tạo nghề và thuộc nhóm các quốc gia chưa sẵn sàng cho cách mạng 4.0,  
chỉ xếp hạng gần tương đương Campuchia.  
Bảng 2: Thứ hạng các yếu tố “Động lực sản xuất” của Việt Nam và các nước ASEAN  
Singapore Malaysia Thailand Philippines Vietnam Indonesia Cambodia  
Công nghệ và sáng tạo  
Nguồn nhân lực  
Thương mại và đầu tư  
Thể chế  
6
2
23  
21  
7
41  
53  
20  
51  
49  
28  
59  
66  
69  
76  
69  
45  
90  
70  
13  
53  
87  
39  
61  
55  
61  
69  
94  
15  
83  
86  
1
79  
1
30  
60  
17  
100  
90  
Nguồn lực bền vững  
Môi trường  
56  
14  
75  
Nguồn: World Economic Forum (2018), Readiness for Future of Production Report 2018  
Do đó, bài toán đào tạo nhân lực hiện nay là vô cùng cấp bách. Đào tạo nhân lực trong kỷ  
nguyên số là thách thức không hề nhỏ cho các trường đại học. Đầu ra của đào tạo đại học đang  
thừa về số lượng nhưng thiếu về chất lượng, đặc biệt với một số công việc có xu hướng gia tăng số  
lượng trong tương lai thì hiện tại cũng chưa đáp ứng đủ. Vì vậy đào tạo đại học cần chủ động thích  
ứng, thay đổi về nội dung, phương thức đào tạo phù hợp để kịp thời chuyển mình đón nhận sự thay  
đổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 giúp giảm khoảng cách cung - cầu lao động.  
648  
QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0  
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, thu  
thập các dữ liệu thứ cấp thông qua các nguồn tài liệu như sách, bài báo, các số liệu thống kê đã  
được xuất bản, các báo cáo tổng hợp của các tổ chức, cơ quan quản lý có liên quan, từ ý kiến của  
các chuyên gia và các nhà quản trị doanh nghiệp nhằm làm rõ xu hướng dịch chuyển nhân lực, xu  
hướng nhu cầu đào tạo nhân lực cũng như phương thức đào tạo nhân lực trong thời gian tới, đánh  
giá thực trạng đào tạo nhân lực ở các trường đại học của Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị  
đối với các cơ sở đào tạo của Việt Nam trong công tác đào tạo trong bối cảnh mới.  
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC  
Đào tạo nhân lực là hoạt động không thể thiếu trong bất kỳ tổ chức/doanh nghiệp nào. Hiện  
nay có nhiều cách hiểu về đào tạo nhân lực.  
Reynolds (2004) đã chỉ ra, đào tạo có vai trò bổ trợ thúc đẩy việc học tập, mô hình đào tạo  
thông thường có xu hướng nhấn mạnh vào kiến thức chuyên môn.  
Theo MichaelArmstrong, Stephen Taylor (2017), đào tạo là việc sử dụng các hoạt động hướng  
dẫn có hệ thống và có kế hoạch để thúc đẩy học tập, được sử dụng trong các trường hợp như:  
- Kiến thức hoặc kỹ năng có được thông qua quá trình làm việc hoặc bằng cách tự học chưa  
đáp ứng yêu cầu công việc.  
- Một số người cần có các kỹ năng khác nhau, cần phải được phát triển nhanh chóng để đáp  
ứng nhu cầu mới và không thể đạt được bằng cách dựa vào kinh nghiệm.  
- Các nhiệm vụ được thực hiện rất chuyên biệt hoặc phức tạp đến mức mọi người khó có thể  
hoàn thành chúng dựa trên năng lực sẵn có.  
- Khi một nhu cầu đào tạo là cần thiết chung cho một số người để đáp ứng yêu cầu công việc,  
có thể dễ dàng được cung cấp thông qua chương trình đào tạo, ví dụ kỹ năng công nghệ thông tin  
thiết yếu, kỹ năng giao tiếp…  
Các tác giả Vũ Thùy Dương, Hoàng Văn Hải (2010) cho rằng đào tạo và phát triển nhân lực  
là quá trình cung cấp các kiến thức, hoàn thiện các kỹ năng, rèn luyện các phẩm chất nghề nghiệp  
cho người lao động trong doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu trong quá trình thực hiện công việc  
của họ ở cả hiện tại và tương lai.  
Do đó có thể hiểu đào tạo nhân lực là quá trình cung cấp kiến thức, kỹ năng và phẩm chất nghề  
nghiệp cho người lao động để họ thực hiện tốt công việc được giao.  
Đào tạo nhân lực có vai trò quan trọng, giúp bù lấp khoảng trống giữa năng lực hiện tại của  
nhân lực và yêu cầu công việc, giúp họ thực hiện tốt công việc được giao với năng suất và hiệu  
quả cao hơn. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt cũng như sự thay đổi nhanh của môi  
trường kinh doanh, công tác đào tạo giúp chuẩn bị được nguồn nhân lực thích ứng nhanh, phù hợp  
với nhu cầu sử dụng tổ chức/doanh nghiệp, từ đó đạt được mục tiêu, chiến lược của tổ chức/doanh  
nghiệp. Các tổ chức/doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động đào tạo sẽ có lợi thế trong tuyển dụng, thu  
hút được nhiều nhân lực hơn so với các đối thủ cạnh tranh cung cấp ít cơ hội để cải thiện năng lực  
cho người lao động, đồng thời giúp người lao động thỏa mãn và gắn bó, trung thành hơn.  
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP  
649  
Cũng theo Michael Armstrong, Stephen Taylor (2017), hệ thống đào tạo nhân lực nên được  
thiết kế, lên kế hoạch, thực hiện và đánh giá để đáp ứng nhu cầu xác định. Quá trình đào tạo được  
thực hiện bao gồm bốn giai đoạn đơn giản: Xác định nhu cầu đào tạo; Quyết định loại đào tạo nào  
là cần thiết để đáp ứng những nhu cầu này; Sử dụng giảng viên có kinh nghiệm và được đào tạo để  
thực hiện đào tạo; Theo dõi và đánh giá đào tạo để đảm bảo tính hiệu quả.  
Xác định nhu cầu đào tạo  
Xây dựng kế hoạch đào tạo  
Phương pháp  
Trang thiết bị  
Địa điểm  
Giảng viên  
Triển khai đào tạo  
Đánh giá đào tạo  
Hình 1: Quy trình đào tạo nhân lực  
Nguồn: Michael Armstrong, Stephen Taylor (2017)  
Xác định nhu cầu đào tạo có vai trò tiên quyết đối với chất lượng đào tạo nhằm trả lời câu hỏi  
đào tạo ai, đào tạo nội dung gì. Đây là cơ sở để xây dựng kế hoạch đào tạo nhằm đưa ra quyết định  
lựa chọn giảng viên, phương pháp đào tạo phù hợp cũng như địa điểm và cơ sở vật chất, trang thiết  
bị cần thiết, từ đó đưa vào triển khai. Đánh giá đào tạo giúp nhìn nhận những kết quả đạt được của  
quá trình đào tạo cũng như đưa ra những điều chỉnh cần thiết.  
Quá trình đào tạo có thể được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, trong đó các trường đại  
học đóng vai trò vô cùng quan trọng, giúp tạo ra đầu vào về nhân lực phù hợp với nhu cầu sử dụng  
của các tổ chức/doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở,  
trường đại học là một cơ sở giáo dục đại học hay một phần của một viện đại học. Thông qua hoạt  
động giảng dạy, trường đại học cung cấp kiến thức, kỹ năng làm nền tảng cho quá trình thực hiện  
công việc sau này của người học, là cơ sở để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xã hội. Thông  
qua tổ chức các hoạt động đoàn thể, nghiên cứu khoa học, đào tạo trong trường đại học là cái nôi,  
tạo môi trường để bồi dưỡng nhân tài, hình thành lực lượng lao động có tri thức cao, làm chủ kỹ  
năng nghề nghiệp, có tinh thần sáng tạo, đổi mới, khởi nghiệp.  
Ba thành phần của một khóa đào tạo có tương tác ảnh hưởng lẫn nhau bao gồm: giảng viên,  
người học và chính khóa đào tạo.  
650  
QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0  
Người học:  
- Công vic  
- Năng lực  
Bối cảnh  
cuộc cách mạng  
công nghiệp 4.0  
Khóa đào tạo:  
- Ni dung  
- Hình thức  
Giảng viên:  
- Chuyên môn  
- Phương pháp  
-
Cơ sở
v
t ch
t  
Hình 2: Các thành phần tương tác trong khóa đào tạo  
Nguồn: Tổng hợp của tác giả  
Công việc tương lai của người học là cơ sở xác định chuẩn đầu ra về năng lực của ngành  
nghề đào tạo. Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động trực tiếp đến sự thay đổi về công việc tương lai  
cũng như những năng lực cần có của người lao động. Đây là cơ sở để các trường đại học thay đổi  
thiết kế nội dung chương trình giảng dạy cho phù hợp, lựa chọn hình thức đào tạo có hiệu quả, gắn  
với đó là chuẩn bị về cơ sở vật chất cũng như đội ngũ giảng viên vững về chuyên môn cũng như  
giỏi về phương pháp nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo.  
3. XU HƯỚNG ĐÀO TẠO NHÂN LỰC TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0  
Về xu hướng dịch chuyển nhân lực  
Giáo sư Klaus Schwab (2017) đã nêu rõ, chúng ta đang ở giai đoạn giữa của cuộc cách mạng  
công nghiệp 4.0. Nó kéo theo 5 xu hướng trong sản xuất. Thứ nhất là sản xuất 360° với công cụ  
sáng tạo và kiểm định tình huống trong thế giới ảo, ví dụ sử dụng mô hình mô phỏng với kính thực  
tế ảo để huấn luyện phi công trước khi lái thực tế để tránh rủi ro. Thứ hai là công nghệ in 3D, giúp  
tăng năng suất và nâng cấp thiết kế của sản phẩm, thay vì cần 6 miếng ghép thì công nghệ in 3D có  
thể thực hiện chỉ một lần mà không cần thêm bước hàn hoặc đinh vít. Thứ ba là sản xuất tự động,  
giúp tăng độ chính xác cũng như năng suất, đặc biệt là các công việc không an toàn với con người.  
Thứ tư là xây dựng các nhà máy thông minh – sử dụng công nghệ điện toán đám mây và cảm biến  
thông minh, giúp chuyển đổi dữ liệu, kết nối với các máy móc khác, thống kê lưu trữ, phản hồi.  
Thứ năm là sử dụng robot trong sản xuất, kinh doanh. Sự thay đổi này sẽ tác động làm thay đổi lớn  
đến cung – cầu lao động, cơ cấu lao động và bản chất việc làm.  
Dự báo đến năm 2028, lao động trong các ngành nghề thuộc 6 nền kinh tế phát triển nhất trong  
khu vựcASEAN (ASEAN 6) có khả năng sẽ bị thay thế bởi robot, trí tuệ nhân tạo theo Cisco đã chỉ  
ra trong Báo cáo về Công nghệ và tương lai của các ngành nghề ASEAN năm 2018, và sẽ sản xuất  
được khối lượng sản phẩm tương đương hiện tại mà không cần sử dụng 28 triệu lao động. Lĩnh  
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP  
651  
vực nông nghiệp chịu tác động nhiều nhất, dự báo có 6,6 triệu lao động dư thừa vào năm 2028.  
Việt Nam được dự báo sẽ có khoảng 7,5 triệu người mất việc làm hoặc phải thay đổi công việc vào  
năm 2028, tương ứng với 13,8% lực lượng lao động. Phần lớn những công việc này được đánh giá  
là đơn điệu và năng suất thấp, chủ yếu là trong lĩnh vực nông nghiệp.  
Những lĩnh vực hoạt động dựa vào lao động thủ công, những ngành nghề gắn với quá trình  
tự động hóa cũng sẽ bị ảnh hưởng với xu hướng dịch chuyển từ sản xuất thâm dụng lao động sang  
thâm dụng tri thức và công nghệ.  
Mặt khác, giá thành sản phẩm sẽ giảm và thúc đẩy tăng trưởng ở các lĩnh vực khác, do đó  
gia tăng số lượng việc làm trong lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, sản xuất, xây dựng, vận tải… Với các  
ngành thương mại, nhu cầu việc làm tăng nhưng với định hướng áp dụng công nghệ nhiều hơn, và  
một số công việc cũng sẽ giảm số lượng lao động như thu ngân hay bộ phận kho,…  
Báo cáo trên đã dự báo một kịch bản trong 10 năm tới chỉ có 40% công việc mới được tạo ra  
trong lĩnh vực sản xuất, số còn lại sẽ xuất hiện trong lĩnh vực dịch vụ. Trong đó, theo Diễn đàn  
Kinh tế thế giới (2018), các công việc đóng vai trò mới, nổi lên ở Việt Nam trong thời gian tới bao  
gồm: chuyên viên bán hàng và tiếp thị; Nhà phân tích dữ liệu và nhà khoa học; Giám đốc điều  
hành; Nhà phát triển và phân tích ứng dụng và phần mềm; Đại diện bán hàng, bán buôn và sản  
xuất; Sản phẩm khoa học kỹ thuật; Tổng giám đốc điều hành; Chuyên viên nhân sự; Cố vấn tài  
chính và đầu tư; Chuyên viên phân tích tài chính; Công nhân lắp ráp và nhà máy.  
Về năng lực yêu cầu  
Khi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thay đổi, tính chất các công việc thay  
đổi thì các năng lực cần thiết đối với người lao động cũng sẽ thay đổi. Theo báo cáo của Cisco  
(2018), người lao động ở ba quốc gia Philippines, Việt Nam và Malaysia phải đối mặt với việc  
thiếu những kỹ năng quan trọng nhiều nhất. Người lao động bị mất việc do thiếu những kỹ năng  
quan trọng này. Nghiên cứu cho thấy 41% trong số 6,6 triệu lao động ngành nông nghiệp sẽ dư  
thừa do thiếu các kỹ năng công nghệ thông tin theo yêu cầu của các công việc mới. Sự gia tăng  
nhu cầu nhân lực đối với lĩnh vực bán buôn và bán lẻ ở ba quốc gia này sẽ tạo ra cơ hội cho người  
lao động, nhưng các vị trí này cũng đòi hỏi các kỹ năng khác so với các ngành khác, đặc biệt là  
về quản lý và ra quyết định, dịch vụ khách hàng và đàm phán. Gần 30% người lao động thiếu “kỹ  
năng tương tác” cần thiết đối với các vị trí tuyển dụng trong tương lai, chẳng hạn như kỹ năng  
thương lượng, thuyết phục và dịch vụ khách hàng. Chỉ hơn 25% thiếu “các kỹ năng cơ bản” như  
các kỹ năng học tập, đọc và viết thành thạo.  
Theo thống kê của Bộ Lao động và Thương binh xã hội, giai đoạn 2017 – 2025, hằng năm lực  
lượng lao động Việt Nam tăng trung bình 1,28%, tương ứng 723.000 người/năm, tổng quy mô ước  
đạt 62 triệu người năm 2025. Nhưng năm 2016, trong tổng số 55,54 triệu lao động cả nước, chỉ có  
hơn 11,21 triệu lao động đã qua đào tạo, tương ứng 20,6%. Đặc biệt, lao động được đào tạo trong  
các ngành kỹ thuật, công nghệ cao còn chiếm tỷ trọng thấp.  
Hiện nay, hầu như các doanh nghiệp đều khan hiếm nhân lực có thể quản trị, vận hành và ứng  
dụng các tiến bộ công nghệ liên quan tới trí tuệ nhân tạo, Internet kết nối vạn vật, in 3D,… Điều  
này đặt ra cả cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi số, đặc biệt  
là trong đào tạo và phát triển nhân lực đáp ứng nhu cầu sử dụng. Ông Trần Anh Tuấn, Phó giám  
652  
QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0  
đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh  
cho biết có 5 nhóm ngành sẽ phát triển trong xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.  
Dẫn đầu là nhóm ngành công nghệ thông tin (phân tích dữ liệu, kỹ thuật phần mềm, an ninh mạng,  
....) và công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh tài chính và nhiều lĩnh vực khác. Thứ hai  
là công nghệ tự động hóa (cơ điện tử, điện tử, điều khiển tự động, chế tạo ôtô, chế tạo vật liệu…).  
Thứ ba là các ngành kỹ thuật xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp, năng lượng, công  
nghệ in 3D. Thứ tư là các ngành thuộc lĩnh vực công nghệ sinh học, công nghệ chế biến, kỹ thuật  
y sinh (tích hợp kỹ thuật số - vật lý - sinh học)… Thứ năm là nhóm ngành quản trị, dịch vụ quản  
trị tài chính - đầu tư, logictis, du lịch, dinh dưỡng...; và nhóm ngành nghệ thuật, xã hội, nhân văn  
và sáng tạo (như kiến trúc, thiết kế, dịch thuật...).  
Bảng 3: Xu hướng kỹ năng cần có năm 2022  
2018  
Tư duy phân tích và đổi mới  
Giải quyết vấn đề phức tạp  
2022  
Tư duy phân tích và đổi mới  
Chiến lược học tập và học tập tích cực  
Sáng tạo, độc đáo và chủ động  
Thiết kế và lập trình công nghệ  
Tư duy phê phán và phân tích  
Giải quyết vấn đề phức tạp  
Lãnh đạo và ảnh hưởng xã hội  
Trí tuệ cảm xúc  
Tư duy phê phán và phân tích  
Chiến lược học tập và học tập tích cực  
Sáng tạo, độc đáo và chủ động  
Chú ý đến chi tiết, đáng tin cậy  
Trí tuệ cảm xúc  
Lý luận, giải quyết vấn đề và ý tưởng  
Lãnh đạo và ảnh hưởng xã hội  
Điều phối và quản lý thời gian  
Lý luận, giải quyết vấn đề và ý tưởng  
Phân tích và đánh giá hệ thống  
Nguồn: World Economic Forum (2018), Future of Jobs Survey  
Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (2018), kỹ năng nổi bật năm 2022 bao gồm tư duy phân tích  
và đổi mới cũng như các chiến lược học tập và học tập tích cực. Các kỹ năng cần thiết như thiết kế  
công nghệ và lập trình cho thấy nhu cầu ngày càng tăng đối với nhiều dạng năng lực công nghệ.  
Thành thạo kỹ năng mới chỉ là một phần nhu cầu kỹ năng năm 2022, người lao động còn cần có  
khả năng sáng tạo, độc đáo và chủ động. Tư duy phê phán, thuyết phục và đàm phán cũng như khả  
năng giải quyết vấn đề phức tạp sẽ giúp tăng giá trị của người lao động. Trí tuệ cảm xúc, khả năng  
lãnh đạo và ảnh hưởng xã hội cũng nằm trong top 10 kỹ năng cần có của người lao động năm 2022.  
Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này.  
Về phương thức đào tạo  
Với sự thay đổi nhanh của yêu cầu về các kỹ năng công việc cần có, người lao động cần có kỹ  
năng học tập suốt đời. Lớp học số hóa, các thiết bị thông minh, thiết bị không dây, phương tiện kỹ  
thuật số ảo sẽ phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đào tạo trực tiếp, các khóa học e-learning cũng như  
thiết kế trò chơi học tập trên các thiết bị di động, máy tính là xu hướng công nghệ đào tạo tất yếu  
giúp người lao động học tập mọi lúc, mọi nơi. Các lớp học số hóa với máy tính bảng, màn hình  
điện tử, bảng trắng tương tác, … sẽ xuất hiện ngày càng phổ biến. Thiết bị hữu hình thông minh  
giúp lập trình các vật liệu vật lý, từ đó ảnh hưởng đến cơ chế học tập và tiếp nhận thông tin như vật  
liệu phản ứng, máy in 3D, tìm hiểu thực tế qua không gian số. Dựa trên nguyên lý tạo sự kích thích  
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP  
653  
người chơi tham gia học tập, “gamification” là việc ứng dụng các nguyên lý học tập vào thiết kế trò  
chơi giáo dục, công cụ lập trình giáo dục, … Các phương tiện kỹ thuật số ảo như mắt kính thông  
minh, màn hình ảo, thực tế ảo mô phỏng, … giúp việc học tập trực quan, sinh động. Xu hướng học  
tập trên ứng dụng di động đã và đang ngày càng phủ rộng do sự tiện lợi, tiết kiệm thời gian, chi  
phí. Mô hình kết hợp học trên lớp và học online (blended learning), học theo ngữ cảnh, thông qua  
các thiết bị định vị (context aware u-learning), học trong các môi trường mang tính tương tác cao  
(collaborative environments), sử dụng công nghệ điện toán đám mây (cloud computing) cũng sẽ  
ngày càng được áp dụng rộng rãi.  
Với sự thay đổi của công nghệ đào tạo, định hướng quan điểm đào tạo cũng có sự thay đổi  
hướng đến sử dụng tài nguyên giáo dục mở và thiết bị học tập cá nhân, chia nhỏ các bài học và xã  
hội hóa học tập. Xã hội hóa học tập tạo cơ hội cho phát triển nguồn tài nguyên giáo dục mở, các tài  
liệu học tập được chia sẻ rộng rãi, liên tục cập nhật và miễn phí. Điều này lại là cơ sở cho việc phát  
triển các thiết bị học tập cá nhân như sách điện tử, máy tính bảng, … Chia nhỏ bài học là xu thế  
tạo điều kiện thuận lợi để học tập trong những khoảng thời gian ngắn với bài học ngắn, cô đọng,  
cuốn hút, không nhàm chán.  
Các xu hướng trên mang lại nhiều ưu điểm trong công tác đào tạo giai đoạn cách mạng công  
nghiệp 4.0 theo Christiaan Henny (2016) như: học mọi lúc, mọi nơi; cá nhân hóa việc học; tự do  
lựa chọn và trải nghiệm thực tế. Ứng dụng công nghệ, công cụ trực tuyến tạo cơ hội cho mọi người  
học tập bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào họ muốn. Mỗi cá nhân cũng có cơ hội tự thiết kế lịch trình  
học tập phù hợp khả năng của bản thân từ đó tự tin hơn, thuận lợi hơn trong quá trình học tập. Việc  
học cũng sẽ được gia tăng các trải nghiệm thực tế một cách trực quan thông qua môi trường học  
tập thực tế ảo. Bên cạnh đó các phương thức học tập mới cũng là một thách thức lớn, đòi hỏi sự tự  
giác của người học, tính cam kết về bản quyền của cơ sở đào tạo, phù hợp tùy từng lĩnh vực và bị  
phụ thuộc vào công nghệ.  
4. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM  
Về quy mô đào tạo  
Năm 2013, Quyết định số 37 về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại học,  
cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020 được Chính phủ ban hành, theo đó, đến năm 2020, cả nước có  
460 trường đại học, cao đẳng, trong đó bao gồm 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng. Tính  
đến năm 2018 Việt Nam có tổng số 235 trường đại học, học viện, (bao gồm 170 trường công lập,  
60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước ngoài), 37 viện nghiên cứu khoa học  
được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, 33 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư  
phạm. Nếu tính tổng các trường đại học, học viện và cao đẳng thì có khoảng 700 trường. Như vậy,  
từ nay đến năm 2020, Việt Nam không thành lập, nâng cấp trường đại học nào nữa thì vẫn vượt  
mục tiêu Quyết định 37 đề ra.  
Cũng theo quyết định số 37, kế hoạch đến năm 2020, tổng quy mô đào tạo đại học, cao đẳng  
đạt khoảng 2,2 triệu sinh viên. Tính đến năm học 2017-2018, theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào  
tạo, chỉ riêng quy mô đào tạo sinh viên đại học đã đạt trên 1,7 triệu sinh viên (cụ thể 1.707.025 sinh  
viên, trong đó 1.439.495 sinh viên công lập, 267.530 sinh viên ngoài công lập), chưa kể quy mô  
đào tạo hệ cao đẳng thuộc Tổng cục dạy nghề.  
654  
QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0  
Về ngân sách chi cho giáo dục, theo thống kê năm 2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chính  
phủ đã chi 248,1 nghìn tỉ đồng cho lĩnh vực giáo dục, chiếm 20% ngân sách nhà nước, trong đó chi  
cho đơn vị giáo dục bậc đại học chiếm 9%.  
Đầu ra của đào tạo đại học đang thừa về số lượng nhưng thiếu về chất lượng, đặc biệt với một  
số công việc có xu hướng gia tăng số lượng trong tương lai ví dụ nhân lực ngành công nghệ thông  
tin thì hiện tại cũng chưa đủ đáp ứng.  
Về đội ngũ giảng viên  
Theo thống kê của Bộ Giáo dục – Đào tạo, năm học 2017 - 2018 cả nước có 74.991 GV đại  
học, tăng 3,0% so với năm học trước. Trong đó GV có trình độ tiến sĩ là 20.198, đạt tỷ lệ 27%.  
Năm học 2016 - 2017, tổng số giảng viên trong các trường đại học là 72.792 người, tăng 4,6% so  
với năm học 2015 - 2016, trong đó trình độ tiến sĩ 16.514 người (tăng 21,4%) và thạc sĩ 43.065 người  
(tăng 6,6%). Trong năm 2016, Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước đã công nhận 65 giáo sư, 638  
phó giáo sư, trong đó số đang trực tiếp làm việc tại các cơ sở đào tạo là 48 giáo sư (chiếm 73,85%);  
508 phó giáo sư (chiếm 79,62%).  
Tuy nhiên tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư và trình độ tiến sĩ còn ở mức  
thấp. Việc tuyển dụng giảng viên có trình độ chuyên môn giỏi trong và ngoài nước tham gia giảng  
dạy còn gặp khó khăn do hạn chế trong chính sách đãi ngộ. Chất lượng đội ngũ giảng viên còn hạn  
chế, thể hiện qua các đề tài nghiên cứu cũng như số lượng bài báo đăng tạp chí khoa học trong và  
ngoài nước, trình độ ngoại ngữ còn hạn chế... Số lượng giảng viên cơ hữu của các trường ngoài  
công lập vẫn còn thiếu (tính đến 2017 có 15.728 người chiếm khoảng 20% tổng số giảng viên trong  
toàn quốc) và đã ở độ tuổi cao.  
Về phương thức đào tạo  
Đào tạo đại học chính quy ở nước ta chiếm tỷ trọng cao nhất (với 83,3% năm 2017). Ngoài ra,  
hình thức đào tạo tại chức hay vừa làm vừa học có xu hướng giảm so với trước.  
Đào tạo trực tuyến bắt đầu phát triển ở nước ta từ năm 2000, với trường đại học đầu tiên áp  
dụng là Đại học Mở - Thành phố Hồ Chí Minh với bộ học liệu cho các ngành, khóa đào tạo có mức  
tương tác cao, kế tiếp là Đại học Bách Khoa – Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Duy Tân, Đại học  
Bách Khoa Hà Nội, Đại học Huế, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học  
Ngoại thương… Ngày 10 tháng 09 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1559/  
QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển đào tạo từ xa giai đoạn 2015 - 2020” cho thấy đào tạo từ xa là  
nhu cầu tất yếu. Đào tạo trực tuyến yêu cầu người học phải có phương pháp tiếp cận chủ động hơn,  
người học phải tự chủ trong việc ôn luyện, trao đổi và đặt các câu hỏi trên cơ sở lý thuyết đưa ra.  
Việc thảo luận khi học trực tiếp sẽ có độ trễ nhất định nên giảm sự tương tác do tâm lý ngại, e dè.  
Hạn chế về hệ thống cơ sở vật chất và chất lượng công nghệ thông tin là rào cản đối với hiệu quả  
của các chương trình đào tạo trực tuyến, nên đào tạo trực tuyến nếu có mới chỉ dừng lại ở việc số  
hóa bài giảng, nội dung đào tạo. Tỷ lệ giờ online còn thấp, trả lời phản hồi sinh viên còn hạn chế,  
thiếu đội ngũ cán bộ giảng dạy. Tình trạng nghẽn mạng khi đăng ký học, khi học với số lượng lớn  
thường xuyên xảy ra. Tổ chức đánh giá chất lượng còn nhiều hạn chế.  
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP  
655  
Còn lại, hiện nay, đa phần các trường tập trung vào phương pháp giảng dạy truyền thống.  
Hình thức học theo tín chỉ đã góp phần phát huy tính chủ động trong học tập của người học, sinh  
viên được lựa chọn môn học, lịch học, giảng viên,… Quá trình đào tạo không chỉ hướng tới cung  
cấp kiến thức mà còn rèn luyện kỹ năng cho người học, giúp họ phát triển các kỹ năng mềm cũng  
như kỹ năng chuyên môn thông qua các phương pháp như thảo luận nhóm, thuyết trình, nghiên  
cứu tình huống, nhập vai đóng kịch,… Tuy nhiên người học vẫn tiếp thu kiến thức một cách bị  
động, hạn chế tính sáng tạo, việc thảo luận nhóm xảy ra ở tất cả các môn thường cùng một thời  
điểm khiến giảm sự hứng thú và chất lượng thảo luận…  
Việc ứng dụng thực tiễn vào trong các học phần đã được thực hiện trong cả quá trình giảng  
dạy lý thuyết và đặc biệt là trong quá trình thảo luận. Bên cạnh đó lồng ghép thêm các chương  
trình giảng dạy của nước ngoài giúp đa dạng hóa nội dung học tập, tuy nhiên hiệu quả của việc  
ứng dụng trên thực tế chưa cao. Sinh viên tốt nghiệp ra trường có kiến thức, tư duy về các vấn đề  
toàn cầu còn hạn chế; chưa thể nắm bắt được công việc ngay khi được giao mà phải qua đào tạo  
lại. Tỷ lệ lớn sinh viên tốt nghiệp ra trường thưa thể đáp ứng ngay yêu cầu thực tế của các doanh  
nghiệp trong nước và hầu như chưa thể cung ứng ngay cho các doanh nghiệp nước ngoài do ngoại  
ngữ còn hạn chế đặc biệt là các kỹ năng nghe, nói, viết.  
5. CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG  
CÔNG NGHIỆP 4.0  
Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra  
nhiều yêu cầu không chỉ cho doanh nghiệp mà cho cả các cơ sở đào tạo đại học của Việt Nam.  
Phương pháp giáo dục truyền thống hiện còn nhiều tồn tại đặc biệt là trong cuộc cách mạng công  
nghiệp 4.0. những bất cập trong xu hướng công nghệ hiện nay đó là: sự thụ động của người học, sự  
thiếu linh hoạt và sáng tạo trong hoạt động giảng dạy. Khái niệm lớp học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị  
ảo đã và đang trở thành xu thế phát triển tất yếu trong đào tạo. Do đó, đào tạo đại học cũng phải có  
những thay đổi trong quá trình đào tạo để chủ động thích ứng với cuộc cách mạng công nghệ 4.0.  
Thứ nhất, thiết kế nội dung chương trình đào tạo phù hợp  
Các trường đại học cần phối kết hợp chặt chẽ với Chính phủ và doanh nghiệp trong quá trình  
thiết kế nội dung chương trình đào tạo nhằm thu thập thông tin về dự báo nhu cầu đào tạo nhân  
lực của Việt Nam, đặc biệt là nhu cầu gắn với các chuyên ngành đào tạo của nhà trường làm cơ  
sở để đổi mới hoạt động đào tạo nói riêng đến quản lý nói chung của nhà trường giúp nguồn nhân  
lực tương lai có năng lực làm việc đáp ứng được trong môi trường mới. Hiện nay, một số trường  
đang chuyển đổi theo hướng đào tạo theo yêu cầu công việc (work-based education) tạo ra sự năng  
động trong hoạt động đào tạo theo cầu nhân lực của thị trường lao động. Các cơ quan, ban, ngành  
có liên quan cần phát huy, đẩy mạnh công tác thu thập thông tin, từ đó phân tích, dự báo thị trường  
lao động làm cơ sở đề xuất chính sách phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn tới.  
Thiết kế nội dung chương trình giảng dạy có phù hợp hay không phù hợp có ảnh hưởng rất  
lớn đến chất lượng nguồn lực được đào tạo. Toàn cầu hóa, sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ  
thuật và công nghệ thông tin đòi hỏi phải có sự thích ứng phù hợp của chương trình đào tạo. Nội  
dung chương trình phải đảm bảo tính chuẩn hóa và hoàn toàn mang tính hội nhập với xu hướng  
quốc tế, đảm bảo hình thành các năng lực nghề nghiệp đáp ứng đầu ra, về kiến thức lý thuyết cũng  
656  
QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0  
như thực tế, về kỹ năng mềm và kỹ năng chuyên môn, đặc biệt là tư duy sáng tạo ra cái mới, khả  
năng thích nghi khi môi trường thay đổi liên tục, khả năng ngoại ngữ, tin học để hướng tới chuẩn  
khu vực và quốc tế.  
Các trường đại học có thể ứng dụng công nghệ số hóa để thực hiện đổi mới nội dung chương  
trình đào tạo, ví dụ số hóa nội dung giảng dạy, tài liệu, học liệu trên nền tảng điện toán đám mây.  
Bằng việc xác định rõ nội dung cần số hóa, mục tiêu chính của bài học, phương tiện thực hiện số  
hóa đào tạo. Nội dung đào tạo phải đáp ứng cho nhiều đối tượng với những đặc thù khác nhau.  
Thứ hai, đổi mới phương thức đào tạo dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ  
Cần đa dạng hóa lộ trình đào tạo. Dựa trên nhu cầu và khả năng học tập khác nhau, quá trình  
đào tạo cần hướng đến cung cấp các lộ trình đào tạo đa dạng cho người học giúp tạo điều kiện môi  
trường thuận lợi nhất cho người học. Hướng đến mục tiêu giúp người học tự tìm tòi, nghiên cứu  
và tìm kiếm thông tin. Mọi tri thức được số hóa tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tiếp cận, tìm  
kiếm, sẽ giúp hạn chế sự thụ động, tăng cường tính chủ động và sáng tạo của người học.  
Cần đưa các khóa học trực tuyến đại trà (MOOC - Massive Open Online Course) vào giảng  
dạy. MOOC sử dụng Internet khuyến khích sinh viên học tập và cải thiện được việc học tập.  
MOOC tạo cơ hội để thiết kế môi trường giảng dạy năng động, rèn luyện cho người học khả năng  
tự học tập và học tập suốt đời. MOOC giúp truyền đạt được khối lượng kiến thức lớn tới người học  
ở mọi nơi trên thế thới, đem lại hiệu quả và tiết kiệm công sức cũng như chi phí như đầu tư vào cơ  
sở hạ tầng và chi phí quản lý. Ở đó mỗi học viên có thể học theo tốc độ của mình, một cách thoải  
mái, trong không gian sáng tạo kiến thức ảo. Việc kết hợp học kiến thức trực tuyến và đến lớp chỉ  
tập trung vào quá trình tương tác, giải quyết các vấn đề, giúp người học khám phá tri thức mới, gia  
tăng khả năng sáng tạo. Người học cũng có thể đeo kính thực tế ảo và có cảm giác như đang ngồi  
trong lớp nghe bài giảng, hay nhập vai để chứng kiến những tình huống giả lập, mang lại cảm xúc  
và sự ghi nhớ sâu sắc hơn. Và tiến đến bước sử dụng mobile learning giúp việc học thuận tiện hơn  
bao giờ hết.  
Đại học trực tuyến là một cách tiếp cận mới, tận dụng lợi thế của Internet để tạo nên một  
trường học tập tiện ích, có chất lượng, xóa nhòa khoảng cách về thời gian, không gian, tuổi tác.  
Chính vì vậy, các trường cần phải thử nghiệm những công nghệ mới, liên tục cải thiện phương  
pháp dạy học, tăng cường đầu tư và triển khai E-Learning. Trên cơ sở thu thập thông tin phản hồi  
của sinh viên về quá trình đào tạo, nhà trường cần tạo ra nhiều hình thức học tập mới, thời gian  
và địa điểm học tập không bị ràng buộc, cung cấp nhiều kỹ năng phù hợp hơn cho sinh viên. Cần  
đẩy mạnh hoạt động phong trào cũng như nghiên cứu khoa học trong sinh viên, từ đó mang lại cho  
người học không chỉ những kỹ năng và kiến thức cơ bản mà còn tư duy sáng tạo, khả năng thích  
nghi với các thách thức. Người học sẽ phải đáp ứng yêu cầu công việc liên tục thay đổi để tránh  
nguy cơ bị đào thải.  
Để áp dụng đào tạo trực tuyến các trường đại học sẽ cần xây dựng chiến lược và kế hoạch cụ  
thể nhằm tạo hành lang cho việc thực hiện, từ đó chuẩn bi  
tuyến 4.0 áp dụng triệt để công nghệ di động. Nhà trường phải cung cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tài  
liệu học tập phù hợp với thiết bi di động của người sử dụng.  
̣ cả về nhân lực và vật lực vì đào tạo trực  
̣
Tuy nhiên, phương pháp dạy học hiện đại vẫn không xa rời được phương pháp dạy học truyền  
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP  
657  
thống. Vai trò của người thầy trong quá trình dạy học hướng đến mục tiêu cuối cùng là người học  
tiếp nhận, nắm vững kiến thức, phát triển kĩ năng và rèn luyện thái độ. Do đó, một yêu cầu đối với  
người thầy trong dạy học hiện đại phải có một khả năng sư phạm tốt và phải biết kết hợp tất cả các  
yếu tố truyền thống cũng như hiện đại để tổ chức hoạt động dạy – học đạt kết quả cao.  
Thứ ba phát huy vai trò của giảng viên.  
Giảng viên chuyển từ việc truyền thụ kiến thức sang hướng dẫn sinh viên tiếp cận đúng thông  
tin cần tìm và biết loại bỏ những thông tin xấu, không liên quan trên Internet. Vai trò tư vấn của  
giảng viên sẽ trở nên ngày càng quan trọng hơn. Sinh viên sẽ ngày càng độc lập trong việc học, lấy  
tự học là chính, giảng viên sẽ ở góc độ tư vấn, hướng dẫn người học xử lý dữ liệu thông tin khổng  
lồ đã được số hóa.  
Các trường cần đội ngũ giảng viên, ngoài kiến thức chuyên môn và phương pháp giảng dạy,  
còn phải có nền tảng công nghệ tốt, sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, có kỹ năng giảng  
dạy từ xa và tiếng Anh tốt. Để làm được điều đó bản thân mỗi giảng viên cần luôn tự cập nhật  
năng lực bản thân để có thể làm chủ công nghệ. Các bài giảng và tài liệu học tập là nguồn tài liệu  
mở công khai và giảng viên phải cá nhân hóa trong quá trình giảng dạy và đánh giá người học. Đa  
dạng hóa hình thức giao tiếp với người học trong không gian và thời gian mở sẽ là một thách thức  
không nhỏ đối với giảng viên.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1.  
2.  
Chính phủ (2015), Quyết định số 1559/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển đào tạo từ xa giai đoạn 2015 - 2020”  
Chính phủ (2013), Quyết định số 37 về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai  
đoạn 2006 – 2020 được ban hành.  
3.  
4.  
5.  
Tổng cục Thống kê (2017), Báo cáo Điều tra Lao động việc làm quý 4/2017.  
Vũ Thùy Dương, Hoàng Văn Hải (2010), Giáo trình Quản trị nhân lực, NXB Thống kê.  
Cisco (2018), Technology and the future of ASEAN jobs - The impact of AI on workers in ASEAN’s six largest  
economies.  
6.  
7.  
K. Schwab (2017), The Fourth Industrial Revolution, Crown Business Publisher.  
Michael Armstrong, Stephen Taylor (2017), Armstrong’s handbook of human resource management practice,  
Kogan Page.  
8.  
9.  
Reynolds J (2004), Helping people learn, CIDP, London.  
World Economic Forum (2018), Readiness for Future of Production Report 2018.  
10. World Economic Forum (2018), Future of Jobs Survey.  
pdf 12 trang baolam 12/05/2022 2600
Bạn đang xem tài liệu "Xu hướng đào tạo nhân lực trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vấn đề đặt ra với các trường Đại học Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfxu_huong_dao_tao_nhan_luc_trong_cuoc_cach_mang_cong_nghiep_4.pdf