Nghiên cứu tiếp nhận Phật giáo Theravāda Thái Lan: Trường hợp Tình người duyên ma
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
TẬP 6 SỐ 4
NGHIÊN CỨU TIẾP NHẬN PHẬT GIÁO THERAVĀDA THÁI LAN:
TRƯỜNG HỢP TÌNH NGƯỜI DUYÊN MA
Nguyễn Thành Trung
Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh
Nhận bài ngày: 6/6/2019; Ngày duyệt đăng: 27/08/2019
Tóm tắt
Bài viết khảo sát một số phương diện của Phật giáo Theravāda Thái Lan thông qua bộ phim
Tình người duyên ma từ góc nhìn tiếp nhận. Phương pháp của Mỹ học tiếp nhận được vận dụng
nhằm cung cấp một góc nhìn khác về Phật giáo Theravāda đồng thời đặt nền tảng cho việc diễn giải
những biến đổi của đối tượng này trong tiếp nhận truyền thông của công chúng. Sự tiếp nhận của
công chúng về Phật giáo nói chung và Phật giáo Theravāda Thái Lan nói riêng cũng được làm sáng
tỏ thông qua liên hệ với một số bộ phim kinh dị Việt Nam cùng giai đoạn.
Từ khóa: Tình người duyên ma, Phật giáo Theravāda Thái Lan, phim ma – kinh dị, tiếp nhận
Reception of Thailand Theravāda Buddhism: On the Case of Phi Mak Phra Khanong
Abstract
The article explores some aspects of Thailand Theravāda Buddhism through the film of Phi Mak
Phra Khanong from reception perspective. The method and theory of reception aesthetics are used
to provide a different perspective on the Theravāda Buddhism and create a basis to interpret these
objects in the reception of public’s media. The public reception of Buddhism in general and Thailand
Theravāda in particular has also been clarified by connecting to some Vietnamese horror films of
the same period.
Keywords: Phi Mak Phra Khanong, Thailand Theravāda Buddhism, horror film, reception
mới thực sự được ý thức đầy đủ với hướng
nghiên cứu Mỹ học Tiếp nhận (Receptional
Aesthetic) của trường phái Konstanz Đức những
năm 1960.
1. Nghiên cứu tiếp nhận Phật giáo
Tiếp nhận – reception – trong tiếng Latin là
receptionem nghĩa là sự tiếp nhận, xuất phát từ
recipere: lấy lại, chiếm lại, hồi phục, thừa nhận;
trong tiếp Pháp cổ (recoivre) nghĩa là chiếm giữ,
chào đón, chấp nhận. Bản thân từ recipere là sự
cấu thành của gốc re (lại) và cipere (capere – lấy
và kap – hiểu thấu). Đến thế kỷ XIV, reception
trở thành thuật ngữ ngành chiêm tinh chỉ sự
tương tác giữa các hành tinh. Như vậy, tiếp nhận
mang các nét nghĩa như sau: nhận, hiểu, tác
động và trở lại – tức sự nhận thức lần thứ hai và
có khả năng tác động, quy định trở lại sự vật
hiện tượng. Trong văn học nghệ thuật, từ xa xưa
người ta đã nghiên cứu phương diện sáng tác,
tức tập trung vào bản thân tác giả: tìm hiểu dấu
vết đặc điểm thời đại, văn hóa đất nước, bối
cảnh gia đình và quan niệm sáng tác của nhà văn
trên tác phẩm. Tuy cũng có lúc vai trò của người
tiếp nhận được quan tâm, như điển tích Bá Nha
và Tử Kỳ, nhưng mãi đến thế kỷ XX, tiếp nhận
Mỹ học tiếp nhận xuất phát từ hai nguồn gốc
và từ đó phát triển thành hai hướng: Hiện tượng
học và Giải thích học. Quan niệm giải thích học
của Heidegger chỉ ra mọi văn bản và sự giải
thích đều mang tính lịch sử, từ đó Gadamer xác
định có một thứ tiền kết cấu của văn bản bao
gồm động cơ, tầm nhìn, kinh nghiệm, bối
cảnh… sẽ tạo nên ý nghĩa riêng cho mỗi người
đọc khi tiếp xúc văn bản. Jauss đề xuất khái
niệm tầm đón nhận – kinh nghiệm, trình độ, tính
cách, khí chất, thị hiếu của người đọc khi giải
thích văn bản. Khuynh hướng hiện tượng học
của Husserl – nhấn mạnh tính ý hướng của hoạt
động ý thức – đã gợi ý cho Ingarden khẳng định
văn bản là một khách thể mang tính ý hướng,
Iser thì quan sát hành động đọc cụ thể mang tính
cá nhân và phân biệt rằng mỗi văn bản bao gồm
71
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
VOLUME 6 NUMBER 4
tự nó một người đọc ẩn tàng, người đọc ẩn tàng
này được chi phối bởi cấu trúc vẫy gọi với
những điểm chưa xác định/ bỏ trống liên tục mời
gọi sự diễn giải; điều này có nghĩa người đọc sẽ
luôn có một cái nhìn động để điền đầy những
chỗ trống mà văn bản đề xuất.
vấn đề Tiếp nhận tranh tượng Phật giáo Trung
Hoa ở phương Tây… Ở Việt Nam những nghiên
cứu về Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta
và ảnh hưởng của nó trong các thế kỷ 10 -14 của
Lê Tuấn Huy (2008), Phật giáo từ Ấn Độ trực
tiếp truyền vào Việt Nam như thế nào của Lâm
Như Tạng (2010), Phật giáo Việt Nam trong mối
giao lưu – tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ của
Nguyễn Công Lý (2012)… cũng là một hình
thức tiếp nhận. Tuy nhiên những tiếp nhận này
ở mức bộ phận hữu hình, cụ thể của Phật giáo;
cơ bản chỉ là hiện tượng và chưa có nhu cầu đặt
ra vấn đề lý luận về tiếp nhận Phật giáo khiến
các nghiên cứu chưa có mối liên kết chỉnh thể
và hướng phát triển chung xứng tầm. Nếu Jauss
(1967) trong công trình Lịch sử văn học như là
sự thách thức đối với khoa nghiên cứu văn học
từng đưa ra kết luận rằng lịch sử văn học thực
chất là lịch sử tiếp nhận văn học thì trên tinh
thần ấy, nếu chấp nhận hết tính táo bạo của vấn
đề, có thể nói: lịch sử Phật giáo thật ra là lịch sử
tiếp nhận Phật giáo vì những lẽ sau:
Thứ nhất, việc tiếp nhận và ảnh hưởng ngược
lại văn bản gốc xảy ra bởi chính Đức Phật với
vai trò kép tác giả – người tiếp nhận tức người
đọc lý tưởng nhất – đã tùy thời chỉnh sửa giới
luật; đơn cử như trong 348 giới điều Tỳ kheo ni,
nhóm 2 – 17 pháp Tăng tàn, pháp thứ 4 cấm tăng
ni thưa kiện người nhưng sau đó được Phật chế
lại cho phép nếu tòa mời hay có việc chính đáng
thì vẫn được phép đến cửa quan.
Mỹ học tiếp nhận đã thực sự mở ra một
khuynh hướng nghiên cứu mới cho không chỉ
văn học nghệ thuật mà còn cả ngành khoa học
xã hội khi hiểu khái niệm “văn bản” rất rộng,
bao hàm tất cả các đối tượng vật chất lẫn tinh
thần. Đóng góp của Mỹ học tiếp nhận là các mô
hình, cấu trúc, khái niệm để nghiên cứu hoạt
động đọc, diễn giải một cách cụ thể và khoa học,
từ đó giải thích được các vấn đề như hiện tượng
ý nghĩa của văn bản vượt ra khỏi dự định tác giả,
một văn bản bị cấm sau nhiều năm lại được đón
nhận ồn ào hay các cộng đồng đánh giá khác
nhau về cùng một văn bản, tác phẩm. Tuy nhiên,
do quá đặt nặng vai trò của người tiếp nhận mà
lý thuyết này đã xem nhẹ khâu sáng tác, cho
rằng ý nghĩa của tác phẩm hoàn toàn do người
đọc quyết định, đưa đến kết luận kiểu Hậu cấu
trúc: mỗi người tự có một ý nghĩa riêng – khá
tùy tiện và mơ hồ. Thật ra tiếp nhận tuy quan
trọng nhưng vẫn không thể là khâu quyết định,
thay thế vai trò sáng tạo. Mối quan hệ giữa sáng
tạo và tiếp nhận chặt chẽ theo kiểu: sáng tạo
quyết định, tiếp nhận ảnh hưởng ngược lại. Bản
thân các nhà Mỹ học tiếp nhận trong khi lập
thuyết cũng đề cập đến kết cấu vẫy gọi – tức
những khoảng trống trong văn bản được tạo nên
theo nguyên tắc lạ hóa, hình thành khoảng cách
đối với tầm đón nhận của người đọc, tuy không
trực tiếp nhưng vẫn thể hiện vai trò của người
sáng tạo. Mối quan hệ biện chứng này về sau
cũng được nhà nghiên cứu Đông Đức Nauman
làm rõ theo quan niệm Marxist.
Thứ hai, bản chất tiếp nhận của Phật giáo thể
hiện rõ nhất trong hoàn cảnh truyền miệng,
không ghi chép thành văn bản; đến khi kết tập
bởi không có bản chính đối chiếu nên phương
tiện duy nhất là trí nhớ cá nhân và được tập thể
xác nhận. Trí nhớ cá nhân đương nhiên chịu tầm
đón đợi chi phối, tập thể này chính là cộng đồng
diễn giải (interpretative community) mà Stanley
Fish đã đề xuất khái niệm1. Cần lưu ý là điều
kiện các lần kết tập mang đậm tính diễn giải tiếp
nhận. Lần kết tập thứ nhất là ba tháng sau khi
Giới nghiên cứu chẳng phải chưa từng nhìn
Phật giáo dưới ánh sáng tiếp nhận. Levering
(1989) đã nghiên cứu Điêu khắc và tiếp nhận:
Trường hợp Phật giáo, Gillman (1997) đã đặt
1 “Cộng đồng diễn giải” được đề xuất năm 1980 khi Fish
nhấn mạnh rằng không phải văn bản hay người đọc tạo nên
các nghĩa của văn bản mà là các cộng đồng diễn giải trên
cơ sở tương đồng ý kiến các thành viên và tạo sự ổn định
trong nhóm. Điều này cũng có nghĩa là cộng đồng diễn giải
cũng tạo nên các thành viên cho mình thông qua mục đích
diễn giải. Như vậy hành động tiếp nhận đã biến thành
chuyển hóa của nhóm dưới những mục đích, định hướng
nhất định, tức mang tính lịch sử và tình cảm xác lập trong
quá trình diễn giải.
72
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
TẬP 6 SỐ 4
Đức Phật viên tịch, lần 2 hơn 100 năm sau, hai
lần này phương pháp là trả lời các câu hỏi về
Luật và Kinh sau đó cùng tụng lại. Chuyện kết
tập phải đợi Ananda là vị A la hán thứ 500 cũng
nói lên tính cá nhân, tiếp nhận của vấn đề.
Thứ ba, bởi tính tiếp nhận của các cộng đồng
diễn giải mà Phật giáo sau thời Nguyên thủy
tương đối thống nhất đã bắt đầu phân bộ phái và
về sau trở thành hai nhánh lớn Mahayana và
Theravāda với những vấn đề còn kéo dài đến
nay. Nhìn dưới góc độ lịch sử thì mâu thuẫn này
không thể giải quyết, đồng thời các kinh văn ra
đời sau khi Đức Phật nhập diệt đều không có giá
trị. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp nhận thì bản thân
giáo lý như một cấu trúc vẫy gọi mà những
khoảng trống đã không ngừng kêu gọi sự tiếp
nhận và chuyển hóa từ phía cộng đồng với mục
đích thống nhất là giải thoát. Bên cạnh đó việc
đề cao tính tự nỗ lực của hành giả trong vai trò
tiếp nhận cũng chính là điều mà Đức Phật liên
tục nhấn mạnh trong suốt quá trình giảng dạy
của mình. Nhìn ra bên ngoài, thật ra tiếp nhận
cũng là bản chất của lịch sử phát triển các tư
tưởng và tôn giáo khác. Tư tưởng của Jesus chỉ
có thể phát triển và ảnh hưởng đến thế giới
thông qua sự tiếp nhận của các môn đệ, chủ yếu
là 04 quyển Tin mừng do 04 môn đệ thuộc các
giai đoạn khác nhau biên soạn (trong và sau khi
Jesus qua đời, người viết sớm nhất cũng đến 30
năm sau Jesus qua đời) và được Giáo hội phê
duyệt, điều chỉnh. Tư tưởng Marx cũng được
Angel tiếp nhận và hoàn thành, được Lenin,
Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh… tiếp nhận và
phát triển trên nhiều phương diện khác nhau.
Theo ý nghĩa đó, chúng tôi tiến hành khảo
sát các dấu vết và đặc điểm Phật giáo Theravāda
Thái Lan thông qua bộ phim Tình người duyên
ma như một trường hợp tiếp nhận cụ thể và
mạnh mẽ bởi truyền thông.
hơn 2 tháng ra mắt đã trở thành phim ăn khách
nhất mọi thời đại của Thái Lan và thu hút cả
khán giả Indonesia, Myanmar, Campuchia,
Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Lào, Việt
Nam và Đài Loan; riêng thị trường Việt Nam
sau 10 ngày công chiếu đã thu về 8 tỷ tiền vé.
Lịch sử điện ảnh Thái với dòng phim ma và
truyền thống văn hóa đậm chất Phật giáo
Theravāda Thái Lan là cơ sở cho sự ra đời và
thành công của bộ phim Tình người duyên ma
(Pee Mak Prakanong). Điện ảnh Thái Lan khởi
từ triều đại vua Chulakongkorn (1868-1910) thể
hiện một số đặc điểm chính như: sự kết hợp kinh
tế và văn bản văn học, các yếu tố phương Tây
và bản địa Thái, sự mềm dẻo của tầng lớp lãnh
đạo trong việc phát triển công nghiệp điện ảnh.
Sungsri (2004) trong luận án Thai Cinema as
National Cinema: An Evaluative History đã quy
điện ảnh Thái về 3 nhân tố chính: quốc gia, tôn
giáo, vương triều. Văn hóa tôn giáo định hình
nghệ thuật điện ảnh Thái Lan từ thái độ tôn
trọng sư sãi, kính trọng hoàng gia, lý nhân quả,
nghiệp báo… như tuyến tư tưởng chính của đất
nước chùa vàng. Với dòng phim kinh dị (phim
ma), điện ảnh Thái cũng tạo được cho mình tính
chất riêng. Phim ma thỏa mãn nhu cầu được sợ
của con người: đó là nghệ thuật hóa thân và gián
cách cần thiết; người xem được thể nghiệm
thành nhân vật trong hành trình truy tìm bóng
ma và những nguyên nhân nhưng cũng gián
cách đúng lúc khi nguy hiểm, căng thẳng thần
kinh lên cực điểm (che mặt, nhắm mắt, ý thức
về bản thân khỏi nhân vật). Nhấn mạnh cảm
giác, thính giác chính là đặc trưng của dòng
phim ma châu Á. Cương thi của Trung Quốc,
vong hồn của Đông Nam Á… khác biệt các
cảnh kinh dị thị giác, cảnh giết người (tác động
trực tiếp) mà phim Hàn Quốc du nhập từ phương
Tây (phim kinh dị Mỹ). Điện ảnh Thái Lan nói
chung và dòng phim kinh dị nói riêng vì thế đặc
biệt quan tâm đến cảm nhận của người xem, tức
khâu tiếp nhận khi kết hợp khéo léo cốt truyện
kịch tính kiểu phương tây và đời sống văn hóa
phương Đông, tiểu biểu là loạt phim Art of
Devils (Chơi ngãi). Người châu Á nói chung và
Thái Lan nói riêng dưới ảnh hưởng Phật giáo có
truyền thống lâu đời trong quan niệm đời sống
2. Bộ phim Tình người duyên ma và dấu
vết, chức năng các hình tượng Phật giáo
Theravāda Thái Lan
Tình người duyên ma (Pee Mak Phra
Khanong/ Phi Mak Phra Khanong/ Pee Mak) là
một bộ phim kinh dị - hài hước - tâm lý - tình
cảm - cổ trang Thái Lan do Banjong
Pisanthanakun đạo diễn, sản xuất năm 2013, sau
73
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
VOLUME 6 NUMBER 4
thế giới này xen lẫn cả hữu hình lẫn vô hình, đời
sống con người lẫn hồn ma. Loạt phim The Eye
(Đôi mắt âm dương) đề cập tính hỗn dung này
thông qua 10 cách đơn giản nhất để gặp ma
(Cách nhìn qua háng một lần nữa được vận dụng
trong Tình người duyên ma). Là cột trụ tư tưởng
Thái Lan, Phật giáo Theravāda còn tiếp thu từ
Ấn Độ cả tín ngưỡng ma thuật Hindu giáo khi
các tỳ kheo kiêm luôn vai trò của pháp sư trong
việc dùng nghi lễ, thần chú để trừ tà, diệt ma.
Tuy nhiên, khác với các pháp sư dân gian gắn
với hoạt động bùa ngãi, thư ếm, tỳ kheo
Theravāda xuất hiện trong phim thực hiện chức
năng pháp thuật không mâu thuẫn với đạo đức.
Ma là hình tượng khá phổ biến trong các nền
văn hóa, thường được hiểu là phần linh hồn
người chết, sau khi lìa khỏi thể xác nhưng vẫn ở
lại trần gian, thường gây cảm giác sợ hãi bởi
những dị hình dị năng. Hồn ma ở Thái Lan được
ngưỡng dân gian, Phật giáo Theravāda còn đóng
góp vị trí quan trọng vào trong các truyền thuyết
địa phương vì thế mà nhiều vị sư xuất hiện trong
các câu chuyện ma. Ma, vì thế, thể hiện tính chất
mềm dẻo của Phật giáo nói chung và Theravāda
Thái Lan nói riêng, tức một mảnh của Pháp.
Nếu hình tượng ma phổ biến không chỉ trong
Phật giáo Thái Lan mà còn ở nhiều nước khác
thì hình ảnh chùa chính là một đặc trưng trong
tinh thần người dân xứ chùa vàng. Thái Lan là
nước có tín đồ Phật giáo đông thứ hai trên thế
giới, chiếm 95 phần trăm dân số. Với đặc điểm
Phật giáo Theravāda, chùa Thái không thờ hệ
thống Phật tượng phong phú như chùa
Mahayana Trung Quốc mà chỉ có tượng Đức
phật Thích Ca, bối cảnh ngôi chùa Mahabut khi
nàng Nak truy đuổi nhóm bạn của chồng chính
là được xây dựng theo nguyên tắc này: chỉ có
một bức tượng Thích Ca giữa chính điện, xung
quanh trải chiếu và đốt nến. Khi bị Nak truy
đuổi, nhóm bạn Mak chạy thẳng vào chùa và
nhanh chóng chuẩn phòng tránh sự tấn công, trả
thù của hồn ma. Hình tượng điện ảnh khắc họa
đối lập rất rõ ở cảnh này: phía trong chánh điện
thì nến sáng rực với tượng Phật uy nghiêm, bên
ngoài trời tối và không ngớt gió mưa. Chùa
Theravāda Thái Lan, như vậy, đóng vai trò quan
trọng trong đời sống tinh thần người Thái với tư
cách là nơi an toàn, bảo vệ khỏi mọi thế lực đen
tối với hình ảnh của Phật.
Trong câu chuyện Mae Nak Phra Khanong
thì các nhà sư có vai trò quan trọng trong việc
giải quyết vấn đề, tạo sự yên ổn cho đời sống.
Giữa những pháp sư ra tay trấn yểm thì xuất hiện
một nhà sư với giải pháp triệt để lâu dài là sư
Somdej Toh, người cất phần linh hồn Nak vào
thắt lưng và đeo suốt đời. Sư Somdej Toh (1788-
1872) là nhân vật có thực và rất nổi tiếng trong
lịch sử Thái Lan với khả năng pháp thuật mạnh
mẽ và những bùa chú hiệu nghiệm. Sư Somdej
Toh còn chuyển tải kinh phật vào thơ ca và ngôn
ngữ Thái Lan, ông được cả giới quý tộc lẫn bình
dân kính phục. Ngày nay hình ảnh của ông trở
thành biểu tượng tôn giáo ở Bangkok. Việc sư
Somdej Toh có thực tham gia vào câu chuyện
hay không khó mà khảo chứng nhưng rõ ràng
vai trò của nhà sư Theravāda trong câu chuyện
gọi là Phi (ผ)ี , thường xuất hiện vào ban đêm;
theo các câu chuyện kể thì hồn ma thường gắn
liền với những địa điểm cụ thể như cây cối,
nghĩa trang; người ta phân biệt các loại ma cũng
trên tiêu chí ấy. Ma ở rừng núi có Phi Khao
(ผเขา) and Phi Pa (ผปา), ma cây là Nang Mai
(นางไม ), ma ở các địa phương như Phi Pan Nam
Range (ทวเขาผปนนา), Phae Mueang Phi
(แพะเมองผ) và nổi tiếng nhất là Mae Nak Phra
Khanong (nàng Mak ở Phra Khanong). Phật
giáo Theravāda được truyền đến Thái Lan vào
khoảng thế kỷ III trước Công Nguyên sau cuộc
truyền đạo của vua Asoka, khoảng thế kỷ XI và
XII sau Công Nguyên lại tiếp tục nhận thêm sự
truyền bá từ Srilanka và Myanmar. Từ thế kỷ
XIII dưới triều Sukothai, Phật giáo Theravāda
phát triển mạnh và nắm giữ vai trò quốc giáo
đến nay. Phật giáo Theravāda thường đơn giản,
cụ thể, ít lý luận nên hình thành hệ thống đối
tượng tiếp nhận rất lớn. Đặc biệt là tinh thần
khoan dung, sẵn sàng vận dụng các chất liệu dân
gian, địa phương như cách mà đức Phật giảng
về Phạm Thiên khiến cho Phật giáo dễ dàng
dung hợp các lớp truyền thống bản địa, tránh
mâu thuẫn tranh chấp và len sâu vào đời sống
tinh thần nhiều khu vực tiếp nhận. Tại Thái Lan
(cũng như nhiều nước khác), không phủ nhận tín
74
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
TẬP 6 SỐ 4
của nàng Nak thì không thể phủ nhận. Với vai
trò là người thầy, người chỉ con đường sáng, vị
tăng này không tiêu diệt hồn ma mà chỉ cầm giữ
linh hồn nàng Nak bên người không ngoài mục
đích chuyển hóa sân hận trong lòng cô bằng thời
gian suốt cuộc đời mình. Bởi vậy, có một phiên
bản khác kể rằng chính nhà sư đã khuyên giải
nàng Nak về nghiệp báo, luân hồi, tức khả năng
cô đoàn tụ với chồng là hoàn toàn chắc chắn; kết
quả Nak tự nguyện về thế giới bên kia. Với địa
vị cao trong xã hội Thái, các nhà sư trở thành
đối tượng tôn kính mà phụ nữ tuyệt đối không
được đụng chạm; khi dâng lễ họ chỉ được đặt
dưới chân sư, sư ban phúc lành cho nữ cũng
thông qua đầu nến hoặc đũa. Trong bộ phim,
một nhà sư đứng ra bảo vệ nhóm bạn của Mak,
ông ngồi trước, đương đầu với nàng Nak trong
bộ dạng dễ gây kinh khiếp. Đặc biệt, khi nhà sư
thất thế, khác với truyền thống phim ma, kinh dị
của Mỹ hay Trung Quốc, các đối tượng đứng
đầu như cha xứ và Mao Sơn đạo sĩ thường bị
giết trước tiên, truyền thống Phật giáo
Theravāda Thái Lan không chấp nhận khả năng
đó nên để nhà sư thoát đi một cách rất hài hước.
Bằng cách ấy, câu chuyện không nhấn mạnh góc
độ khu quỷ trừ tà mà nổi lên lý Nhân quả, cái
nhân nào sẽ sinh ra quả đó, người buộc dây phải
là người mở. Nếu nhà sư bằng pháp thuật can
thiệp vào tức là cắt đứt dây nhân quả, câu
chuyện sẽ không thể tự nó phát triển. Nhà sư
trong Tình người duyên ma đã hoàn thành tốt vai
trò thứ ba của Tam bảo – Tăng – trong tiếp nhận
của biên kịch, tác giả và cả công chúng.
3. Từ Tình người duyên ma nhìn lại đặc
điểm tiếp nhận Phật giáo Theravāda Thái Lan
Từ góc nhìn tiếp nhận, tuy xuất phát điểm
khác nhau (giải thích học và hiện tượng học)
nhưng Jauss và Iser dường như có chung quan
điểm khi nghiên cứu giá trị của văn bản thể hiện
như thế nào với khâu tiếp nhận. Theo Iser thì:
“Văn bản gợi cho người đọc tìm kiếm tính nhất
quán rồi phá hủy tính nhất quán ấy, để người
đọc phải đi tìm tính nhất quán mới.” (Hoàng
Phong Tuấn, 2017: 50); Jauss cũng xác nhận sự
chuyển đổi chân trời chờ đợi, tức là quá trình
từng bước dựng nên sự chờ đợi rồi lại phá hủy
sự chờ đợi ấy ở độc giả của văn bản. Theo chiến
lược này, chúng tôi cũng khảo sát đặc điểm tiếp
nhận Phật giáo Theravāda trong Tình người
duyên ma với cấu trúc ở bậc đơn giản nhất là
cặp: hình thành và phá hủy chân trời chờ đợi.
Từ góc độ hình thành chân trời chờ đợi, tức
là những kinh nghiệm có trước khi tiếp xúc với
văn bản giúp người tiếp nhận cảm thấy quen
thuộc với những tính chất mà văn bản thể hiện.
Trường hợp Tình người duyên ma là sự kết hợp
với nhiều tầng lớp văn hóa bản địa Thái Lan của
Phật giáo Theravāda. Trong các câu chuyện kể
cũng như bản thân Phi Mak Phra Khanong có
sự xuất hiện của những biểu tượng Phật giáo
Theravāda bên cạnh nhiều lớp thần thoại, huyền
tích địa phương; sự tiếp nhận của Phật giáo
Theravāda đã tạo nên một bức tranh đa diện đa
sắc cho đời sống tinh thần Thái Lan. Sống trong
bầu không khí tâm linh phong phú đó, công
chúng Thái Lan liên tục nhận ra những hình ảnh
quen thuộc từ các câu chuyện truyền miệng
được hình tượng hóa thành những nhân vật cụ
thể trong bộ phim. Khi hai vợ chồng Mak và
Nak vào nhà ma, những con ma giả hoảng sợ bỏ
trốn đều có một lý lịch khá nổi tiếng đối với
người Thái. Trước hết là Krahang – con ma nam
hay xuất hiện vào ban đêm ở khu vực nông thôn
trên một cái chày với đôi cánh là hai chiếc rá;
bên cạnh đó là Krasue – người phụ nữ phía trên
là đầu, dưới cổ là thực quản và nội tạng đẫm
máu; hay Kuman Thong – con ma trẻ em mặc
đồ truyền thống thường mang đến điều tốt lành.
Những con ma quen thuộc, cộng với cả nàng
Nak tạo thành một triển lãm tâm linh kinh dị phổ
biến với người Thái, giúp người xem sống lại
tuổi thơ khi nhận ra những gương mặt quen
thuộc nhưng cũng khá ám ảnh. Nhìn rộng ra, bộ
phim đã tái hiện được một không gian văn hóa
với nền nông nghiệp gắn liền với nguồn nước:
dòng sông, nhà sàn, nước thánh, gạo thiêng…
tất cả đều nhắc gợi nguồn gốc văn hóa của người
Thái. Đặc biệt, các lớp văn hóa này được đan
cài, gắn kết thành một thể thống nhất với những
biểu hiện của Phật giáo Theravāda, đặc biệt
trong cảnh phim tại chùa. Trường đoạn này mở
đầu bằng khung cảnh linh thiêng, trong tiếng
tụng niệm kinh văn, nến sáng và ranh giới âm
dương được phân định bằng vòng chỉ trắng tạo
75
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
VOLUME 6 NUMBER 4
thành một hình tròn nối kết nhóm bạn của Mak
và nhà sư. Sợi chỉ này gọi là Kalava hay Mauli
(có nguồn gốc từ truyền thống Hindu), tất cả
những người tham gia sẽ đeo sợi chỉ này trong
suốt quá trình hành lễ, kết hợp với nước thánh,
điềm lành sẽ truyền qua sợi chỉ và giữ cho
những người tham gia được bình an. Có ba loại
chỉ dành cho những trường hợp khác nhau: chỉ
đỏ cầu hạnh phúc, chỉ đen tránh bệnh tật và chỉ
trắng dành cho những nhà có người thân vừa qua
đời. Khi ma Nak xuất hiện, nhà sư dùng gạo
thiêng để xua đuổi cô. Trong phim có hai đoạn
sử dụng gạo thiêng trừ tà là khi ném vào Mak và
Nak. Gạo là thực phẩm chính của người Thái,
có vai trò quan trọng không chỉ trong đời sống
thường ngày mà còn cả tâm linh. Người Thái
thích số 9 bởi âm tiếng Thái /gao/ trùng âm với
từ phát triển, tiến bộ và cả gạo /khao/. Những
hạt gạo này được các vị sư trì chú nên mang
năng lực trừ tà, thường được người Thái mang
trong người như một loại bùa bình an, bảo vệ
khỏi ác hại. Khi ma Nak xuất hiện, vị sư cũng
dùng gạo thiêng để xua đuổi cô.
Bên cạnh các hình tượng văn hóa quen thuộc
mang tính truyền thống, Tình người duyên ma
gắn với Phật giáo Theravāda Thái Lan còn mang
đến hình ảnh người dân Thái vui vẻ và hài hước.
Trong đời sống hằng ngày, người Thái luôn cố
gắng giữ được sanuk – nghĩa là niềm vui, đây
vừa là cách thăng bằng cuộc sống, vừa là dấu
hiệu của một tâm hồn thấm vị giải thoát Phật
giáo. Bởi vậy, bộ phim ma được tiếp nhận như
một chuyện tình, đó là lý do mà tên nguyên bản
là Pee Mak Phra Khanong/ Phi Mak Phra
Khanong – Ma Mak ở Phra Khanong – tuy quen
thuộc với người Thái nhưng xa lạ với người Việt
Nam đã được chuyển đổi theo nguyên tắc tiếp
nhận thành: Tình người duyên ma. Những cảnh
rùng rợn, kinh dị của thể loại phim ma liên tục
được giải tỏa bằng những chi tiết hài nhằm trung
hòa nhất thời, tạo điểm cân bằng tâm lý để tiếp
tục bị phá vỡ trong tiếp nhận, chiến lược này đã
thành công và tạo nét duyên riêng cho bộ phim
ở cả hài tình huống lẫn ngôn ngữ. Các tình
huống hài như đoàn binh sĩ hăng hái cầm kiếm
xông ra trận tiền nhưng quên là kẻ thù có súng,
ma thật vào nhà ma, gạo thiêng trừ ma đem cho
chim ăn… Ngôn ngữ phim mang tính hài hước
trước hết ở những cảnh giễu nhại các tác phẩm,
nhân vật điện ảnh kinh điển như: Nó đang diễn
đó, đạo diễn của nó là Lý An. Vợ mày đẹp giống
Hoa hậu Hoàn vũ. Cảnh bi đầu phim nhắc về
“300”, vua Leonidas Stellos cùng những người
lính, rồi "Rocky" và cả "The Last Samurai";
cánh tay dài của Nak được so sánh với ảo thuật
gia David Blaine…
Từ góc độ phá vỡ chân trời chờ đợi, khi tiếp
nhận bộ phim, khán giả được đưa từ những điều
quen thuộc đến những trạng thái mới mẻ, có
khoảng cách với sự chờ đợi. Khoảng cách này ở
mỗi nền văn hóa lại có giá trị khác nhau khi tiếp
nhận Tình người duyên ma. Ví dụ như sư thầy
trong chùa, khi được phụ đề tiếng Anh trở thành
Father (ảnh hưởng và hướng đến chân trời đón
nhận Thiên Chúa giáo phương Tây). Đặc biệt,
đoạn nhóm bạn chơi đố chữ hoàn toàn được dựa
trên văn hóa ngôn ngữ phương Tây, gây không
ít khó khăn cho tiếp nhận của người Việt bởi
khoảng cách chờ đợi bị kéo dài, ngăn cách bằng
rào cản ngôn ngữ. Câu đố đầu tiên là cây giáo
đặt cạnh giường ngủ (a spear near the bed) nhằm
báo cho Mak là đang cận kề nguy hiểm, câu đố
sa mạc (desert) được chiết tự thành dead shirt và
diễn tả là áo (shirt), Nek đã chết (dead). Quay
lại với Phật giáo Theravāda Thái Lan, trong bộ
phim Tình người duyên ma thì chùa vẫn là mảng
không gian tâm linh truyền thống, đóng vai trò
trụ cột trong đời sống tinh thần người Thái Lan.
Bởi vậy, khi có vấn đề tâm linh, người Thái liền
cầu viện đến sự giúp đỡ của các sư Phật giáo
Theravāda, nếu so sánh với hệ thống phim ma
cùng giai đoạn của Việt Nam thì không thấy
hiện tượng này. Đa số các bộ phim kinh dị, ma
của điện ảnh Việt như Lời nguyền huyết ngải
(2012), Ngôi nhà trong hẻm (2012), Quả tim
máu (2014), Đoạt hồn (2014), Cô hầu gái
(2016)… đều được tự các nhân vật chính giải
quyết hoặc cầu viện các pháp sư theo khuynh
hướng đạo giáo Trung Quốc giải quyết. Trước
đó vào năm 2007, phim Mười có cảnh các nhà sư
phong ấn tấm hình Mười nhưng hình tượng các
nhà sư thì không thuần một tông phái nào, cách
thức và phương tiện vẫn theo Đạo giáo, người
xem được giới thuyết đó là sư do các nhân vật gọi
76
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
TẬP 6 SỐ 4
và phục trang như áo choàng màu cam, chuông,
mõ… Ở Việt Nam, sự tiếp nhận của truyền thông
trong mảng phim kinh dị đối với Phật giáo
Theravāda dường như vắng bóng, không đủ sức
lan tỏa. Điều này có nguyên nhân là đại đa số
người Việt theo Phật giáo Đại thừa, không có ưu
thế về trừ tà đuổi quỷ so với Đạo giáo.
Theravāda Thái Lan trong bộ phim điện ảnh ăn
khách nhất mọi thời đại của Thái Lan. Phương
pháp tiếp nhận được vận dụng mang lại cách
nhìn mới, ít xung đột hơn về lịch sử Phật giáo
nói chung và Phật giáo Theravāda Thái Lan nói
riêng. Bên cạnh đó, phương pháp Mỹ học tiếp
nhận nhấn mạnh vai trò của người đọc hứa hẹn
nhiều kết quả nghiên cứu tương lai khả quan và
hiệu quả hơn về Phật giáo cũng như nghệ thuật.
Như vậy, Tình người duyên ma từ góc độ tiếp
nhận Phật giáo Theravāda Thái Lan đã đi từ
khuynh hướng gothic kỳ ảo đến hiện thực huyền
ảo khi để cho cái thực và ảo đan quyện nhau
cùng tồn tại trong đời sống. Quan trọng hơn hết
là thông qua sự phá vỡ chân trời chờ đợi, bộ
phim nêu lên được một cái nhìn nhân văn, nhân
đạo về đời sống theo tinh thần Phật giáo khi tạo
ra một kết thúc có hậu rất hiện đại. Hình ảnh
cánh tay dài của ma Nak xuyên suốt câu chuyện
không chỉ đơn thuần là đáng sợ mà có khi đẹp
vô cùng khiến người ta mủi lòng trước chi tiết
nàng Nak kéo tay con tò he nữ choàng ôm con
tò he nam trong hội chợ – ẩn dụ cho bất cứ ai cố
giữ chặt hạnh phúc mỏng manh trong tay sẽ
không còn phải đau thương, âm dương cách trở
mà những kẻ có tình sẽ được ở bên nhau, những
người có duyên không phải chia lìa. Đó là cách
tiếp nhận Tình người duyên ma mà bài viết này
trình bày, cũng không xa tinh thần Phật giáo và
nghệ thuật là mấy.
Tuy nhiên, chính trong vai trò trụ cột tinh
thần của Phật giáo Theravāda Thái Lan cũng bắt
đầu xuất hiện sự phá vỡ chân trời đón đợi, ít nhất
là trong Tình người duyên ma. Nhìn lại vai trò
của chùa và sư trong phim, tác dụng của Phật
giáo Theravāda Thái Lan chỉ còn mang tính biểu
tượng, không có tác dụng thực tế. Nếu trong câu
chuyện dân gian, các nhà sư đã thành công trong
việc trấn giữ linh hồn ma Nak thì nhà sư trong
phim chỉ có vai trò tạo thên tính hài hước mà
thôi, cuối cùng sư trốn thoát ra khỏi đường cửa
sổ với hiệu ứng đẩy nhanh tốc độ không khỏi
khiến người xem bật cười. Thật ra điều này có
thể được ký giải từ góc độ nghệ thuật khi bộ
phim đưa đến một cái kết mới so với bản truyện
đã quen thuộc, đặc biệt cái kết này mang tính
nhân văn, nhân đạo hơn khi để vợ chồng Nak và
Mak chung sống với nhau hơn là để hồn Nak bị
trấn yểm bằng pháp thuật Phật giáo. Tuy nhiên,
từ góc độ xã hội văn hóa Thái Lan thì động thái
này còn thể hiện một khuynh hướng mới trong
sự tiếp nhận Phật giáo Theravāda Thái Lan. Thế
hệ trẻ Thái Lan xem Phật giáo như là một biểu
tượng hơn là thứ thiết chế tâm linh từng được
không ngừng củng cố bởi các vương triều Thái.
Sự phản ứng này tuy không thay đổi hoàn toàn
vấn đề nhưng đã báo hiệu kiểu tiếp nhận mới đối
với một giá trị truyền thống. Quy một vấn đề
trong phim thành một trào lưu đấu tranh xã hội
không khỏi khập khiễng nhưng khuynh hướng
chung này là một thực tế, một đặc điểm tiếp
nhận Phật giáo Theravāda Thái Lan đối với các
vấn đề văn hóa xã hội, kinh tế chính trị đáng ghi
nhận bởi những bên có liên quan. Bởi nghệ thuật
không chỉ là bức tranh phản ánh đời sống mà
còn có khả năng dự báo, vạch ra các khuynh
hướng phát triển của đời sống.
Tài liệu tham khảo
McDaniel, J. T. (2011). The Lovelorn Ghost and the
Magical Monk: Practicing Buddhism in
Modern Thailand. New York: Columbia
University Press, 384p.
Gillman, D. (1997). The Reception of Chinese
Buddhist Sculpture in the West. Art Bulletin
of Victoria 38. Australia: The National
Gallery of Victoria. Truy cập tại:
Grant, B. K. (2010). Screams on Screens: Paradigms
of Horror. Special Issue Thinking After Dark:
Welcome to the World of Horror Video
Games. 7 (6), pp. 1-17.
Kết luận
Tóm lại, bài viết này đã khảo sát dấu vết, vai
trò và khuynh hướng tiếp nhận Phật giáo
Lê Tuấn Huy (2008). Sự du nhập của Phật giáo vào
77
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE
VOLUME 6 NUMBER 4
nước ta và ảnh hưởng của nó trong các thế kỷ
mối giao lưu – tiếp biến với Phật giáo Ấn độ.
Tạp chí Đạo Phật ngày nay. Số 14, tháng 2.
Iser, W. (1978). The Act of Reading: An Aesthetic
Response. Baltimore and London: John
Hopkins University Press.
Jauss, H. R. (1967). Literacy History as a Challenge
to the Literacy Theory Toward an Aesthetic of
Sungsri, P. (2004). Thai cinema as national cinema:
An evaluative history. Ph.D. Dissertation.
Perth, Western Australia: Murdoch University
Reception.
Minneapolis: University of Minnesota.
Levering, M. (1989). Scripture and Its Reception: A
Buddhist Case. In Miriam Levering (ed.)
Trans.
Timothy
Bahti
Lâm Như Tạng (2010). Phật giáo từ Ấn Độ trực tiếp
truyền vào Việt Nam như thế nào. Tạp chí Đạo
Rethinking Scripture: Essays from
a
Comparative Perspective. Albany: State
University of New York, University Press,
p.58-101.
Hoàng Phong Tuấn (2017). Văn học Người đọc Định
chế - Tiếp nhận văn học: giới thiệu lý thuyết,
nghiên cứu và dịch thuật. Nxb Khoa học Xã
hội, 307 trang.
Nguyễn Công Lý (2012). Phật giáo Việt nam trong
78
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tiếp nhận Phật giáo Theravāda Thái Lan: Trường hợp Tình người duyên ma", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nghien_cuu_tiep_nhan_phat_giao_theravda_thai_lan_truong_hop.pdf