Một số đặc điểm về ngữ âm trong thơ trên báo văn nghệ Đồng Tháp

Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGỮ ÂM TRONG THƠ  
TRÊN BÁO VĂN NGHỆ ĐỒNG THÁP  
Nguyễn Thị Thanh Nguyên1* và Nguyễn Văn Bản2  
1Phòng Thông tin và Truyền thông, Trường Đại học Đồng Tháp  
2Trường Đại học Đồng Tháp  
*Tác giả liên hệ: nttnguyen@dthu.edu.vn  
Lịch sử bài báo  
Ngày nhận 16/6/2021; Ngày nhận chỉnh sửa: 15/7/2021; Ngày duyệt đăng: 28/8/2021  
Tóm tắt  
Phối thanh, hiệp vần và nhịp điệu trong sáng tạo thơ ca không chỉ mang lại sự hài hòa trầm bổng cho  
một tổ hợp ngôn ngữ về mặt ngữ âm mà còn hướng đến mục đích cao hơn là thông qua hình thức đó để biểu  
hiện nội dung, tư tưởng, tình cảm của tác giả. Các bài thơ trên trang thơ Báo Văn nghệ Đồng Tháp với tập  
hợp sáng tác của nhiều tác giả thể hiện được sự phong phú, đa dạng về nội dung và hình thức, bày tỏ cảm  
xúc, tình yêu với quê hương, đất nước, con người, các giá trị văn hóa bản địa… đã góp phần định hướng  
thẩm mỹ và thị hiếu lành mạnh đến với quần chúng nhân dân.  
Từ khóa: Báo Văn nghệ Đồng Tháp, hiệp vần, ngữ âm, nhịp điệu.  
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------  
PHONETIC FEATURES ON THE POETRY PAGE OF  
THE DONG THAP ARTS NEWSPAPER  
Nguyen Thi Thanh Nguyen1* and Nguyen Van Ban2  
1Office of Information and Communications, Dong Thap University  
2Dong Thap University  
*Corresponding author: nttnguyen@dthu.edu.vn  
Article history  
Received: 16/6/2021; Received in revised form: 15/7/2021; Accepted: 28/8/2021  
Abstract  
Harmony, rhyme and rhythm in poetic creation not only bring a harmonious sound production to a  
set of words, but also purposefully express contents, the thoughts and feelings of the author. Poems on the  
poetry page of the Dong Thap Arts Newspaper with a collection of compositions by many authors show the  
richness and diversity in contents and forms, expressing their feelings, such as love for the homeland, the  
country, the people, as well as the indigenous cultural values and so on, contributing to oriented aesthetics  
and healthy tastes to the masses.  
Keywords: Dong Thap Arts Newspaper, harmony, phonetics, rhyme.  
Trích dẫn: Nguyễn Thị Thanh Nguyên và Nguyễn Văn Bản. (2022). Một số đặc điểm về ngữ âm trong thơ trên Báo Văn nghệ  
Đồng Tháp. Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, 11(1), 84-90.  
84  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 11, Số 1, 2022, 84-90  
1. Đặt vấn đề  
2. Khảo sát đặc điểm ngữ âm trong thơ trên  
Báo Văn nghệ Đồng Tháp  
Truyền thông báo chí không chỉ dừng lại ở việc  
cung cấp thông tin mà có thể mở rộng sang các hình  
thức khác để phản ánh đời sống xã hội đa dạng và  
phong phú như văn học nghệ thuật, điện ảnh, kiến  
trúc, pháp luật... nói chung. Trong đó, báo văn nghệ,  
một loại hình báo chí đặc thù dành riêng cho mảng  
văn học nghệ thuật, ghi nhận, phản ánh và thể hiện  
đời sống tinh thần của con người với ngôn ngữ đặc  
trưng riêng - ngôn ngữ nghệ thuật. Báo Văn nghệ  
Đồng Tháp là diễn đàn để giới thiệu các sáng tác văn  
học nghệ thuật của văn nghệ sĩ trong và ngoài địa bàn  
tỉnh Đồng Tháp đến độc giả gần xa. Chuyên mục thơ  
của mỗi số Báo Văn nghệ Đồng Tháp có số lượng từ 5  
đến 8 bài thơ. Đây là chuyên mục tổng hợp giới thiệu  
các sáng tác thơ của các cây bút từ nhiều thế hệ, nhiều  
lứa tuổi, nhiều trình độ khác nhau, thể hiện đa dạng  
và phong phú các phương diện của đời sống xã hội.  
2.1. Đặc điểm về thanh điệu  
Tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh điệu. Hệ thống  
ngôn ngữ trong tiếng Việt gồm sáu thanh chia thành  
hai nhóm bằng và trắc, thanh bằng gồm thanh huyền  
và thanh ngang (hay còn gọi là thanh không - không  
thể hiện bằng kí hiệu trên âm tiết), thanh trắc gồm các  
thanh sắc, hỏi, ngã, nặng. Thanh điệu là một yếu tố  
hình thức của ngôn ngữ nhưng nó có chức năng của  
một siêu ngôn ngữ trong việc biểu hiện nội dung tác  
phẩm văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Việc tổ  
chức, sắp xếp các âm tiết mang thanh điệu đứng gần  
nhau gọi là phối thanh. Trong thơ cách luật, mỗi thể  
thơ đều định ra một quy tắc phối thanh nhất định.  
Riêng trong thơ tự do và thơ văn xuôi, việc phối thanh  
không theo quy tắc nhất định mà sẽ linh hoạt theo  
phong cách của mỗi nhà thơ.  
Tìm hiểu về đặc trưng phong cách ngôn ngữ thể  
Với các đề tài phản ánh về quê hương, con người  
hiện, đặc biệt về ngữ âm, phương diện thể hiện của Đồng Tháp, thường các tác giả chọn thanh bằng làm  
ngôn ngữ thơ trên Báo Văn nghệ Đồng Tháp sẽ tiếp chủ đạo, tạo nên những cung trầm nhẹ nhàng, êm  
cận và thể hiện được vị thế của Báo Văn nghệ Đồng ái về một hạnh phúc đời thường giản dị trong cuộc  
sống bình yên, niềm tự hào về quê hương xứ sở (các  
bài thơ lục bát: Xứ Gò của Thai Sắc, Về Cao Lãnh  
của Hữu Nhân, Thương giấc mơ trưa của Nguyễn  
Văn Nghiêm, Mùa nước rong của Lê Ngọc Minh  
Hoàng,…). Bài thơ Tân Thuận Đông của Thanh Sen  
là một ví dụ: “Miệt cồn sóng vỗ chiều nay/ Ăn bông  
điên điển giữa ngày nước rong/ Đậm đà khô cá lòng  
tong/ Nghe câu vọng cổ hát mênh mông đời”.  
Tháp trước sự thay đổi của nhịp sống hiện đại. Chúng  
tôi đã tiến hành khảo sát 162 bài thơ được đăng trên  
Báo Văn nghệ Đồng Tháp trong năm 2019. Cùng  
với phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại để  
tiến hành khảo sát các đặc điểm ngữ âm theo từng  
vấn đề cụ thể làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá  
đặc trưng ngữ âm. Trên phương diện đặc điểm ngữ  
âm về thanh điệu, vần điệu và nhịp điệu các sáng tác  
thơ trên Báo Văn nghệ Đồng Tháp đang đi theo xu  
hướng chung của thơ đương đại, ngày càng rời xa  
những ràng buộc của sự hài thanh, của lối gieo vần  
và ngắt nhịp truyền thống, hướng đến một lối viết tự  
do, tung phá. Đây là sự thể hiện một hướng đi tích  
cực đáp ứng khát vọng tìm tòi đổi mới thơ ca, trên cơ  
sở thoát ra những khuôn khổ sáo mòn của thơ cách  
luật, đồng thời tiếp nhận những ảnh hưởng mạnh mẽ  
của nhịp sống hiện thực đa chiều.  
Thể thơ tự do không buộc mình vào các khuôn  
hình bằng - trắc cố định là một điểm thuận lợi để  
người viết thể hiện năng lực ngôn ngữ và sự nhạy  
cảm riêng của mình. Ở đó có sự dịu dàng, nữ tính của  
Ngọc Điệp với tâm trạng trong bài Đối diện với mùa  
xuân: “Có chút gì nao nức đến bâng khuâng/ Thấy  
mình vụng về như trẻ nhỏ/ Đối diện với mùa xuân  
sao bỗng dưng chiều nay luống cuống/ Sợ ngày qua  
mau, sợ cánh hoa vừa hé sẽ chóng tàn”. Hay lời tâm  
tình, thủ thỉ thể hiện suy tư của nhân vật trữ tình trước  
bộn bề của cuộc sống trong bài Khuyết của Lê Ngọc  
Minh Hoàng: “Lời ru mẹ còn không/ Lời khuyên mẹ  
có nằm lòng phía con/ Day dứt nỗi nhớ mỏi mòn/  
Phải chăng mình đã còn con mất người”.  
Các sáng tác thơ trên Báo Văn nghệ Đồng Tháp  
với việc sáng tạo phối thanh, hiệp vần và nhịp điệu  
mang lại sự hài hòa trầm bổng cho một tổ hợp ngôn  
ngữ về mặt ngữ âm của các tác giả vừa kế thừa nhiều  
hình thức của thơ ca dân tộc, vừa có sự cách tân trên  
cấu trúc và mô hình thơ truyền thống để chuyển tải  
cảm xúc, tình yêu với quê hương, đất nước, con người,  
các giá trị văn hóa bản địa là đều tạo nên nét đặc sắc,  
Nhiều tác giả khác lại chọn những thanh trắc  
làm chủ âm, tạo nên một khúc trầm buồn, sâu lắng,  
đau đáu một nỗi niềm trăn trở về thời cuộc, trách  
đa dạng cho trang thơ của Báo Văn nghệ Đồng Tháp. nhiệm chung của mỗi con người về đất nước. Suy  
85  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
tư về những đổi thay tác động đến nếp nghĩ của một  
bộ phận con người cần được đánh thức, cần được  
làm sáng tỏ ở nhiều góc độ khác nhau trong bài Nói  
với những ai muốn nghĩ khác về 30 tháng 4 của Hữu  
Nhân: “Đừng đứng bên lề nhìn dọc nhìn ngang rồi  
hoàn toàn các tiếng ở những vị trí nhất định của dòng  
thơ nhằm tạo nên tính hài hòa và liên kết giữa các  
dòng thơ (Lê Bá Hán, 2004, tr. 423). Nếu chọn từ sao  
cho có âm và thanh tương hợp thì khi đọc lên sẽ nghe  
êm tai, ta gọi lời văn có vần. Hai tiếng vần với nhau  
cho mình được quyền phán xét/ Hãy làm thật đi và khi có âm tương tự và có cùng thanh. Trong thơ, vấn  
thôi đừng làm những thầy đời cao giọng nữa/ Đừng đề hợp vần là điều cốt yếu. Sự phối trí âm thanh nhịp  
giả vờ hơn người để phê bình theo cách đổ thêm dầu điệu là yếu tố cơ bản của thơ.  
vào lửa/ Sao chẳng biết kề đôi vai bé nhỏ của mình  
gánh một phần gian khổ của tương lai”.  
Việc phân biệt vần điệu trong thơ được dựa vào  
những tiêu chí khác nhau. Chúng tôi tìm hiểu đặc  
Cùng với những vấn đề lớn lao về đất nước, về điểm vần điệu trong các bài thơ trên Báo Văn nghệ  
Đồng Tháp theo phân loại: Dựa vào vị trí gieo vần  
trong mỗi dòng thơ, khổ thơ (vần chân và vần lưng)  
và dựa vào mức độ hòa âm giữa hai âm tiết bắt vần  
với nhau ta có vần chính và vần thông.  
thời đại, những trăn trở, khắc khoải trong cuộc sống  
đời thường khi con người cá nhân, tình yêu, hạnh phúc  
được thể hiện hết sức tự nhiên, phản ánh cuộc sống  
qua lăng kính đa chiều đa diện nhất có thể, “Người  
đàn bà cất cao giọng hát/ Về những bông hoa bất tử/  
Tiếng hát bay trong gió/ Cảm động/ Ngậm ngùi”(Hát  
về những bông hoa bất tử - Trúc Linh Lan).  
2.2.1. Vần trong các bài thơ xét ở vị trí gieo vần  
Căn cứ vào vị trí gieo vần trong câu thơ thì vần  
thơ được chia làm hai loại là vần chân và vần lưng.  
Khảo sát 162 bài thơ trên Báo Văn nghệ Đồng Tháp,  
xem xét vị trí gieo vần của 793 cặp vần, chúng tôi  
thu được kết quả thể hiện ở Bảng 1.  
Như vậy, nghệ thuật phối thanh không chỉ đơn  
giản là tạo ra những kết cấu âm thanh bên ngoài của  
ngôn ngữ nhằm tạo ra nhạc điệu trong thơ, nó còn  
nhằm biểu hiện những trạng thái cảm xúc và suy nghĩ  
của nhân vật trữ tình, của chính tác giả. Tác giả Chiêu  
Linh với bài Kí ức vẫn là kí ức thôi, đã thể hiện được  
hai phương diện này: “Rồi em ghét mình sao không  
thể quên anh/ Ghét tháng tư có màu hoa tím/ Ghét cả  
nhớ nhung thói thường con người không trườn qua  
được/ Lay lắt đau và lay lắt/ Một mình”. Mật độ thanh  
trắc chiếm số lượng cao, dày khiến câu thơ có phần  
trúc trắc. Nhưng chính cái trúc trắc đó lại có giá trị  
trong việc biểu hiện một tâm hồn nỗi lòng thổn thức  
trong tình yêu đôi lứa, sự nhớ thương cách biệt vừa  
nồng nàn da diết vừa lắng đọng của nhân vật trữ tình.  
Bảng 1. Phân loại vần theo vị trí trong các bài thơ  
trên Báo Văn nghệ Đồng Tháp năm 2019  
Loại vần  
Vần chân  
Vần lưng  
Tổng  
Số lượng  
427  
Tỉ lệ (%)  
53,8  
366  
46,2  
793  
100  
Kết quả thống kê phân loại vần theo vị trí ở  
Bảng 1, cho thấy, cách gieo vần chân chiếm số lượng  
cao hơn cách gieo vần lưng. Tuy nhiên, vẫn có một  
số bài thơ không sử dụng vần nào là vần chính mà  
được viết theo dòng cảm xúc và tâm trạng. Đây cũng  
là một trong những nét độc đáo về cách gieo vần và  
hiệp vần phong phú trên trang thơ của Báo Văn nghệ  
Đồng Tháp với đặc trưng là tập hợp các sáng tác từ  
nhiều tác giả, nhiều trải nghiệm và đa dạng phong  
cách sáng tác.  
Từ những ví dụ trên về vai trò và chức năng  
của thanh điệu trong các bài thơ trên Báo Văn nghệ  
Đồng Tháp là một yếu tố góp phần tạo nên ý nghĩa  
về nội dung. Nghệ thuật phối thanh còn có tác dụng  
giúp cho nhà thơ bộc lộ một khía cạnh nào đó trong  
tư tưởng và tình cảm của mình. Đa phần các sáng  
tác phối thanh trắc với nhau, hoặc bằng - trắc nhưng  
thanh trắc chiếm số lượng nhiều hơn, phù hợp việc  
diễn đạt những trăn trở, suy tư, triết lý về nhân tình,  
thế sự của cuộc sống hiện đại.  
Vần chân còn gọi là cước vận, tức là vần được  
gieo vào cuối dòng thơ nhằm đánh dấu sự kết thúc của  
dòng thơ và tạo nên mối liên kết giữa các dòng thơ với  
nhau. Vần chân là hình thức gieo vần phổ biến nhất  
trong thơ ca. Vần chân rất đa dạng: khi liên tiếp, khi  
gián cách, khi ôm nhau, khi là hỗn hợp các loại trên.  
2.2. Đặc điểm về vần điệu  
Vần là bộ phận quan trọng nhất trong âm tiết  
tiếng Việt. Theo Từ điển thuật ngữ văn học (2004)  
nhóm tác giả cho rằng, vần là một phương tiện trong  
tổ chức văn bản thơ dựa trên cơ sở sự lặp lại không  
Vần liền là loại vần mà các âm tiết hiệp vần liên  
tiếp nhau giữa các dòng thơ. Qua khảo sát 427 cặp vần  
chân, chúng tôi thấy, loại vần này được sử dụng với  
nhiều trường hợp khác nhau đa phần trong các sáng  
86  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 11, Số 1, 2022, 84-90  
tác thơ bốn chữ, năm chữ, bảy chữ... Có khi theo kiểu thể lục bát như Cao Lãnh tháng ba của Thanh Sen,  
AA.A trong khổ thơ năm chữ: “Tết sắp về đầu ngõ/ Mùa nước rong của Lê Ngọc Minh Hoàng, Xứ gò của  
Trao đầy tay ước / Cùng tình yêu hạnh phúc/ Bao Thai Sắc… Tuy nhiên, trong một số ít thể thơ khác,  
lúc này vần của dòng thứ tư trở nên tự do, không bị  
ràng buộc như niêm vần của thể lục bát bởi vần của  
các dòng trước hoặc sau nó như trong các bài Cảm  
ơn của Cẩm Nhung, Liền anh liền chị nhà giàn của  
Nguyễn Hữu Quý, Tặng người biết yêu con chữ của  
Trương Thị Tuyết Mai, Khép của Trần Trí Thanh,…  
Khói đồng thơm của Lê Quang Trạng là một điển  
hình: “Đâu phải hiếm hoi mà vắng bóng hình/ Giữa  
phố thị không tìm ra ngọn gốc/ Đâu phải xa xôi mà  
mắt nhìn khô khốc/ Khói ở trong lòng hóa nỗi nhớ  
trắng cơn mơ”.  
trái tim đang chờ” (Đi ngang mùa xuân - Hữu Phước).  
Ở trường hợp khác, vần liền lại được gieo theo  
kiểu AA.BB tức là hai âm tiết ở cuối hai dòng trước  
hiệp vần với nhau và hai âm tiết ở cuối hai dòng sau  
hiệp vần với nhau, như ở thể thơ tự do: “Về úp mặt  
vào nước/ Gội sạch ảo ảnh người/ Úp mặt vào gối/  
Nghe vị nào không phải mồ hôi” (Về - Nguyễn Ngọc  
Tư). Ở những câu thơ, khổ thơ, bài thơ này có sự xuất  
hiện của vần liền, thể hiện được sự liền mạch, gắn bó,  
nối tiếp các ý của cảm xúc rất tự nhiên của các tác giả.  
Vần cách còn được gọi là vần gián cách, vần  
giao nhau. Vần cách là loại vần mà hai âm tiết cuối  
của dòng lẻ bắt vần với nhau, các âm tiết hiệp vần xen  
kẽ nhau liên tục làm thành thế gián cách kiểu ABAB.  
Xuất hiện nhiều ở thể thơ bảy chữ, thơ tám chữ, thơ  
tự do, chẳng hạn như: “Nghe đã yêu dù tay chưa kịp  
nắm/ Người mịt mù ở cuối giấc chiêm bao/ Chút hư  
ảo cũng làm ta mê đắm/ Ngàn sương ơi giá lạnh đến  
ngọt ngào” (Chờ xuân - Trịnh Bữu Hoài).  
Vần lưng còn được gọi là yếu vận, được gieo  
vào giữa dòng thơ. Nếu như vần chân được các tác  
giả ứng dụng nhiều vào các thể thơ hiện đại bốn chữ,  
năm chữ, bảy chữ, tám chữ… Thì vần lưng được các  
tác giả sử dụng nhuần nhuyễn và thường xuyên trong  
thể thơ lục bát. Trong 162 bài thơ được khảo sát trên  
trang thơ Báo Văn nghệ Đồng Tháp 2019, số lượng  
thơ lục bát xếp thứ hai sau thơ tự do với 52 bài, chiếm  
tỉ lệ 32,1%. Ở các bài thơ lục bát, ngoài cách gieo vần  
chân thì cách gieo vần lưng cũng được sử dụng linh  
hoạt và đa dạng. Vần lưng, được gieo vần theo cách  
truyền thống, âm tiết thứ sáu trong câu lục và âm tiết  
thứ sáu trong câu bát như: “Thèm làm chiếc lá trầu  
xanh/ Làm môi em thắm long lanh tiếng cười/ Nắng  
lên vàng sợi tơ trời/ Mùa xuân chạm ngõ rạng ngời  
mắt em” (Tình xuân - Nguyễn An Bình).  
Có những khổ thơ bốn câu, trong đó chỉ có hai  
câu bắt vần với nhau ở vị trí xen kẽ hai câu không  
bắt vần. Trường hợp này, chúng ta thấy rất phổ biến  
ở các bài như: “Cúc mâm xôi giấu nụ/ Xanh biếc  
tràn cánh đồng/ Bàn tay ai chăm chút/ Cho từng  
cánh hoa hồng” (Đi ngang mùa xuân - Hữu Phước).  
Với hình thức đan chéo, giãn cách nhau trong những  
bài thơ, khổ thơ sử dụng loại vần này lại có sự hòa  
quyện chặt chẽ giữa ý và lời làm cho câu thơ có sự  
cân xứng, hài hòa.  
Ngoài ra, vần lưng có thể được gieo ở âm tiết thứ  
sáu trong câu lục và âm tiết thứ hai trong câu bát: “Bí  
treo quả mướp ra hoa/ Thương sao thương thế tiếng  
gà gáy trưa” (Liền anh liền chị nhà giàn - Nguyễn  
Hữu Quý). Hoặc âm tiết thứ sáu trong câu lục và âm  
tiết thứ ba trong câu bát: “Mặc người mua lợi bán  
danh/ Gốm Hương Canh rực hoa văn truyền đời”  
(Làng gốm Hương Canh - Hữu Nhân). Cũng có khi  
gieo vần âm tiết thứ sáu trong câu lục và âm tiết thứ tư  
trong câu bát: “Ta nằm ngủ giữa Tháp Mười/ Trong  
hương lúa mới lẫn mùi hương sen/ Trong nghĩa tình  
những chén cơm/ Má mười năm đợi đàn con trở về”  
(Ngủ - Hữu Nhân). Hoặc âm tiết thứ sáu trong câu  
lục và âm tiết thứ năm trong câu bát: “Chạy về phía  
Bác vô cùng/ Trong veo câu hát mừng xuân đang về”  
(Bên tượng Bác Hồ - Nguyễn Hòa Hiệp).  
Vần ôm là loại vần mà các câu chứa vần nằm ở  
những vị trí cách nhau bằng các câu thơ khác. Vần  
ôm trong thơ ca Việt Nam thường được gieo ở vị trí  
câu một và câu bốn, câu một và câu ba hoặc câu hai  
và câu bốn.  
Vần ôm trong các bài thơ trên trang thơ Báo  
Văn nghệ Đồng Tháp xuất hiện không nhiều dưới các  
hình thức A..A, nghĩa là âm tiết cuối của câu một bắt  
vần với tiếng cuối của câu bốn các câu thứ hai và thứ  
ba bắt vần hoặc không bắt vần như: “Nhìn lên tấm  
huân chương/ Cháu đọc tên ông ngoại/ Đã một thời  
bộ đội/ Xông pha ngoài chiến trường” (Ông cháu là  
bộ đội - Mai Lê Nương).  
Trường hợp khác, âm tiết cuối của dòng thứ  
hai bắt vần với âm tiết cuối của dòng thứ ba. Điều  
này chúng ta sẽ thấy quen thuộc ở các bài thơ thuộc  
Bên cạnh thể thơ lục bát, vần lưng còn được các  
tác giả vận dụng ở thể thơ tự do, thơ bảy chữ, tám  
chữ như, “Hình như tất cả đàn ông đều chú rể/ Phụ  
87  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
nữ dịu dàng áo mới cô dâu/ Không chỉ có trầu cau/ nguyên âm chính và âm cuối đều gần giống nhau. Để  
Sính lễ nào cho thỏa nỗi chờ năm mới” (Hò hẹn mùa tạo nên sự hài hòa cho bài thơ, ngoài vần chính thì cặp  
xuân - Trần Nhã My). Nhờ có vần lưng níu nhau trực âm tiết vần thông có tác dụng rất lớn trong sự tạo ra  
tiếp trong từng câu, từng khổ thơ làm cho bài thơ có sự hòa âm hài hòa trong thơ. Chúng ta có thể thấy sự  
sự nhịp nhàng, uyển chuyển, linh hoạt và mạch cảm gieo vần nhuần nhuyễn trong thơ lục bát qua bài Tết  
xúc được chảy tràn tự nhiên nhất. Chính điều này đã của tác giả Giang San: “Chị ta đợi Tết về nhà/ Tròn  
gợi lên những âm điệu đặc biệt góp phần làm tăng năm tất tả xứ xa còn / Chặng đường cơm áo nhiều  
thêm thẩm mỹ và sức gợi cảm cho thơ.  
khi/ Vẽ nên những dấu chân đi nhọc nhằn”.  
2.2.2. Vần trong các bài thơ xét ở mức độ hòa âm  
Hay sự gieo vần thông độc đáo trong thể thơ tự  
do qua bài thơ Em không về nơi anh đâu, xứ Tuyên  
của tác giả Kim Tuyến: “Em nhớ đồi chè/ Nhớ sông  
Lô/ Em nhớ ngày quê anh không nắng/ Và chiều  
tĩnh lặng/ Cho lòng em mênh mang/ Có nỗi nhớ xốn  
xang”. Với cặp âm tiết “chè - quê”, “mang - xang”  
hiệp vần với nhau cùng nhóm thanh bằng, cặp âm tiết  
“nắng - lặng” hiệp vần với nhau cùng nhóm thanh  
trắc, tạo nên sự nhịp nhàng, cân đối cho những dòng  
thơ, sự liên kết các khổ thơ và cả nét đặc sắc thể hiện  
rất riêng của các tác giả.  
Ở mức độ hòa âm, có thể nói cách gieo vần nói  
chung và sự hòa âm của thanh điệu, âm chính, âm  
cuối là yếu tố tham gia vào việc hòa âm cho thơ. Điều  
này cho thấy âm tiết tiếng Việt là đơn vị tạo nên sự  
hiệp vần cơ bản của thơ. Do đó, vần thông được tạo  
bởi sự hòa phối âm tiết giữa các tiếng được gieo vần.  
Vần chính tạo nên âm hưởng tốt nhất cho ngôn ngữ  
thơ do yêu cầu hiệp vần phải có sự đồng nhất cơ bản  
của âm tiết. Kết quả khảo sát vần theo mức độ hòa âm  
trong các bài thơ trên Trang thơ của Báo Văn nghệ  
Đồng Tháp cho kết quả thể hiện ở Bảng 2, như sau:  
2.3. Đặc điểm về nhịp điệu  
Bảng 2. Phân loại vần theo mức độ hòa âm trong các  
bài thơ trên Báo Văn nghệ Đồng Tháp năm 2019  
Trong thơ, nhịp điệu thể hiện chủ yếu trên hai  
mặt ngôn ngữ và cảm xúc. Hai mặt này thường xuyên  
có sự tác động chuyển hóa lẫn nhau khiến cho nhịp  
điệu trong tác phẩm thơ có những biểu hiện hết sức  
phong phú. Có thể thấy, hai đặc điểm nhịp điệu được  
thể hiện rõ nét nhất trong thơ là nhịp ý và nhịp lời.  
Loại vần  
Vần chính  
Số lượng  
483  
Tỉ lệ (%)  
60,9  
Vần thông  
310  
39,1  
Tổng  
793  
100  
Tất cả các cấp độ trong cấu trúc của một tác  
phẩm văn học đều có thể có những yếu tố lập lại, luân  
phiên tạo thành nhịp điệu nghệ thuật, do đó có thể tạm  
nhận diện nhịp điệu trên hai phương diện: nhịp lời và  
nhịp ý. Nhịp lời được tạo nên chủ yếu từ cách phối  
vần, phối thanh, ngắt nhịp. Nhịp ý được tạo nên chủ  
yếu bằng nhịp điệu cảm xúc là nhịp điệu bên trong,  
không nhìn thấy được mà chỉ cảm nhận qua những  
biểu hiện tình cảm của nó.  
Vần chính là sự hòa phối âm thanh ở mức cao  
giữa các tiếng được gieo vần, trong đó bộ phận vần  
kể từ nguyên âm chính đến cuối âm tiết hoàn toàn  
trùng hợp. Phụ âm đầu của các tiếng được gieo vần  
(nếu có) phải khác nhau. Khảo sát các cặp vần chính  
cho thấy, các cặp vần chính có các biểu hiện đa dạng  
khác nhau. Khác nhau ở âm đầu, thanh điệu có thể  
đồng nhất hoàn toàn hoặc chỉ đồng nhất về đặc trưng:  
“Miệt cồn sóng vỗ chiều nay/ Ăn bông điên điển  
giữa ngày nước rong” (Tân Thuận Đông - Thanh  
Sen). Kiểu gieo vần khác nhau hoàn toàn ở âm đầu  
và âm đệm, thanh điệu có thể đồng nhất hoàn toàn  
hoặc khác nhau nhưng vẫn trong phạm vi đồng nhất  
đặc trưng, “Chỉ có nỗi buồn không lặp lại/ Mỗi ngày  
như sóng động rồi yên/ Ta ngồi ráp mãi trăng trong  
nước/ Trăng có vỡ đâu mà cứ phiền” (Xin chút buồn  
tan - Thu Nguyệt).  
2.3.1. Nhịp lời  
Nhịp lời của ngôn ngữ là nhịp điệu được thể hiện  
ở sự ngắt quãng về mặt ngữ âm, cú pháp ở sự ngừng  
nghĩ giữa các âm tiết khi đọc. Dấu hiệu nhận biết của  
nó là dựa trên hình thức dấu chấm câu, sự phân chia  
dòng thơ hay cụ thể hơn nữa là những quy tắc định  
sẵn. Đây là cách ngắt nhịp được sử dụng phổ biến  
trong các thể thơ cách luật và thơ tự do. Sự khác biệt  
về đơn vị nhịp điệu gắn liền với sự khác biệt trong  
cách thức tạo dựng đơn vị nhịp điệu cơ sở đó và tùy  
thuộc vào nhịp đi của cảm xúc và hình tượng. Trong  
đó có hình tượng âm thanh, do đó lệ thuộc rất nhiều  
vào vần và ngữ điệu.  
Vần thông là vần được tạo nên bởi sự hòa phối  
âm thanh giữa các tiếng được gieo vần, trong đó bộ  
phận kể từ nguyên âm chính đến cuối âm tiết không  
lặp lại hoàn toàn mà có thể khác biệt nhau. Nguyên  
âm chính hoặc âm cuối chỉ gần giống nhau, hoặc cả  
88  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 11, Số 1, 2022, 84-90  
rộng với những hình thức mới, tiếp đó lại trở về với  
giai điệu chủ âm bằng việc lập lại một kiểu cú pháp.  
Tương tự như trên, nhịp ngắt của các thể thơ  
Đường luật theo nguyên tắc chẵn trước lẻ sau (2/3,  
2/2/3 hoặc 4/3), đối với cặp câu thất trong thể song  
thất lục bát thì ngược lại, lẻ trước chẵn sau. Nhịp thơ  
lục bát có phần phong phú hơn nhưng phổ biến nhất  
vẫn là nhịp chẵn (2/2/2, 4/4, 2/2/4, 4/2/2...) còn nhịp  
lẻ (3/3) nhìn chung xuất hiện với tần số thấp. Cũng  
như vậy, các thể thơ từ bốn đến tám tiếng cơ bản  
cũng được chia cách ngắt nhịp theo đơn vị chẵn lẻ.  
Nhìn chung dù là thể thơ nào thì cách ngắt nhịp chia  
theo đơn vị ngôn ngữ cũng ít tạo ra những biến động.  
Ngoài ra, hình thức nhịp lời của ngôn ngữ còn  
được thể hiện qua một phương thức khác, đó là ngắt  
nhịp dựa vào sự ngăn cách bằng các dấu chấm câu  
và hình thức phân dòng của câu thơ. Cách ngắt nhịp  
này phần lớn được sử dụng trong thơ tự do. So với  
thơ văn xuôi, thơ tự do có nhiều điểm tương đồng  
nhưng về mặt hình thức văn bản, thơ tự do vẫn sử  
dụng hình thức phân dòng. Câu thơ tự do có độ dài  
ngắn khác nhau, mỗi câu thơ thường đặt trên một dòng  
nhưng cũng có trường hợp nhà thơ tách một câu thơ  
thành nhiều dòng khác nhau, lúc đó, nhịp điệu câu  
thơ thường trùng với đơn vị chữ trên mỗi dòng thơ.  
Bài thơ Tản mạn chiều của tác giả Thanh Yến là một  
ví dụ: “Gió/ Vờn ngủ tóc em/ Hoa dại/ Nép mình bụi  
rậm/ Cành xanh/ Ngúng nguẩy đuổi ngày”. Nếu ta  
xét đơn vị câu thơ theo cấu tạo ngữ pháp thì rõ ràng  
mỗi dòng thơ không phải là một câu nhưng cách phân  
dòng đó đã ngầm chỉ ra cơ chế ngắt nhịp cho người  
đọc, một cơ chế ngắt nhịp hết sức phóng túng, lúc  
nhịp khoan thai, lúc thúc giục, gấp gáp. Nhạc điệu  
bài thơ cũng theo đó mà có những trạng thái vừa sâu  
lắng da diết, vừa âm vang.  
Thơ tự do trên Báo Văn nghệ Đồng Tháp thường  
không tuân thủ cách ngắt nhịp theo đơn vị chẵn lẻ này  
vì lời thơ tự nhiên mang đậm những suy tư, trăn trở  
như những tâm sự thường nhật của con người trong  
cuộc sống thông qua việc miêu tả, kể hơn là biểu hiện  
những cảm xúc, rung động từ tâm hồn. Đặc điểm này  
được thể hiện đa phần ở những sáng tác như: Hò hẹn  
mùa xuân của Trần Nhã My, Đối diện với mùa xuân  
của Ngọc Điệp, Đã không của Trần Quốc Toàn, Em  
không về nơi anh đâu, xứ Tuyên của Nguyễn Thị Kim  
Tuyến, Mai con về với mẹ của Lê Ngọc Anh Thư,…  
Viết bên đền Hai Bà Trưng của Hữu Nhân là một ví  
dụ tiêu biểu: “Sông Hát giờ chỉ còn chảy trong niềm  
thương nỗi nhớ/ Những đồng Dai, đồng Đống, đồng  
Vỡ cũng chỉ còn tên gọi/ Chỉ có những cột đền trơ  
gan cùng sương gió/ Âm vang tiếng ngựa thét voi  
gầm/ Tiếng trống giục đoàn quân ra trận/ Gánh trên  
vai nợ nước thù chồng”. Có thể thấy, dù không tuân  
theo một khuôn nhịp cố định, song nhịp điệu bài thơ  
vẫn có sự luân phiên chẵn lẻ một cách tự nhiên, tạo  
nên một nhịp điệu gần giống với thơ nhưng không đều  
đều như cách kể, cách tả trong văn xuôi. Đây cũng  
chính là một đặc điểm để phân biệt thơ và thơ văn  
xuôi, cũng như thơ văn xuôi và văn xuôi.  
Nếu thơ tự do đã là một bước giải phóng đáng kể  
cho hình thức thơ thì ở thể loại thơ lục bát bên cạnh  
nhịp chẵn (2/2/2, 4/4, 2/2/4, 4/2/2...) còn nhịp lẻ (3/3)…  
là một cú huých mạnh hơn cho sự tự do hóa hình thức  
thơ ca. Nhịp lời trong thơ lục bát ở một số bài trên Báo  
Văn nghệ Đồng Tháp thể hiện rõ sự cách tân khi hầu  
như khước từ mọi phương tiện tạo nhịp của thơ truyền  
thống, cả vần lẫn mô hình đối xứng, mô hình trùng điệp  
được sử dụng với một tần số vô cùng thấp. Hơn thế, lối  
viết tự động phá tung những chuẩn mực ngữ pháp, triệt  
tiêu mọi dấu chấm phẩy khiến nhịp điệu thơ trở nên  
bất định. Quan hệ giữa các từ, các câu, hình ảnh, đoạn  
thơ bị khoét rỗng, tất cả được tung ra từ những mảnh,  
những mảng rời rạc, những ý nghĩ không được sắp đặt.  
Bài thơ lục bát Thu của tác giả Thanh Trắc Nguyễn  
Văn là một điển hình: “Gió lay một nửa cánh chuồn/  
Lá thu một nửa nỗi buồn/ Nửa thôi/ Hoàng hôn một  
nửa chân đồi/ Trăng lên một nửa/ Cuối trời/ Nửa rơi”.  
Hay như cách trùng điệp lời thơ trong tác phẩm  
Khói đồng thơm của Lê Quang Trạng cũng thể hiện  
rõ hiện tượng trùng điệp này: “Đâu phải vô tình hóa  
trắng con say/ Đâu phải vô tâm hóa cay sống mũi/  
Đâu phải vô duyên chở theo cơn bụi/ Sao nhớ suốt  
đời mùi khói đồng thơm”. Các tác giả đã thoải mái  
phô bày con người thời đại. Ở đó, con người hết còn  
mơ mộng đời sống tốt đẹp, văn minh và tiến bộ, không  
còn niềm tin vào tương lai tươi sáng. Mỗi người là  
một thế giới kín bưng bít, âm u hơn, vô vọng hơn.  
Nếu hình dung bài thơ là một bản nhạc không lời,  
thì chủ đề âm nhạc đã được hé mở ngay từ giai điệu  
đầu tiên, một giai điệu khắc khoải, sâu lắng. Sau giai  
điệu mở đầu, hình tượng âm nhạc đã phát triển mở  
Trong nhiều bài thơ, chất nhạc trên phương diện  
hình thức gần như bị xóa mờ. Sự tự do hóa hình thức  
khiến cho thơ mất đi tính du dương, mềm mại, trở nên  
trúc trắc, không xuôi tai. Nhạc không lấy làm điểm  
tựa chính ở bình diện ngữ âm mà chủ yếu trông cậy  
vào sự phát triển trong hình tượng, cụ thể là từ sự láy  
đi láy lại của hình tượng quê hương. Kiểu nhịp điệu  
89  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
này được tác giả sử dụng không phải chỉ với mục đích  
quýt/ Rồi ai cũng trở về với đất/ Chỉ còn lại trời xanh  
tạo nên chất nhạc của âm thanh mà chủ yếu để tạo in mãi cánh đại bàng” (Cánh đại bàng - Hữu Nhân).  
nên sự chồng chất, trùng điệp về hình ảnh. Nhìn nhận  
đời sống thông qua những đối cực là một nét đặc sắc  
trong tư duy nghệ thuật của các tác giả đương đại.  
Sự phân biệt nhịp điệu cảm xúc (nhịp ý) và nhịp  
điệu ngôn ngữ (nhịp lời) chính là ở chỗ nhịp điệu ngôn  
ngữ thể hiện ngay trên cấu tạo vật chất của lớp vỏ âm  
thanh của ngôn ngữ và ở các dấu hiệu hình thức của  
sự ngắt nhịp. Còn nhịp điệu cảm xúc là nhịp điệu bên  
trong, không nhìn thấy được mà chỉ cảm nhận qua  
những biểu hiện tình cảm của nó. Nhịp điệu cảm xúc  
có sự cộng hưởng của những rung cảm bên trong tâm  
hồn nhà thơ với các thuộc tính của hệ thống ngôn ngữ  
mà nhà thơ sử dụng để cấu tạo lời thơ.  
2.3.2. Nhịp ý  
Nhịp điệu ý là một thứ nhịp điệu của cảm xúc,  
là sự biểu hiện ra bên ngoài những rung động của hồn  
thơ. Bên cạnh đó, ở một phương diện khác, cũng có  
những bài thơ rất ít hoặc không sử dụng dấu chấm  
câu. Lúc đó nhịp điệu là dòng thơ, bài thơ không đơn  
thuần chỉ nhận biết qua nhịp điệu ngôn ngữ mà còn  
qua nhịp điệu cảm xúc hay đây chính là nhịp ý.  
3. Kết luận  
Từ các góc độ biểu hiện của ngữ âm về thanh  
điệu, vần điệu, nhịp điệu, chúng ta thấy rằng, ngôn  
ngữ thơ là ngôn ngữ âm vang. Cái âm vang đó một  
mặt được tạo ra nhờ các yếu tố âm và thanh của ngôn  
ngữ, mặt khác nó cũng được tạo ra bởi những rung  
động nội tâm của nhà thơ. Các tác giả đã tận dụng thế  
mạnh của thơ đương đại không chỉ ở từng câu, từng  
chữ đơn lẻ mà còn ở sự phối hợp tổng thể các phương  
tiện âm thanh, gieo vần và tạo nhịp trong đoạn cho  
nên chỉ xuống dòng sau khi đã tạo ra một triết đoạn  
ý nghĩa tạo nên nét độc đáo riêng trong từng sáng tác  
mang đậm dấu ấn phong cách tác giả.  
Với thơ văn xuôi phần lớn không phân dòng,  
nhịp ngắt câu thơ có lúc phải dựa vào các dấu chấm  
câu, dễ thấy nhất là ở bài Quê hương (Lê Huy Mậu):  
“Ta một quê/ Bạn một quê/ Chợt gặp tuổi thơ mình  
trong lời bạn hát/ Như hát cả phần ta về cánh đồng, về  
dòng sông, về mẹ và cả mối tình đầu bên đụn rơm lấp  
ló trăng non”. Từ ví dụ này có thể thấy, thơ văn xuôi  
của Lê Huy Mậu, dù chỉ xuất hiện một bài trên trang  
thơ của Báo Văn nghệ Đồng Tháp năm 2019, nhưng  
đã thể hiện rõ vai trò của nhịp ý càng được gia tăng.  
Hay như cách ngắt nhịp lẻ, không theo quy luật  
ngắt nhịp chẵn của lục bát truyền thống, người đọc như  
cảm nhận được những trúc trắc, muộn phiền, những  
nỗi niềm tâm sự buồn man mát giữa cuộc sống thường  
nhật vốn đã bộn bề. Nhưng nhân vật trữ tình vẫn không  
thôi mơ ước về tương lai sẽ tốt đẹp hơn: “Cầu/, Mai/,  
Dừa/, Đủ/... xếp liền - Đợi năm mới/ đưa ưu phiền/  
bay đi” (Xuân về hái trái ước mơ - Hoàng Tiễn).  
Tóm lại, xét trên phương diện đặc điểm ngữ âm,  
các sáng tác thơ trên Báo Văn nghệ Đồng Tháp đang  
đi theo xu hướng chung của thơ đương đại, ngày càng  
rời xa những ràng buộc của sự hài thanh, của lối gieo  
vần và ngắt nhịp truyền thống, hướng đến một lối viết  
tự do, tung phá. Đây là sự thể hiện một hướng đi tích  
cực đáp ứng khát vọng tìm tòi đổi mới thơ ca, trên cơ  
sở thoát ra những khuôn khổ sáo mòn của thơ cách  
luật, đồng thời tiếp nhận những ảnh hưởng mạnh mẽ  
của nhịp sống hiện thực đa chiều.  
Với đề tài về đất nước, tác giả Lê Ngọc Minh  
Hoàng đã thành công khi chuyển hóa lòng cảm  
thương tha thiết hình tượng đất nước vừa gần gũi vừa  
phi thường bằng những hình ảnh gắn bó thân thuộc  
trong mỗi con người Việt Nam, có đau thương, có  
mất mát song vẫn đầy tự hào và khát vọng vươn lên  
thành những lời thơ hồn hậu với nhịp ý: “Nụ cười của  
ông của cha của chú của anh/ Của mẹ của dì/ Một  
thời xuân trẻ/ Mặt mũi luốc lem khói bom bùn đất/  
Vẫn vang lên sau từng trận đánh/ Tiếng hát lạc quan  
sức sống phi thường” (Đất nước - Lê Ngọc Minh  
Hoàng). Ở đó còn có mạch cảm xúc chảy tràn, xuyên  
suốt những dòng thơ không bất kì một dấu chấm hay  
dấu hỏi nào, nhưng sự tiếc thương, ngưỡng vọng như  
một nốt trầm tạo nên nhịp điệu sâu lắng, tiếc nuối  
không nguôi, “Chẳng lẽ không còn điều kỳ diệu nào  
nữa sao/ Cuối mùa thu mưa đầm trên đường sang xứ  
Tài liệu tham khảo  
Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức. (2003). Thơ ca Việt  
Nam, hình thức và thể loại. Hà Nội: NXB Đại  
học Quốc gia Hà Nội.  
Đỗ Hữu Châu. (1996). Từ vựng - Ngữ nghĩa Tiếng  
Việt. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.  
Đoàn Thiện Thuật. (2003). Ngữ âm tiếng Việt. Hà  
Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.  
Lê Bá Hán. (2004). Từ điển thuật ngữ văn học. Hà  
Nội: NXB Giáo dục.  
Nguyễn Phan Cảnh. (1987). Ngôn ngữ thơ. Hà Nội:  
NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp.  
90  
pdf 7 trang baolam 16/05/2022 4460
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc điểm về ngữ âm trong thơ trên báo văn nghệ Đồng Tháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmot_so_dac_diem_ve_ngu_am_trong_tho_tren_bao_van_nghe_dong_t.pdf