Ảnh hưởng của kinh tế, dân cư và văn hóa đến hoạt động của báo chí ở thành phố Hồ Chí Minh

Tp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S3(52)-2021  
ẢNH HƯỞNG CA KINH T, DÂN CƯ VÀ VĂN HÓA  
ĐẾN HOẠT ĐỘNG CA BÁO CHÍ THÀNH PHHCHÍ MINH(*)  
Dương Kiều Linh(1), Lê ThBích Nga(1)  
(1) Trường Đại hc Khoa hc xã hội và nhân văn (VNU-HCM)  
Ngày nhn bài 20/03/2021; Ngày gi phn bin 28/03/2021; Chp nhận đăng 28/04/2021  
Liên hệ Email: linhkieu006@gmail.com  
Tóm tt  
Báo chí là mt bphn ca thiết chế văn hóa, thuộc kiến trúc thượng tng ca xã  
hi, vận động và biến đổi cùng vi nhng yếu tthuộc cơ sở htng. Do vy, nghiên cu  
vbáo chí Thành phHChí Minh trong những năm 2006-2016 phải được đặt trong  
tng thnhng biến đổi tình hình kinh tế xã hi ca Thành ph. Sbiến đổi đó đang tác  
đng hoc trc tiếp, hoc gián tiếp, tạo nên môi trường hoạt động ca báo chí Thành phố  
trong mt thp kqua. Bài viết này tp trung phân tích những đặc điểm chyếu vtình  
hình kinh tế xã hi Thành phố giai đoạn 2006-2016 trên hai bình din: một là điều kin  
kinh tế và đời sng vt cht, hai là kết cấu dân cư và đặc tính văn hóa. Đó là những yếu tố  
đóng vai trò nền tng, tạo đà cho sự phát trin ca nn báo chí Thành phthi gian qua.  
Tkhóa: báo chí, môi trường, hoạt động  
Abstracts  
THE INFLUENCE OF ECONOMY, POPULATION AND CULTURE ON  
PRESS ACTIVITIES IN HO CHI MINH CITY  
The press is a part of culture. It belongs to the superstructure of the society,  
changes along with elements of the infrastructure. Therefore, the study of journalism in  
Ho Chi Minh City from 2006 to 2016 must be included in the overall socio-economic  
changes. The change of Ho Chi Minh City is affecting either direct or indirect, in the  
operating environment of the City press in the past decade. The following research  
focuses on analyzing the main socio-economic features of the city in the 2006-2016  
period on two aspects: first is economic conditions and material life, the second is the  
population structure and cultural character. These are factors that play a fundamental  
role, creating a driving force for the development of the city's press in the past time.  
(*) Bài viết trong khuôn khổ đề tài nghiên cu khoa hc của Đại hc Quc gia TP.HCM, mã số  
C2018-18b-07.  
91  
1. Gii thiu  
Vi cách tiếp cn shc, nghiên cu những tác động của điều kin kinh tế vt cht,  
tâm lý xã hội, phương tiện , thiết bị di động, kết cấu cư dân và đặc tính văn hóa không chỉ  
góp phn phc dng bc tranh lch sbáo chí mà còn đặt ra nhng vấn đề mi cho công  
tác qun lý báo chí. Mt khác, khi coi báo chí là ngun sliu thì vic tiếp tc nghiên cu  
báo chí Thành phHChí Minh (TPHCM) trong mi liên hcht chvi sbiến đổi  
mnh m, liên tục, thay đổi nhanh li gn cht vi công nghvà các thiết bị di động cùng  
vi stiến b, nhanh nhy trc tiếp tác động đến quy trình làm báo truyn thng khiến  
cho cnn báo chí truyn thng chuyển động mnh mẽ và thay đổi đến chóng mt li càng  
cn thiết. Sxut hin ca các mng xã hi khiến cho mt vài ngnhn vnghề báo cũng  
xut hiện. Phân tích điều kiện và môi trường còn nên nhn mnh vai trò của các cơ quan  
qun lý báo chí thc hin tt hơn chức năng, nhiệm vca mình, có chiến lược xây dng  
mạng lưới báo chí hiện đại. Các mng xã hi xut hin ngày càng nhiu, càng tin ích  
khiến cho scnh tranh gia thông tin báo chí và thông tin trên mng xã hi ngày càng  
quyết lit. Có thể nói chưa bao ginn báo chí có nhng thách thc trên tt cả các phương  
diện như tính thông tấn, cu trúc nghnghip, cnh tranh thi sự và thương mại, hiu ng  
xã hi. Nên nhng nghiên cứu sau đây mới dng li vic khảo sát và đưa ra một snhn  
định, chưa thể chuyên sâu và lý gii khoa học đầy đủ, vì chưa đủ độ lùi cn thiết, và có thể  
nói, các lý thuyết báo chí kinh điển dường như chưa tiến kp công nghtruyền thông như  
vũ bão hiện nay.  
2. Tng quan tài liu  
Vi nhng biến động mnh mca công nghthông tin, khái nim truyền thông đa  
phương tiện và những thay đổi quan trng ca lý thuyết báo chí hiện đại cn cp nht và  
đặt vấn đề nghiên cu cho thỏa đáng. Vậy nhưng cho tới nay, nhng nghiên cu mang  
tính chuyên bit còn khá ít và chyếu ca ngành báo chí hc, mang tính kho sát mt số  
tbáo cthnhiều hơn là những mô tmt thi kbáo chí hoc nền báo chí đương đại.  
Gần đây đã có một scông bca mt shc gichuyên về văn học báo chí đương đại  
là nhng gi ý tốt cho ý tưởng ca chúng tôi khi nghiên cu môi trường hoạt động Báo chí  
TPHCM thi khi nhp.  
Mt stác phm nói vtruyn thống và đặc tính của báo chí Sài Gòn đã phần nào  
đề cập đến dòng chy chung ca lch sbáo chí như các cuốn sách ca tác giPhm Công  
Lun, Trn Nht Vy, Lê Văn Nghĩa, Nguyễn Đức Hip viết về báo chí Sài Gòn trước năm  
1975 đã phần nào góp cho cách nhìn chung vbề dày báo chí nơi đây. Nhưng, để tìm hiu  
toàn din mt nền báo chí như TPHCM, việc phân tích điều kiện môi trường hoạt động  
tc là nhng yếu tkinh tế xã hội văn hóa tác động trc tiếp đến báo chí, thì chúng tôi  
phải căn cứ vào nhng nghiên cu chung vthành phnên các sách chuyên khảo, đặc bit  
là nhng công bsliu của các cơ quan hữu quan như Sở Văn hóa Du lch, Thông tin  
Truyn thông, Ban Tuyên giáo Thành y TPHCM cũng là những tài liu tham kho hu  
ích. Mt khác, khi nghiên cu nn báo chí Việt Nam đương đại, tt yếu phải đặt trong mi  
92  
Tp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S3(52)-2021  
quan hvi vấn đề chính tr, tc vấn đề quan điểm của Đảng Cng sn Vit Nam vbáo  
chí nên những văn kin của Đảng bTPHCM cũng được nhóm tác gicoi là mt ngun  
tài liu quan trọng và đã tiếp cận được. Ngoài các giáo trình được trình bày khá công phu  
thì các bài tham lun các hi tho khoa hc cũng được chúng tôi coi là ngun tài liu cn  
khai thác. Đó là các vấn đề chung về văn hóa và đời sng trong thi ktruyền thông đa  
phương tiện, các ảnh hưởng ca yếu tố nước ngoài đến lĩnh vực văn hóa… mà chúng tôi  
tham khảo được. Hoc mt scông b, chuyên lun ca các tác giả như Nguyễn Hà, Triu  
Thanh Lê, Nguyn Trí Nhim, Nguyn Thị Trường Giang, Vũ Thanh Vân, Lê Thanh  
Bình, Nguyn Thành Li…  
3. Kết quả và thảo luận  
3.1. Điều kiện kinh tế và đời sống vật chất  
TPHCM là một thành phố thuộc khu vực Đông Nam Bộ, nằm trong Vùng kinh tế  
trọng điểm phía Nam. Tuy chỉ chiếm 0,6% diện tích và 8,3% dân số so với cả nước,  
nhưng trong dòng chảy lịch sử của dân tộc, Thành phố luôn giữ vai trò là một “thành phố  
động lực”, là hạt nhân” của cả nước. Không chỉ đóng góp vào sự phát triển chung của cả  
nước, với những chủ trương, chính sách đúng đắn cùng với những cách làm, hướng đi  
năng động, sáng tạo, Ban lãnh đạo Thành phố đã làm thay đổi diện mạo của một thành  
phố sau hơn 40 năm thoát ra khỏi chiến tranh, khủng hoảng. Tính đến năm 2016, Thành  
phố đóng góp cho sự phát triển kinh tế của khu vực và cả nước với gần 20% tổng sản  
phẩm GDP, gần 30% giá trị sản phẩm công nghiệp, trên 40% kim ngạch xuất khẩu, trên  
30% tổng thu ngân sách quốc gia. Trung bình Thành phố tăng trưởng 1% GDP làm cho cả  
nước tăng được 0,2% GDP; 0,3% giá trị sản xuất công nghiệp; 0,4% kim ngạch xuất khẩu  
(Học viện Cán bộ TPHCM, 2017). Thu ngân sách hàng năm đều vượt chỉ tiêu nộp ngân  
sách do Trung ương giao. Thu ngân sách nhà nước 5 năm 2006-2010 gấp 2,5 lần giai  
đoạn 2001-2005 (Thành ủy, 2010).  
Sự phát triển của Thành phố trong những năm qua gắn liền với sự phát triển, đóng  
góp của các thành phần kinh tế. Từ thực tiễn 30 năm đổi mới cho thấy, sự tồn tại và phát  
triển của một cơ cấu kinh tế đa thành phần là tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp  
hóa, hiện đại hóa đất nước. Sản xuất hàng hóa, kinh tế nhiều thành phần và vận hành theo  
cơ chế thị trường là ba bộ phận không thể tách rời trong quá trình huy động các nguồn lực  
của đất nước vào mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.  
Những năm 2011-2015, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị  
quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IX, tuy gặp khó khăn do tác động của khủng hoảng tài  
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cũng như sự bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước, GDP  
thành phố vẫn tăng trưởng bình quân 9,6%/năm, trong đó khu vực nhà nước tăng 4,9%,  
ngoài nhà nước 10,5% và vốn đầu tư nước ngoài tăng 11,1%. Với tốc độ tăng trưởng như  
vậy, cơ cấu giá trị của các thành phần kinh tế đóng góp vào GDP tiếp tục thay đổi so với  
những năm 2006-2010, khu vực nhà nước chỉ đóng góp bình quân 17,54%/năm, tư nhân  
93  
đóng góp bình quân 58,46%/năm và vốn đầu tư nước ngoài đóng góp bình quân 24%/năm  
(Thành ủy, 2015). Trên thực tế, khu vực kinh tế ngoài nhà nước và đầu tư nước ngoài ở  
Thành phố đã có những đóng góp quan trọng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã  
hội, giải quyết việc làm, tăng thu ngân sách và tạo sức mạnh tăng trưởng đột phá của  
thành phố. Sự phát triển các thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố thời gian qua là phù  
hợp với định hướng và chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước, phù hợp với sự vận  
động khách quan của kinh tế thị trường và đang nâng dần vị trí, vai trò của Thành phố  
trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nhận thức rõ lợi thế vị trí địa lý của  
địa phương nên ngay từ năm 2003, Ban lãnh đạo Thành phố đã xác định chuyển dịch cơ  
cấu kinh tế theo hướng dịch vụ công nghiệp nông nghiệp. Với tác động của khoa học  
và công nghệ, cơ cấu kinh tế Thành phố đã chuyển biến tích cực, dịch vụ và công nghiệp  
có giá trị gia tăng cao đã làm nền tảng cho phát triển. Những năm 2011-2015, ngành dịch  
vụ có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 11,2%/năm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng  
7,4%/năm; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,8%/năm (Thành ủy, 2015).  
Thành phố cũng đã chủ động hợp tác với các tỉnh, đầu tư các tuyến giao thông trọng  
điểm, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, điểm trung chuyển, khu cửa khẩu,… làm cầu nối  
giữa Thành phố với các địa phương, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, tăng cường  
thêm vị thế “kết nối” của Thành phố trong tất cả các hoạt động kinh tế xã hội của cả khu  
vực Nam bộ. Tính từ đầu năm 2011 đến nay, Thành phố đã bố trí kế hoạch vốn đầu tư  
19.883 tỷ đồng cho các dự án giao thông (Thành ủy, 2015). Nhờ vậy, diện mạo của Thành  
phố ngày càng hiện đại hơn, không gian đô thị đã được điều chỉnh, gắn với Vùng đô thị  
TPHCM, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.  
Cùng với quá trình đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh  
tế theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trên cơ sở những ưu thế, tiềm năng hiện  
có, Ban lãnh đạo Thành phố đã và đang tham gia quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu  
vực và thế giới. Hiện nay, hàng hóa của doanh nghiệp Thành phố đã có mặt trên thị trường  
của hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó đã xuất khẩu vào các thị  
trường lớn, là đối tác chiến lược của Việt Nam như: Mỹ, Nhật Bản, Nga, EU. Kim ngạch  
nhập khẩu của Thành phố giai đoạn 2011-2015 ước đạt 145,3 tỷ USD, tăng bình quân  
8,86%/năm (Thành ủy, 2015). Cùng với đó, Thành phố còn tham gia vào các hoạt động  
xúc tiến thương mại, mở rộng cơ hội hợp tác đầu tư với nước ngoài, chuyển giao công  
nghệ trong một số ngành, lĩnh vực. Điều đó chứng tỏ, quá trình hội nhập vào nền kinh tế  
thế giới làm cho hoạt động giao thương giữa Thành phố và các quốc gia trên thế giới ngày  
một mạnh mẽ, giúp Thành phố tiếp cận với thị trường nước ngoài, quảng bá các sản phẩm  
đặc trưng của Việt Nam đến các nước.  
Kinh tế xã hội phát triển, quá trình hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng đã có  
những tác động sâu sắc, đóng góp tích cực cho sự phát triển của báo chí Thành phố thời  
gian qua. Với một nền kinh tế phát triển, các cơ quan báo chí ở Thành phố có điều kiện  
tăng thêm nguồn thu từ các hoạt động quảng cáo, phát hành, dịch vụ... Thực tế cho thấy  
các hoạt động quảng cáo, dịch vụ đã mang về nguồn thu hàng chục, hàng trăm tỷ đồng cho  
các cơ quan báo chí Thành phố trong những năm qua. Nhờ đó, các cơ quan báo chí có điều  
94  
Tp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S3(52)-2021  
kiện nâng cấp máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ làm báo, đầu tư nhiều hơn cho hoạt  
động nghiệp vụ, cải thiện và nâng cao đời sống cán bộ, phóng viên, nhân viên, mở rộng  
các hoạt động nhân đạo, từ thiện trong xã hội.  
Khi nền kinh tế Thành phố bước vào thời kỳ hội nhập với nền kinh tế khu vực và  
toàn cầu cũng mang lại những cơ hội cho báo chí được tham gia vào đời sống quốc tế. Các  
nhà báo Thành phố có được một môi trường thuận lợi để thể hiện và khơi dậy những tiềm  
năng, sức sáng tạo của mình. Đó chính là cơ hội để mỗi nhà báo học hỏi, trao đổi kinh  
nghiệm nghề nghiệp và tư duy, phương pháp làm báo hiện đại, sử dụng được các phương  
tiện kỹ thuật tiên tiến cho tác nghiệp. Đồng thời, công chúng báo chí có thêm sự lựa chọn  
thông tin trong và ngoài nước cho nhu cầu của mình. Báo chí Thành phố cũng có cơ hội  
mở rộng giao lưu quốc tế, vừa tự mình phát triển, vừa đóng góp chung cho sự nghiệp báo  
chí nước nhà. Tuy nhiên, cùng với những tác động tích cực, khi tham gia vào nền kinh tế  
thị trường, Thành phố phải đối mặt với sự phân hóa về thu nhập và phân tầng xã hội thành  
các nhóm khác nhau. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu giải quyết hài hoà giữa lợi ích đất nước  
và quốc tế, bảo vệ tư tưởng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc với các tư tưởng, khuynh  
hướng mới của thế giới. Tham gia hội nhập quốc tế, báo chí Thành phố phải chịu sức ép  
cạnh tranh gay gắt hơn không chỉ giữa báo chí trong nước mà còn báo chí nước ngoài. Đó  
là sự vượt trội về công nghệ, kỹ thuật, tài chính, tính chuyên nghiệp... cạnh tranh về sản  
phẩm báo chí, cơ quan quản lý, có thể dẫn tới sự phân hóa không đồng đều, thậm chí một  
bộ phận cơ quan báo chí phá sản, phóng viên thất nghiệp. Cùng với những nhiệm vụ chính  
trị hết sức quan trọng của báo chí cách mạng, đội ngũ những người làm báo Thành phố  
đang đứng trước những thách thức chung trong xu thế phát triển của báo chí hiện nay. Do  
vậy, yêu cầu đặt ra cho báo chí Thành phố là đội ngũ những người làm báo hiện nay phải  
nâng cao tính chuyên nghiệp, trình độ tin học, ngoại ngữ, hiểu biết thông lệ và luật pháp  
quốc tế,… để nắm bắt các xu hướng phát triển của báo chí và cung cấp cho độc giả những  
thông tin trúng, đúng và cập nhật nhất. Cùng với đó là những thách thức về lập trường,  
bản lĩnh của nhà báo, giữ vững định hướng phát triển đất nước, bảo đảm an ninh, quốc  
phòng, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường độc lập dân tộc và phát triển  
bền vững đất nước... Đó là những vấn đề cần được giải quyết hài hoà và tỉnh táo, đòi hỏi  
mỗi nhà báo phải phấn đấu, tu dưỡng rèn luyện toàn diện để đáp ứng yêu cầu mới.  
Những thành tựu đạt được của nền kinh tế TPHCM không chỉ mang đến những cơ  
hội, thách thức, tạo ra môi trường hoạt động của báo chí; mà còn tất yếu tác động và ảnh  
hưởng trực tiếp đến các chính sách kinh tế xã hội, đời sống của người dân; đã góp phần  
ổn định, nâng cao mức sống của cư dân đô thị nói chung, của các tầng lớp công nhân viên  
chức, người lao động, đặc biệt là những người nghèo và cận nghèo.  
Từ những năm 90, Thành phố đã khởi xướng và thực hiện phong trào xóa đói giảm  
nghèo. Không thể phủ nhận, nạn đói nghèo luôn là cản trở cho sự phát triển kinh tế, là một  
yếu tố gây bất ổn về chính trị xã hội cho một quốc gia, cũng như một địa phương. Điều  
đó trái với mục tiêu phát triển của chủ nghĩa xã hội là đem lại cho tất cả mọi người sự ấm  
no, hạnh phúc. Do vậy, Ban lãnh đạo Thành phố đã nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn  
đề lấy sự ổn định và phát triển đời sống vật chất, kinh tế của người dân lao động là tiêu chí  
95  
quan trọng của phương hướng phát triển Thành phố. Việc tiếp tục thực hiện chương trình  
Xóa đói giảm nghèo trong thời kỳ hội nhập chính là duy trì thế cân bằng để chúng ta vừa  
phát triển kinh tế thị trường, nhưng vẫn theo truyền thống của người dân Sài Gòn là lá  
lành đùm lá rách và hướng đến xây dựng Thành phố văn minh, hiện đại, nghĩa tình.  
Thực hiện chủ trương trên, những năm qua Ban lãnh đạo Thành phố đã xây dựng và  
bổ sung thành một chương trình kinh tế văn hóa xã hội tổng hợp, gắn kết Chương trình  
xóa đói giảm nghèo với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng,  
chỉnh trang và phát triển đô thị, xây dựng nông thôn mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân  
lực. Qua 23 năm thực hiện, Chương trình giảm nghèo được thực hiện qua 4 giai đoạn, với  
7 lần nâng mức thu nhập để xác định hộ nghèo và hộ cận nghèo, phù hợp với điều kiện  
phát triển kinh tế xã hội, chỉ số giá sinh hoạt và mức sống của người dân thành phố. Mức  
thu nhập để xác định hộ nghèo hiện nay là 16 triệu đồng/người/năm, hộ cận nghèo là dưới  
21 triệu đồng/người/năm; cao hơn chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2011-2015 là 2,7 lần;  
tiếp cận chuẩn nghèo quốc tế (2USD/người/ngày). Đến năm 2015, Thành phố chỉ còn  
17.389 hộ nghèo và 46.971 hộ cận nghèo; hộ nghèo có thu nhập dưới 16 triệu  
đồng/người/năm còn 0,89%; hộ cận nghèo có thu nhập dưới 21 triệu đồng/người/năm còn  
2,39% (Thành ủy, 2015). Thành phố cũng đã huy động các nguồn vốn từ Ngân hàng chính  
sách xã hội, Quỹ giảm nghèo, Quỹ quốc gia việc làm, Quỹ 156,… để hỗ trợ người nghèo.  
Giai đoạn 2011-2015 Thành phố đã huy động gần 3.000 tỷ đồng/năm; mỗi năm, quỹ giảm  
nghèo và nguồn vốn Ngân hàng chính sách xã hội đã giải quyết cho 160.000-180.000 lượt  
hộ nghèo vay vốn. Công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người nghèo cũng  
được Thành phố quan tâm. Năm 2016, số lao động nghèo được hỗ trợ đào tạo nghề  
khoảng 1.500-2.000 người; giải quyết việc làm trong nước cho khoảng 12.000-15.000 lao  
động thuộc hộ nghèo (Thành ủy, 2015).  
Những kết quả đạt được của Chương trình giảm nghèo không chỉ tạo ra được thế  
cân bằng trong phát triển kinh tế thị trường; mà còn có giá trị nhân văn sâu sắc, nghĩa tình  
sâu đậm, là nét đẹp văn hóa của người dân Thành phố; khơi dậy, phát huy truyền thống tốt  
đẹp về lòng nhân ái, tương trợ, đùm bọc lẫn nhau; phát huy được sức mạnh nội lực hướng  
thiện của cộng đồng, của các đoàn thể chính trị-xã hội, các cá nhân, doanh nghiệp; tạo sự  
đồng lòng, chung sức, trở thành một phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp lo cho dân  
nghèo, phát huy sức dân để làm lợi cho dân. Tất cả những yếu tố đó khiến cho sức sống  
của Thành phố ngày càng mạnh mẽ, là cơ sở vững chắc cho hạ tầng kinh tế và đời sống  
người dân ngày càng ổn định, những nhu cầu văn hóa-xã hội của người dân được đáp ứng  
ở nhiều khía cạnh khác nhau.  
Cùng với những thành tựu đạt được trong phong trào Xóa đói giảm nghèo, nền kinh  
tế của Thành phố những năm qua cũng không ngừng tăng trưởng. Đến năm 2016, GDP  
bình quân thu nhập trên đầu người tăng lên 5.122USD/người, gấp 2,37 lần bình  
quân cả nước (Dương Hồng Lâm, 2017). Kinh tế tăng trưởng làm cho đời sống vật chất  
của người dân Thành phố không ngừng được cải thiện, có nhiều điều kiện tiếp cận với các  
tiến bộ của khoa học công nghệ.  
96  
Tp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S3(52)-2021  
TPHCM được đánh giá là địa phương đứng đầu cả nước có tỷ lệ tăng trưởng  
Internet di động và tỷ lệ người dùng điện thoại thông minh cao nhất cả nước. Theo thống  
kê năm 2013, tổng số thuê bao điện thoại trên toàn Thành phố đạt 17,2 triệu thuê bao, mật  
độ điện thoại đạt 181,2 máy/100 dân. Do nhu cầu về tốc độ và chất lượng ngày càng cao  
nên dịch vụ Internet cáp quang FTTH tăng mạnh, dần thay thế dịch vụ ADSL trước đây.  
Từ năm 2011-2014, thuê bao Internet băng thông rộng tăng từ 975.559 thuê bao lên  
1.372.427 thuê bao (Ủy ban nhân dân TPHCM, 2015). Đặc biệt, vào năm 2013 Thành phố  
được đánh giá đứng đầu 63 tỉnh thành về phát triển thương mại điện tử, năng lực hội nhập  
kinh tế quốc tế (Thành ủy, 2015).  
Trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ và nhu cầu sử dụng ngày một tăng  
của con người như hiện nay, việc sở hữu một hay nhiều thiết bị di động không còn là điều  
hiếm gặp trong cuộc sống. Thiết bị di động hiện nay không chỉ là thiết bị liên lạc mà đang  
trở thành một phương tiện truyền thông phổ biến với nhiều tính năng vượt trội, đã và đang  
hình thành một xu hướng truyền thông. Điều này mở ra một xu hướng phát triển mới của  
báo chí mà những cơ quan báo chí nào muốn bắt nhịp với thời cuộc không thể bỏ qua: xu  
hướng báo chí di động (Nguyễn Thị Trường Giang, 2018).  
Dưới tác động mạnh mẽ của kỷ nguyên kỹ thuật số, của những thiết bị di động với  
những tiện ích ngày càng cao, những điều kiện kinh tế vật chất của cư dân Thành phố và  
đặc tính sử dụng, tiếp cận với công nghệ làm cho nền báo chí đương đại của thành phố lớn  
nhất nước có sự thay đổi cơ bản về cả diện mạo và tính cách chỉ trong 10 năm  
(2006-2016). Sự biến đổi mạnh mẽ, liên tục, thay đổi nhanh lại gắn chặt với công nghệ và  
các thiết bị di động cùng với sự tiến bộ, nhanh nhạy trực tiếp tác động đến quy trình làm  
báo truyền thống khiến cho cả nền báo chí kinh điển rùng rùng chuyển động và thay đổi  
đến chóng mặt. Sự xuất hiện của các mạng xã hội khiến cho một vài ngộ nhận về nghề báo  
cũng xuất hiện. Trong bối cảnh chung, báo chí luôn vận động, phát triển và thay đổi, để  
thực hiện tốt hơn vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình đòi hỏi các cơ quan báo chí chủ  
chốt của Thành phố phải nhanh chóng thay đổi, bổ sung các hình thức hấp dẫn, có chiến  
lược xây dựng mạng lưới báo chí hiện đại bên cạnh việc củng cố chăm sóc khách hàng  
truyền thống bỏ tiền ra mua báo in giấy.  
Các mạng xã hội xuất hiện ngày càng nhiều, càng tiện ích khiến cho việc truyền đi  
thông tin hàng ngày về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, của trong nước và thế giới  
khiến cho sự giao thoa cũng như cạnh tranh gay gắt giữa thông tin báo chí và thông tin  
trên mạng xã hội ngày càng quyết liệt. Có thể nói chưa bao giờ nền báo chí Thành phố có  
sự cạnh tranh quyết liệt, thách thức gay gắt trên tất cả các phương diện như tính thông tấn,  
cấu trúc nghề nghiệp, cạnh tranh thời sự và thương mại, hiệu ứng xã hội.  
Những năm này, trên thế giới đã diễn ra quá trình toàn cầu hóa ngày một mạnh mẽ.  
Trong bối cảnh đó, các trào lưu, các khuynh hướng tư tưởng và xu hướng báo chí mới mẽ  
của thế giới tác động và ảnh hưởng vào trong nước; tác động trực tiếp vào tư tưởng, tình  
cảm, tâm lý, lối sống và đạo đức của con người. Trong đời sống quốc tế bắt đầu nổi lên  
những vấn đề mới về lý luận và thực tiễn về con đường phát triển khác nhau của các nước.  
97  
Các ý kiến, quan điểm, chính kiến, tư tưởng csát diễn ra hàng ngày. Đây là những điều  
kiện để báo chí Thành phố phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin đa dạng, phong  
phú, kịp thời, chính xác của công chúng. Thông qua giao lưu quốc tế, báo chí Thành phố  
sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện, góp phần vào sự phát triển của đất nước và xu thế hòa  
bình, hợp tác và phát triển của nhân loại.  
Tóm lại, những thành tựu về kinh tế-xã hội mà Thành phố đạt được trong những  
năm 2006-2016 không chỉ chứng minh đường lối, chủ trương của Đảng bộ Thành phố đề  
ra là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu khách quan của địa phương; mà còn là cơ sở quan  
trọng để tham chiếu vào đối tượng sẽ khảo sát dưới đây là báo chí Thành phố trong giai  
đoạn này. Không thể có nền báo chí phát triển đa dạng phong phú trong khi đời sống kinh  
tế vật chất của người dân nghèo đói, thiếu thốn. Chưa xét đến nội dung và chất lượng cũng  
như ý nghĩa xã hội của vấn đề thông tin mà về điều kiện vật chất, khi khá nhiều người dân  
mang theo mình điện thoại hay các thiết bị đi động có trị giá không hề nhỏ (giá khoảng từ  
10 triệu đồng trở lên) với những tiện ích, tính năng rất gần với kỹ năng nghề báo thì đã tác  
động trực tiếp đến điều kiện hành nghề báo một cách sâu sắc, trước đây chưa có!  
Những thành tựu về kinh tế xã hội đã tác động đa chiều đến nền báo chí Thành phố,  
là mảnh đất màu mỡ để báo chí ngày càng phát triển, nhưng cũng đặt ra những yêu cầu  
cao hơn, phức tạp hơn. Với đời sống được nâng cao, người dân Thành phố ngày càng có  
nhiều điều kiện thuận lợi để đi tới sự hưởng thụ nhu cầu văn hóa và đòi hỏi ngày càng cao  
hơn nữa chất lượng thông tin, cũng như những giá trị về hình thức của văn hóa, văn học,  
nghệ thuật, giải trí,… Tất cả những nhân tố đó đòi hỏi các cơ quan báo chí Thành phố nói  
chung và những người làm báo nói riêng luôn có sự đổi mới, cải tiến và bắt kịp với thị  
hiếu của xã hội. Cũng như mỗi cá nhân nhà báo phải rèn luyện cho bản thân một phong  
cách làm báo chuyên nghiệp cho phù hợp với hiện thực đời sống.  
Chính sự hiện đại, tiến bộ của ngành báo chí và những người làm báo cùng với sự  
phát triển, tương tác của một nền kinh tế hiện đại sẽ là tiền đề để xuất hiện nên những tập  
đoàn báo chí lớn. Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007 đã trở thành một trong  
những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cả nước nói chung, Thành phố nói  
riêng. Đồng thời, nó còn thúc đẩy sự giao lưu văn hóa giữa các nước, trong đó có sự giao  
lưu, học tập để phát triển báo chí Thành phố.  
3.2. Kết cấu dân cư và đặc tính văn hóa  
Thành phố bước vào thập niên đầu của thế kỉ XXI với nhiều sự thay đổi trong kết  
cấu dân cư xã hội. Nhân tố ảnh hưởng trực tiếp nhất đến sự thay đổi đó là quá trình đô thị  
hóa đang tiếp tục diễn ra mạnh mẽ từ những thập niên trước. Thành phố là nơi có tốc độ  
đô thị hóa nhanh nhất và quy mô lớn nhất cả nước. Việc khẳng định Thành phố là địa  
phương có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất cả nước xuất phát từ nhiều lý do. Trước hết,  
Thành phố là địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) khá cao, năm 2015 tăng  
7,72% (Ủy ban Nhân dân, 2016). Kinh tế phát triển dẫn đến nhu cầu lao động gia tăng, là  
động lực để thu hút lượng lao động nhập cư từ các địa phương khác. Hơn nữa, Thành phố  
còn là trung tâm công nghiệp lớn nhất cả nước, năm 2015 khu vực công nghiệp chiếm tỉ  
98  
Tp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S3(52)-2021  
trọng 39,6% trong GDP toàn thành phố (Ủy ban Nhân dân, 2016). Đây là địa phương dẫn  
đầu cả nước về số lượng và hiệu quả kinh tế của khu công nghiệp, khu chế xuất. Một yếu  
tố khác dẫn đến việc lượng người nhập cư đến Thành phố tăng còn là do Thành phố cũng  
đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi về nhà ở cho người thu nhập thấp, như chỉ thị số  
07/2003/CTUB ngày 23/4/2003 nhằm hỗ trợ cho người thu nhập thấp có điều kiện vay  
vốn để tạo lập nhà ở, xây dựng các khu tái định cư ở các quận ven và quận mới để giãn dân  
từ nội thành ra. Tất cả những yếu tố đó là tác nhân kích thích làm gia tăng số người nhập  
cư đến Thành phố trong những năm qua. Và điều này cũng góp phần lý giải vì sao quá  
trình đô thị hóa ở địa phương lại diễn ra ngày một mạnh mẽ.  
Quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, lượng người nhập cư đến Thành phố ngày một đông  
khiến cho Thành phố là nơi có sự đa dạng văn hóa cao nhất cả nước. Theo thống kê của  
Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến năm 2009 ở Thành phố đã có đầy đủ tất cả 54 dân  
tộc Việt Nam cùng sinh sống. Mọi cư dân ở đây đến từ các vùng miền khác nhau của đất  
nước, kể cả những người nước ngoài. Tất cả các dân tộc sinh sống ở đây đã tạo nên một  
nét văn hóa đặc sắc riêng cho Thành phố mà không nơi nào có được. Họ mang đến nơi  
đây những sự khác biệt về tôn giáo, dân tộc, phong tục tập quán, văn hóa, lối sống, nhưng  
tất cả đều được tiếp biến, hòa quện vào nhau để cùng hướng đến xây dựng một Thành phố  
văn minh, hiện đại, nghĩa tình.  
Là một trung tâm về kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ, nên ngoài lực lượng  
công nhân, nông dân, tiểu thương, Thành phố còn là nơi thu hút một lực lượng lớn trí  
thức, văn nghệ sĩ, nhà báo từ các địa phương khác đến để định cư, phát triển nghề nghiệp.  
Theo thống kê năm 2015, lực lượng lao động của Thành phố chỉ chiếm 9% lao động cả  
nước, nhưng số lượng có trình độ đại học, cao đẳng chiếm đến 21,2% tổng số lao động  
trình độ cao của cả nước. Trí thức của Thành phố hiện chiếm khoảng 1/5 số trí thức của cả  
nước, trong đó có trên 15.000 người làm khoa học, hàng nghìn người có học hàm, học vị  
giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sĩ.  
Kết cấu dân số giai đoạn này đang đặt ra cho báo chí Thành phố những yêu cầu  
ngày càng mới và cao hơn so với trước đây. Đây là điều kiện tốt cho báo chí phát triển,  
nhưng đồng thời cũng tạo những khó khăn, phức tạp và thách thức lớn. Bởi lẽ, đội ngũ trí  
thức Thành phố với những phẩm chất năng động, sáng tạo, đi đầu, dám chấp nhận thử  
thách luôn đòi hỏi cao về chất lượng thông tin từ báo chí. Đồng thời, họ còn là những  
công chúng báo chí luôn tích cực tham gia trao đổi, thảo luận, phản biện những vấn đề của  
đất nước được báo chí phản ánh, tạo không khí công khai dân chủ, minh bạch thông tin  
hai chiều góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.  
Đời sống vật chất ngày càng nâng cao làm cho đời sống văn hóa tinh thần và bộ mặt xã  
hội Thành phố mỗi lúc phát triển theo hướng văn minh và hiện đại. Lối sống văn hóa của cư  
dân đô thị Thành phố đã được định hình từ những thập niên trước đến nay vẫn tiếp tục được  
duy trì. Chi phí cho các dịch vụ về ăn uống, đi lại giảm đi, trong khi mức chi cho giáo dục và  
các hoạt động văn hóa thể thao, giải trí tăng lên. Bên cạnh đó, những điều kiện về hạ tầng kỹ  
thuật và trình độ dân trí, kết cấu dân cư, thiết chế văn hóa của Thành phố ngày càng được  
99  
nâng cao. Tất cả những nhân tố này trở thành “bệ đỡ” tạo đà thúc đẩy nền báo chí Thành phố  
phát triển mạnh mẽ, tiếp tục khẳng định vị thế là nơi khai sinh của nền báo chí Việt Nam.  
Theo các nghiên cứu gần đây, thời điểm năm 2006 đã xuất hiện rất nhiều các mạng xã  
hội với những tiện ích nổi trội không chỉ đối với người sử dụng mà còn có tác động rất  
mạnh mẽ đến quy trình, công nghệ, phương pháp và kỹ thuật làm báo truyền thống. Đó là  
sự xuất hiện thông dụng của mạng Blog, Yahoo... khiến các cá nhân đều có thể coi như tạo  
được diễn đàn của riêng mình để kết nối, trao đổi truyền tin. Điều này khiến cho chính trong  
năm này, các cơ quan báo chí cả nước nói chung và tại TPHCM nói riêng phải chạy đua,  
thay vì như trước chỉ có thêm báo online song song với tờ báo in giấy, thì nay phải đối diện  
với thách thức thực sự (không chỉ còn là nguy cơ dự báo như trước) có thêm các hình thức  
mới nhằm đáp ứng được nhu cầu thông tin của xã hội. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các hình  
thức báo in giấy truyền thống của các cơ quan báo chí trên địa bàn TPHCM vốn đã hình  
thành từ trước cho đến thời điểm này, còn thêm sự cạnh tranh của các mạng xã hội được  
thiết lập từ năm 2006, với hàng loạt các tên tuổi xét trên bình diện báo chí thế giới. Đến thời  
điểm năm 2016, trong 10 năm đã có độ lùi ở thời điểm này, những tiến bộ và sử dụng tiện  
ích của mạng xã hội, thói quen sử dụng thiết bị di động ngày càng hiện đại cập nhật thông  
tin từng giờ từng phút, nhất là khi đã có hàng chục triệu người coi mạng xã hội Facebook  
là phương tiện không thể thiếu, lại có thể dùng miễn phí trên mạng toàn cầu Viber thì có  
thể nói như một nhà nghiên cứu: mỗi người đều có thể là nhà báo, có quyền phát ngôn và  
chia sẻ cũng như nhận được tương tác với hàng triệu người.  
Trong thời đại công nghệ số phát triển như vũ bão, thói quen đọc, nghe, xem của  
con người cũng thay đổi với sự xuất hiện của những chiếc smartphone, iphone, ipad cầm  
tay, thay cho những tờ báo, những chiếc radio, những chiếc ti vi truyền thống. Thực tế cho  
thấy, nếu một tòa soạn chỉ có báo in, truyền hình hay báo mạng vẫn chưa đủ, mà cần có  
các phiên bản cho máy tính bảng, điện thoại di động theo thiết kế chuyển đổi linh hoạt.  
Đây là xu hướng mới của báo chí hiện nay. Với đặc thù nhỏ gọn, tích hợp nhiều trình  
duyệt khác nhau, phiên bản dành cho smartphone (điện thoại thông minh) đã trở thành  
loại hình báo chí phát triển với tốc độ chóng mặt. Vì thế, đọc báo trên điện thoại thông  
minh đang dần trở thành thói quen của phần lớn công chúng báo chí Thành phố.  
Trước những hệ thống mạng mở, ra đời ngày càng nhiều, cho phép người dùng chia sẻ  
thông tin và dễ dàng tiếp cận, các hình thức chuyển tải thông tin chính thống sẽ trở nên lạc  
hậu, chậm tiếp cận với thông tin hơn. Độ trễ về thời gian và tuổi thọ thông tin ngắn ngủi là  
sức ép để không ít các cơ quan báo chí, nhất là báo điện tử và trang tin điện tử sử dụng bừa  
bãi những nguồn tin không chính thống dẫn đến sự sai phạm và gây ảnh hưởng xấu đến xã  
hội. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh và nên coi như yếu tố truyền thống, một trong những đặc  
điểm văn hóa nổi bật của người dân Thành phố là thói quen mua báo và đọc báo vẫn duy trì.  
Họ coi báo chí là món ăn tinh thần không thể thiếu trong nhu cầu văn hóa. Mặc dù đã bước  
sang kỷ nguyên công nghệ hóa, song vẫn còn gặp trên đường phố những công nhân viên  
chức, người đạp xích lô, người hớt tóc ven đường vừa uống cà phê vừa đọc báo trên điện  
thoại thay vì cầm tờ báo giấy như trước. Thói quen đọc báo của cư dân Thành phố trở thành  
nếp sinh hoạt đời thường ngay cả đối với những người lao động bình dân. Từ năm 2016  
100  
Tp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S3(52)-2021  
ngược về trước, thói quen mua báo và đọc báo của cư dân Thành phố đã tạo tính đa dạng và  
cạnh tranh khốc liệt, thúc đẩy sự phát triển cho thị trường báo chí Thành phố những năm qua.  
Cho đến bây giờ, người đọc báo báo giấy dù đã ít đi rất nhiều so với trước, nhưng  
vẫn đang hiện diện trong đời sống như một minh chứng cho sức sống của một giá trị văn  
hóa. Còn rất nhiều người dân Thành phố vẫn giữ cho mình thói quen cầm một tờ báo mới  
in và thưởng thức thông tin, cũng như những cảm giác riêng có rất đặc biệt mà báo mạng  
không thể có. Đó là cảm giác được “sống chậm”, được nghiền ngẫm và suy tưởng để nhìn  
chính mình rõ hơn. Thêm vào đó, với một số người đọc, trước những thông tin ào ạt và  
thiếu chọn lọc, cũng như độ chính xác (một mặt trái của ưu điểm “nhanh”) trên những  
trang báo mạng, thì một tờ báo giấy có uy tín sẽ là lựa chọn hàng đầu của công chúng báo  
chí. Thay vì chạy theo thông tin thời sự như báo mạng, những tờ báo giấy có thể chọn  
cách phân tích chuyên sâu những vấn đề thời sự, lý giải ngọn nguồn những vấn đề công  
chúng báo chí quan tâm, đó là điều kiện để một số báo chí duy trì lượng độc giả tương đối  
ổn định của mình.  
Ngoài khía cạnh là kênh cung cấp các chương trình văn hóa, giải trí, cung cấp tin  
tức, thời sự, nâng cao hiểu biết, các phương tiện truyền thông đại chúng còn là chỗ dựa  
cho người dân Thành phố. Chính vì thế hầu hết các tờ báo đều mở diễn đàn để công chúng  
tham gia đóng góp ý kiến, trao đổi, thảo luận các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của đất  
nước và thành phố. Điều này còn có ý nghĩa quan trọng đối với khu vực đô thị như  
TPHCM với các sự kiện xã hội diễn ra hết sức sôi động đến mức khiến người dân mỗi  
ngày không đọc báo sẽ trở nên lạc hậu (Trần Hữu Quang, 2006, tr.34).  
Mặc dù trước sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông đại chúng,  
trước sự cạnh tranh khốc liệt của phát thanh, truyền hình và báo mạng điện tử; nhưng báo  
giấy là loại hình truyền thông đại chúng mang tính truyền thống và thói quen đọc báo in  
giấy vẫn là nét sinh hoạt trong nếp sống của người dân Thành phố. Nếu như năm 2000,  
TPHCM có 31 đơn vị báo in thì đến tháng 6/2010, thành phố có 39 cơ quan báo in giấy  
gồm 18 báo và 21 tạp chí. Điều đó chứng tỏ, đến thời điểm khảo sát, báo in giấy tại Thành  
phố vẫn được sự đón nhận của công chúng báo chí.  
Một điều cần nhấn mạnh nữa, nếu như chúng ta thấy báo chí Thành phố làm được  
những điều vẻ vang, vinh dự và những gương mặt báo chí đóng đinh tên tuổi của mình ở  
những tờ báo đình đám nhất của hơn 30 năm là còn bởi họ đã có một công chúng báo chí  
sôi nổi, tích cực. Đó là những bạn đọc trung thành, sáng suốt nhạy bén, chỉ cho những tờ  
báo yêu thích những điều mình cần phải làm. Chính người dân Thành phố, với những đặc  
tính đã phân tích, đã góp phần làm nên phong cách riêng biệt và thành tựu mà báo chí  
hiếm nơi nào có được.  
4. Kết luận  
Như vậy, với những chủ trương, hướng đi đúng đắn và cách làm năng động, sáng  
tạo, trong những năm 2006-2016 Thành phố đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn  
101  
diện, tạo ra sự chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội, trở thành một đô thị đặc biệt,  
một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của Vùng  
kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước. Những thành tựu đạt được trong tăng trưởng  
kinh tế đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, nâng cao mức hưởng thụ của người dân  
Thành phố trên các phương diện về văn hóa, giải trí. Điều đó mang đến những thời cơ,  
thuận lợi và cả khó khăn, thách thức cho nền báo chí Thành phố nói chung và đội ngũ  
những người làm báo nói riêng. Báo chí Thành phố cần phải khẳng định và đề cao hơn  
nữa bản chất cốt lõi nghề nghiệp: đó là sự đưa tin chính xác, trung thực. Tính chính xác,  
khách quan, trung thực, nhạy bén trong quá trình chuyển tải thông tin đến những công  
chúng báo chí không chỉ là trách nhiệm xã hội, mà còn là lẽ sống của người làm báo và  
các cơ quan báo chí TPHCM.  
Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt với mạng xã hội như hiện nay, cách thức tiếp  
cận thông tin báo chí của người dân Thành phố đã có sự thay đổi so với những thập niên  
trước. Bên cạnh những công chúng báo chí vẫn giữ sự trung thành của mình với tờ báo  
giấy, đã xuất hiện thói quen đọc báo trên những thiết bị di động. Với các phương tiện di  
động thông minh, con người hưởng thụ thông tin ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào và bằng  
nhiều giác quan của mình. Đó là một thực tế mà các cơ quan báo chí phải nhìn nhận và đối  
mặt. Đây cũng là thách thức chung của báo in trên cả nước, không chỉ riêng TPHCM.  
Điều quan trọng là phải luôn đặt công chúng là ưu tiên số một, cho dù làm báo trên nền  
tảng hay bất cứ phương thức nào. Đó cũng là phương thức duy nhất để báo giấy luôn có vị  
trí trong lòng công chúng.  
TÀI LIU THAM KHO  
[1] Nguyn Thị Trường Giang (2014). Báo mạng điện tnhng vấn đề cơ bản. NXB. Chính trị  
Quc gia.  
[2] Nguyn Thị Trường Giang (2018). Xu hướng phát trin ca báo chí trong kỷ nguyên kĩ thuật s.  
[3] Hc vin Cán bTPHCM (2017). Môn hc vThành phHChí Minh. NXB Tng hp  
TPHCM.  
[4] Dương Hồng Lâm (2017). Để thành phHChí Minh phát trin nhanh, bn vng. Báo Nhân dân.  
[5] Dương Kiều Linh (2017). Báo chí thành phHChí Minh trong 20 năm đầu đổi mi  
(1986-2006). NXB Đại hc Quc gia TPHCM.  
[6] Đảng Cng sn Vit Nam (2006). Văn kiện Đại hội Đại biu Toàn quc ln thX. NXB  
Chính trQuc gia.  
[7] Đảng Cng sn Vit Nam (2007). Văn kiện Hi nghln thứ năm Ban Chấp hành Trung ương  
khóa X. NXB Chính trQuc gia.  
[8] Đảng Cng sn Vit Nam (2011). Văn kiện Đại hội Đại biu Toàn quc ln thXI. NXB  
Chính trQuc gia.  
[9] Đảng Cng sn Vit Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biu Toàn quc ln thXII. NXB  
Chính trQuc gia.  
102  
Tp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S3(52)-2021  
[10]Trn Hu Quang (2006). Xã hi hc báo chí. NXB Tr.  
[11]Thành y TPHCM (2015). Nhng vấn đề chyếu của Văn kiện Đi hi Đảng bTPHCM ln  
thX nhim k2015-2020. NXB Tng hp TPHCM.  
[12]Thành y TPHCM (2010). Báo cáo chính trị đại hội đại biu Đảng bTPHCM ln thIX  
nhim k2010-2015. Thành y TPHCM.  
[13]TNgc Tn (2002). Báo chí và mt svấn đề khoa hc thc tin. NXB. Chính trQuc gia.  
[14]y ban Nhân dân TPHCM (2015). Báo cáo  ết quả thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội, ngân  
sách   năm (20  -20  ), phương hướng, m c tiêu, nhiệm v , giải pháp   năm (20 6-2020),  
ngày 12/08/2015. y ban Nhân dân TPHCM.  
[15]y ban Nhân dân TPHCM (2016). Báo cáo 06/BC-UBND vtình hình kinh tế văn hóa xã  
hi, ngân sách, quốc phòng an ninh năm 20  , m c tiêu, nhim v , giải pháp năm 20 6, ngày  
08/01/2016. y ban Nhân dân TPHCM.  
[16]Vin Nghiên cu Phát trin TPHCM (2008). Đô thị hóa Sài Gòn Thành phHChí Minh  
tgóc nhìn lch sử văn hóa. NXB Tng hp TPHCM.  
103  
pdf 13 trang baolam 16/05/2022 2660
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của kinh tế, dân cư và văn hóa đến hoạt động của báo chí ở thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_kinh_te_dan_cu_va_van_hoa_den_hoat_dong_cua_ba.pdf