Du kí và những vấn đề còn gây tranh cãi

TP CHÍ KHOA HC  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HCHÍ MINH  
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION  
JOURNAL OF SCIENCE  
Tp 18, S7 (2021): 1347-1358  
Vol. 18, No. 7 (2021): 1347-1358  
ISSN:  
2734-9918  
Bài báo nghiên cứu*  
DU KÍ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN GÂY TRANH CÃI  
Võ Thị Thanh Tùng  
                                     
                                    Email: tungvtt@tdmu.edu.vn  
                 - -                           - -                           21-7-2021  
T   T T  
              ã                        v    ó        í    o             vớ    q    
 â       ô     ú   d      o     o          v    x                             ô     ì          
                  .              o        ô     ì                        vẫ   ò       ý k ế  
          về     v         d                 k                       o     í         ... B   
v ế       ì          v      â              ã          o   d                k         v   í   
      . So    o    ó        v ế     ế          k         d              ì    ũ             
           v   k ế       về  í              d  kí. B   v ế  này  ó       giúp            ó       ì  
 o   d     ơ  về                  vố         vớ              ì   k                  o  
        o            d                           â   o                                q    
 â   ú     .  
T   h a: tranh cãi; tính phi hư cấu; khái niệm du kí; thuật ngữ du kí  
1.  
Đặt vấn đề  
Du kí () là một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Trung Quốc. Từ lâu, du kí được coi  
là một thể loại nằm trong kí. Kí ra đời từ thời cổ đại, với nghĩa là ghi chép. Trong T  
truy n (năm 722 tr.CN) có câu: “Phàm hội chư hầu, có đủ đức, hình, lễ, nghĩa, không nước  
nào không nhớ chép” (phù chư hầu chi hội, kì đức hình lễ nghĩa, vô quốc bt kí) (Dn theo  
Khong, 2002, p.62). Trong buổi sơ khai của lch sử văn hóa nhân loại, kí là mt trong  
nhng hình thc ghi chép chính. Trong quá kh, cnhân xếp du kí, truyn kí, kí s, tp  
kí… vào kí, nhưng đôi khi các thể loại như “bút”, “thuật” “di thảo”, “lục”, “chí”… cũng  
được gọi là kí. Nói như vậy để thấy đây là một thloi rt bác tp. Là thloi nm trong kí,  
du kí cũng mang đầy đủ những đặc trưng của kí, đặc bit, tính cht bác tp của nó cũng  
không hthua kém so vi kí. Hiện nay, du kí được xem là loại hình văn học gắn liền với  
hoạt động du lịch và đang có sự hồi sinh một cách mạnh mẽ. Cùng với đó là mối quan tâm  
đáng kể của các nhà nghiên cứu đối với thể loại này. Chưa bao giờ lại có những cuộc tranh  
luận sôi nổi về một thể loại vốn từng bị coi là “trung lưu”, “chiếu dưới” như trong thời gian  
Cite this article as: Vo Thi Thanh Tung (2021). Travel writing and debates. Ho Chi Minh City University of  
Education Journal of Science, 18(7), 1347-1358.  
1347  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 18, Số 7 (2021): 1347-1358  
gần đây. Tuy nhiên, việc định nghĩa và xác định những đặc trưng thể loại của loại hình văn  
học này không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau. Bài viết này bước đầu tìm hiểu thuật  
ngữ, khái niệm du kí và những vấn đề còn gây tranh cãi của thể loại này ở Việt Nam cũng  
như trên thế giới.  
2.  
Ni dung  
2.1. Vấn đề thut ngvà khái nim du kí  
Trong lch s, “du kí” không được coi là thể loại chính thống trong hệ thống thể loại  
văn học Trung Quốc. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy hầu hết các tác phẩm ghi chép trên  
đường đi của Trung Quốc đều được gọi chung là “kí”, “chí” hay “lục” như  ĩ   C â      
của Liễu Tông Nguyên,    B o       ơ   của Vương An Thạch, Tân Gia Ba phong  
    của Lý Chung Ngọc,  â  d ơ         q     í của Củng Trân, H     o d     í của  
Vương Đại Hải, L          của Lý Cao, H      của Tạ Thanh Cao hay   ô          
của Phạm Thành Đại… Thảng hoặc, thuật ngữ “du kí” mới xuất hiện trong tập  ừ H  
Khách du kí của Từ Hà Khách đời Thanh, nhưng du kí này cũng được người đời sau biên  
soạn và đặt lại tên. Do vị trí khiêm tốn của “du kí” nên mặc dù các nhà phê bình trong các  
triều đại nhà Minh và Thanh đã bắt đầu chú ý đến các ghi chép về du hành, nhưng mãi đến  
nửa đầu thế kỉ XX, thuật ngữ “du kí” vẫn chưa thấy xuất hiện trong các từ điển cổ điển như  
 ừ        (1915) và  ừ     (1938). Gần đây, thể loại này mới được các nhà nghiên cứu  
văn học giới thiệu cho bạn đọc đương đại.  
Vì tính chất phức tạp của “kí” “chí”, “lục”, nên cần thiết phải tìm hiểu các sắc thái ý  
nghĩa của ba thuật ngữ này. Theo Trần Thị Kim Anh và Hoàng Hồng Cẩm thì “thời cổ,  
“kí” (), “chí” () và “lục”() là loại văn dùng để ghi chép li những điều mt thy tai  
nghe” (Tran, 2010, p.102). Tuy nhiên, “những cái gi là mt thy tai nghe ca cnhân rt  
phong phú” (Tran, 2010, p.102), do đó, tính chất ghi chép ca tng loại cũng khác nhau.  
Thông thường “chí” và “lục” được “dùng để ghi chép nhng vấn đề nhng svic dàn tri,  
dài hơi, mang nhiều cht thc lc, thích hp vi ghi chép lch shoặc địa lí, còn kí là loi  
văn được viết ngn gọn hơn, thích hợp vi nhng ghi chép vnhng svic, nhng cm  
xúc tc thì” (Tran, 2010, p.103). Nhưng trong thực tế, người viết thường không quá rch  
ròi khi sdng các thut ngnày, cho nên mi có hiện tượng “có cái được gi là lc thì  
thc tế là nhng truyện kí, có cái được gi là kí thì li là một thiên địa lí hàng trăm trang,  
có cái được gi là chí thì li là mt bài kí ngắn” (Tran, 2010, p.103). Chính vì vậy, có thể  
kết lun rng kí, chí, lục “là thể văn bác tạp nhất và khó phân định nht vthloại” (Tran,  
2010, p.103). Tuy nhiên, về cơ bản “chí” và “lục” “thường được sdng cho các ghi chép  
vlch sử và địa lí” (Tran, 2010, p.103), nhưng do trong thời trung đại, với tư duy nguyên  
hp, cổ nhân chưa phân biệt rạch ròi các ghi chép văn, sử, địa, do đó, ở mt mức độ nht  
định, các tác phm chí và lc ghi chép vcác chuyến đi có thể được coi là du kí.  
1348  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Võ Thị Thanh Tùng  
Trong văn học Việt Nam, có nhiều từ Hán Việt cũng chỉ sự đi như “hành”, nhưng sự  
đi trong “hành” chủ yếu là đi công vụ, đi vì công việc hơn là đi chơi. Bên cạnh đó, cũng có  
loại “kỉ hành” là ghi chép về chuyến đi của mình, với nét nghĩa như vậy nó cũng mang cảm  
hứng của ghi chép du kí. Mặc dù vậy, so với “chí”, “lục”, “hành” thì:  
Kí phóng khoáng, tự do hơn và mang đậm dấu ấn chủ quan của người viết qua cách cảm  
nhận về sự vật, sự việc và những lời bình luận hay phát biểu cảm nghĩ xen vào đó, với mục  
đích chính là ghi lại những gì mà mình thấy có cảm xúc, cảm hứng, theo nhu cầu tình cảm  
của cá nhân. Do vậy khi đi xa, người ta thường chọn cách ghi chép của kí hơn là chí – có thể  
là ghi chép bằng văn xuôi như       k       hay ghi chép bằng thơ như rất nhiều bài thơ  
sứ trình đã quen thuộc với độc giả. (Đoan, 2011, p.789)  
Điều này được thể hiện rõ nhất qua cách đặt tên các tác phẩm ghi chép cuộc hành  
trình, hầu hết là dùng “kí” để định danh, số ít còn lại là dùng các thể loại khác như “chí”,  
“hành”, “lục”…  
Giống như Trung Quốc, ở Việt Nam, vì không phải là thể loại văn học chính thống,  
nên suốt hàng ngn năm văn học, du kí xuất hiện không nhiều. Mãi đến đầu thế kỉ XIX  
mới thấy xuất hiện thuật ngữ “du kí” trong tác phẩm Tam K          d  d   (1805) của  
Ngô Thì Hoàng, Tam Ngô du kí (?) của Nguyễn Văn Siêu. Tuy vậy, “phải đến đầu thế kỉ  
XX, khi du kí xuất hiện nhiều trên các tạp chí như Nam Phong, Phụ ntân văn… đặc biệt  
với sự xuất hiện của những cây bút chuyên viết du kí như Phạm Quỳnh, vấn đề định danh  
du kí” mới chính thức được đặt ra” (Nguyen, 2016).  
Về thuật ngữ, “du” theo  ừ     H        của Đào Duy Anh, nghĩa là “xa xôi”. “Kí”  
nghĩa là ghi nhớ, ghi chép (Dao, 2005, p.354). “Du kí” () là sách ghi chép những điều  
trải qua trong cuộc du lịch (Dao, 2005, p.180). Trong H         ừ     của Thiều Chửu có  
ghi: “du” () là chơi, tới chcảnh đẹp ngm nghía cho thích gọi là du như du sơn, du  
viên. Đi xa cũng gọi là “du”, như du học. Chơi bời, đi lại chơi bời với nhau gọi là “du”  
(Thieu, 2004, p.851). Còn “kí” () có nhiều nghĩa như: nhớ, nhớ kĩ cho khỏi quên, ghi  
chép. Tóm lại “du kí” là sách chép các sự đã nghe, đã thấy trong khi đi chơi (Thieu, 2004,  
p.149).  
Tương tự như vậy,  ừ       ế        do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa “du lịch”  
như sau: “Đi xa cho biết xứ lạ khác với nơi mình ở” (Hoang, 2002, p.264). Từ khái niệm  
ấy, ta có các loại hình gắn liền với du như du ngoạn, du lãm, du hành. Cũng theo  ừ     
  ế       , du ngoạn là “đi chơi ngắm cảnh”, du lãm là “Đi chơi để xem cho biết cảnh đẹp”,  
còn du hành là “đi chơi xa” (Hoang, 2002, p.264). Ở các định nghĩa trên dù là “đi xa cho  
biết xứ lạ” hay “đi chơi ngắm cảnh” hoặc “đi chơi để xem cho biết cảnh đẹp” thì đơn giản  
chỉ là “đi xa cho biết”, còn riêng du kí lại phức tạp hơn ở chỗ nó không chỉ là “đi cho biết”  
mà còn phải “ghi lại những điều người viết chứng kiến trong chuyến đi chơi xa” ấy  
(Hoang, 2002, p.264).  
1349  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 18, Số 7 (2021): 1347-1358  
Tuy nhiên định nghĩa này cũng chỉ dừng lại ở việc “ghi lại những điều người viết  
chứng kiến”, trong khi du kí không đơn thuần chỉ là ghi chép thông thường mà còn hàm  
chứa trong đó những cảm xúc, những suy tư, những so sánh… Thực ra, “du” trong du kí  
không phải lúc nào cũng gắn liền với đi chơi, đặc biệt là đi ra ngoài lãnh thổ nước ta. Có  
những chuyến đi gắn với công việc như đi sang Pháp dự đấu xảo của nhà khoa học Nguyễn  
Công Tiễu, hành trình công vụ này được ông ghi lại trong           â  Â  - H       
    e   e      x o q    ế P    , có chuyến đi gắn với tôn giáo như hành trình của Nhẫn  
Tế thiền sư đến Ấn Độ, Bhutan, Nepal và Tây Tạng để học tập và nghiên cứu Phật pháp  
được ông ghi lại trong Sự  í    â  d  P    q    lại cũng có những hành trình liên quan  
đến chính trị như hành trình sang các nước Đông Á cầu học để thực hiện sứ mệnh duy tân  
đất nước của Nguyễn Bá Trác, một thành viên trong phong trào Đông Du, được ghi lại  
trong H       d  kí…  
Trong tiếng Nga, du kí được gọi là “Путешествие”. Còn người Nhật gọi du kí là  
kikōbun (行文) kỉ hành văn, với hàm nghĩa tương đương với từ “travel writing” trong  
tiếng Anh, từ “relation de voyage” trong tiếng Pháp và từ “ταξιδιωτικό γράψιμο” trong  
tiếng Hi Lạp. Tuy nhiên, ngoài từ “du kí” ra, người ta còn sử dụng các từ như lữ kí, nhật kí  
hành trình, bút kí đi đường… Cũng như trong tiếng Anh, ngoài từ “travel writing”, người  
ta còn dùng từ “travel literature”, “travel record”, “travel record literature” hay “travel  
note” để chỉ các ghi chép hành trình. Theo đó, cũng giống như từ “du kí” trong tiếng Việt,  
“travel writing” trong tiếng Anh vẫn được sử dụng phổ biến hơn cả.  
Du kí trong tiếng Anh được gọi là travel writing, hay travel literature, do đó việc tìm  
hiểu khái niệm travel (du) là điều cần thiết bởi nó sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất  
của thể văn gắn liền với hoạt động du lịch này. Liên quan đến hoạt động du lịch, trong  
tiếng Anh có các từ sau “journey”, “tourist”, “tourism”, “tour”, “travel” đều có nghĩa là du  
lịch, du hành. Tuy vậy, trong mỗi từ vẫn có những nét nghĩa khác nhau. “Journey” theo từ  
điển Cambridge định nghĩa thì đó là “hoạt động du lịch từ nơi này sang nơi khác, đặc biệt  
là bằng phương tiện xe đạp”, còn “tourist” là “hoạt động du lịch và thăm thú các nơi của  
con người để thư giãn và vui vẻ”, “tourism” thì thiên về các hoạt động kinh doanh gắn liền  
với du lịch như cung cấp các phương tiện vận chuyển, chỗ ở, các hình thức giải trí cho  
khách du lịch…, “tour” được định nghĩa là một chuyến viếng thăm một địa điểm hoặc một  
khu vực, mà đặc biệt chuyến đi ấy gắn với mục đích tìm hiểu, khám phá hơn là nghỉ ngơi  
thư giãn, riêng “travel” là “thực hiện một hành trình, thường là đi xa” (to make a journey,  
usually over a long distance) (Dictionary.n.d).  
Trong các định nghĩa trên, định nghĩa về “travel” là bao quát hơn cả. Định nghĩa này  
không giới hạn các chuyến đi, thời gian đi cũng như phương tiện đi... nó đơn giản chỉ là  
“thực hiện một hành trình” và hành trình đó phải là “đi xa”, do vậy nó có thể là các chuyến  
đi chơi đơn thuần nhằm nghỉ ngơi thư giãn, nhưng nó cũng có thể là chuyến đi khám phá,  
đi để kinh doanh, đi để thực hiện công vụ, đi vì mục đích tôn giáo, khoa học, chính trị... tất  
1350  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Võ Thị Thanh Tùng  
nhiên, những hành trình đó phải chứa đựng yếu tố quan sát, tìm hiểu vùng đất lạ. Và như  
thế nó khá phù hợp với tinh thần của “travel writing” là ghi chép về các chuyến đi, trong  
đó không giới hạn về mục đích của các cuộc hành trình.  
Nếu như hiện nay, gii nghiên cu Vit Nam khá thng nht trong vic dùng thut  
ngữ “du kí” để gi tên thloại văn học gn lin vi các chuyến đi, thì giới nghiên cu  
phương Tây lại đang dùng hai thuật ngữ “travel writing”, “travel literature”. Trong đó,  
thut ngữ “travel writing” được dùng phbiến hơn cả. Có thtìm thy thut ngnày trong  
rt nhiu công trình nghiên cu vdu kí như Travel Writing: The Self and the World  
(1997) ca Casey Blanton, Contemporary Travel Writing of Latin America (2009) ca  
Claire Linsay, Travel Writing (2011) ca Carl Thompson, The Cambridge Introduction to  
Travel Writing (2018) ca Tim Youngs. Còn trong các công trình Travel literature (2001)  
ca James M. Hargett, Travel Literature and the Evolution of the Novel (1983) của Percy  
G. Adams li sdng thut ngữ “travel literature”… Sự phong phú trong cách gi tên  
cũng là dấu hiu cho thy, thloại văn học này đang ngày càng được gii nghiên cu quan  
tâm nhiều hơn. Với hai thut ngữ “travel writing” và “travel literature”, sử dng thut ngữ  
nào là phù hp? Tht ra, du kí là thloi mà ranh gii ca nó khá mnhạt, do đó cách gọi  
nào cũng có lí do để tn tại, nhưng mt bên là thiên về “writing” (bản ghi chép, sviết, tác  
phm), to nên ấn tượng vtính trung thc ca ca những điều được ghi chép. Mt bên li  
nhn mạnh tính văn chương của nhng ghi chép y. Tuy nhiên khi dùng thut ngữ  
“literature” (văn chương) sẽ khiến người đọc dễ liên tưởng đến thloại có tính hư cấu  
nhiều hơn vì nghĩa của literature có ni hàm rt rng. Nó bao hàm cả văn chương hư cấu  
lẫn phi hư cấu. Mà bn cht của du kí là ghi chép người tht vic thật và người thưng thc  
du kí cũng là những người có nhu cu tìm kiếm sthật hơn là những câu chuyện hư cấu,  
do vy dùng khái niệm “writing” là phù hợp hơn cả. Tuy vy, không phi ghi chép  
“writing” nào cũng trở thành du kí, chcó nhng ghi chép có giá trnghthut thc s,  
được người đọc đón nhn mi trthành du kí.  
Du kí ngày nay đã trở thành một hiện tượng văn hóa mang tính toàn cầu, do đó sự  
quan tâm dành cho thể loại này ngày càng rõ rệt hơn. Mặc dù vậy, trong quá khứ, thể loại  
này không dành được nhiều sự quan tâm trong giới nghiên cứu. Minh chứng tiêu biểu nhất  
là bộ từ điển Bách khoa Britannica, một trong những bộ từ điển nổi tiếng nhất thế giới hiện  
nay lại không có mục từ “du kí”. Hay ngay tại Việt Nam, bộ  ừ             do Đỗ Đức  
Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên năm 2004 vẫn chưa thấy  
đưa mục từ “du kí” vào. Có thể nói, đây là những thiếu sót rất đáng tiếc cho một thể loại  
vốn gắn liền với những hành trình khám phá vĩ đại của con người trong suốt chiều dài phát  
triển của lịch sử nhân loại.  
Từ những điều phân tích ở trên, chúng tôi cũng cố gắng xác lập một định nghĩa rõ  
ràng về du kí, vì điều đó không chỉ giúp người đọc có được cơ sở để phân định ranh giới  
thể loại, mà còn hiểu được bản chất thể loại của nó. Trong bài viết này, ở một mức độ cho  
1351  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 18, Số 7 (2021): 1347-1358  
phép, chúng tôi đưa ra một định nghĩa về du kí như sau: Du kí là thloại văn xuôi tsphi  
hư cấu, thut li nhng chuyến đi, ghi lại nhng cm xúc, tình cm và suy ngm của người  
viết khi đi đến những vùng đất mi.  
Trong khái niệm này, chúng tôi đề cp bn yếu tlàm nên mt tác phm du kí: i) thể  
văn xuôi tự sự, ii) những tác phẩm phi hư cấu, iii) được ghi chép theo chuyến đi, và vi)  
người viết phải bày tỏ được cảm xúc của mình trước cảnh sắc mới lạ. Tuy nhiên, trong  
phần tiếp theo, chúng tôi chỉ đi vào làm rõ yếu tố quan trọng nhất làm nên cái bản dạng  
riêng của thể loại du kí nhưng cũng là yếu tố gây tranh cãi nhiều nhất, đó là yếu tố “phi hư  
cấu”.  
2.2. Vấn đề tính hư cấu của du  í  
Xoay quanh vấn đề này, có hai luồng ý kiến trái chiều: Một bên cho rằng du kí có thể  
bao gồm các tác phẩm hư cấu, bên còn lại khẳng định du kí không thể dung nạp những câu  
chuyện tưởng tượng. Cuộc tranh luận này đến nay vẫn chưa có hồi kết, bởi ai cũng có  
những lí lẽ riêng của mình.  
Đại diện tiêu biểu cho quan điểm cho rằng du kí có thể bao gồm các tác phẩm hư cấu  
Dea Birkett và Sara Wheeler. Vào những năm 90 của thế kỉ XX, khi du kí bắt đầu được  
giới nghiên cứu quan tâm, Dea Birkett và Sara Wheeler đã mạnh dạn bày tỏ quan điểm:  
Nhà văn du lịch đã tạo nên một sự khởi đầu mới. Một thế hệ các nhà văn những người thúc  
đẩy các giới hạn của thể loại đã xuất hiện từ trường phái phiêu lưu cũ. Các nhà du kí đã trở  
nên văn chương hơn và giảm dần tính đời thường trong tác phẩm của mình. Sự kết hợp giữa  
tiểu sử, hồi kí và hư cấu tạo nên một trong những tài liệu phong phú nhất, do vậy hãy gọi nó  
là du kí mới. (Dea, 1998, p.9)  
Sau đó, hai nhà nghiên cứu này giải thích thêm: “Trong các du kí mới này, điều quan  
trọng là “không phải là những gì chúng ta thấy, mà là cách chúng ta nhìn thấy” (Dea, 1998,  
p.10). Rõ ràng cách nhìn nhận về du kí đã có nhiều thay đổi. Theo Dea Birkett và Sara  
Wheeler, du kí không còn là những ghi chép đơn giản nhằm truyền đạt thông tin đơn  
thuần, nó cần được gia công, trau chuốt và quan trọng hơn, nó cần thể hiện được cái nhìn  
độc đáo của người viết trong quá trình tiếp cận hiện thực. Khi thông tin không còn là điều  
hiếm hoi trong thế giới hiện đại, thì yếu tố khác biệt sẽ là điểm thu hút của du kí trong  
hành trình cạnh tranh với các thể loại khác nhằm tìm kiếm chỗ đứng trong lòng độc giả.  
Cùng thừa nhận tính hư cấu trong du kí còn có nhà nghiên cứu Jan Borm, trong bài  
viết “Defining Travel: On the Travel Book, Travel Writing and Terminology, ông tuyên  
bố du kí “là một thuật ngữ tập thể cho nhiều loại văn bản chủ yếu là hư cấu và phi hư cấu  
với chủ đề chính là du lịch” (Jan, 2004, p.13). Sau đó, Charles Forsdick cũng khẳng định  
du kí là “một hình thức văn học nằm ở đâu đó giữa quan sát khoa học và tưởng tượng”  
(Charles , 2009, p.58). Còn Dinah Roma Sianturi thì chỉ ra rằng du kí đã “vượt qua ranh  
giới và làm đảo lộn các quy ước của các ngành khác. Nó là cả thực tế và hư cấu” (như trích  
dẫn ở Tim, 2018, p.3). Tim Youngs cũng không hề có ý định phủ nhận tính hư cấu của du  
1352  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Võ Thị Thanh Tùng  
kí, ông viết: “Thật khó để bỏ qua ảnh hưởng lẫn nhau của các câu chuyện giả tưởng và  
thực tế về du lịch” (Tim, 2018, p.4).  
Việt Nam, trong cuốn L   k  o         v                  k         ế      
  ế k    , ở phần “Văn chương hiện kim”, mục “Những bước đầu của tiểu thuyết”, Bùi  
Đức Tịnh cũng coi du kí như những thiên kí sự kể những chuyện của chính tác giả: “Được  
xem như là một loại tiểu thuyết, chỉ tô điểm thêm đôi chút những sự thật mà tác giả đã  
chứng kiến” (Bui, 2004, p.363).  
Còn các tác gitrong  ừ              v       thì cho rằng “Dạng đặc bit ca du  
kí phát huy cái cht ghi chép vmin xa lca nó là tiu thuyết du kí vcác xsở tưởng  
tượng, có tính chất không tưởng hay viễn tưởng khoa hc. Ví d: Gu-li- d   ca Xuýp-  
tơ” (Le, Tran, & Nguyen, 2006, p.108).  
Và để bin minh cho stn ti của tính hư cấu trong du kí, Carl Thompson đưa ra  
các lí do sau:  
Smrng vmt thloi này có llà li gii thích da trên lí do rng mt cun tiu thuyết  
giống như một chuyến du hành phi hư cấu có thtrình bày câu truyn kgiàu thông tin, sinh  
ra tkinh nghim trc tiếp ca tác gi, vmột người hoc một địa điểm xa lạ. Hơn nữa,  
nhng tác phẩm hư cấu cũng như phi hư cấu có thhình thành trong chúng ta nhng nhn  
thc mnh mvcác dân tộc và các vùng đất khác. (Carl, 2011, p.24)  
Theo cách gii thích ca Carl Thompson thì du kí có thbao hàm nhng câu chuyn  
hư cấu, tuy nhiên, những hư cấu y phải được da trên chuyến đi có thật ca chính tác giả  
ti một địa điểm xa l. Ông ly tác phm Heart of Darkness (1899) ca Joseph Conrad  
(1857-1924) làm ví d, cun sách là câu chuyện phiêu lưu của Marlow đến vùng đất hoang  
dã và bí n châu Phi da trên hành trình có tht của nhà văn Conrad vào năm 1890. Carl  
Thompson cho rng cun sách dù có nhng chi tiết hư cấu nhưng vì nó da trên nhng tri  
nghim có tht nên câu chuyn kvn có tính thuyết phc cao. Chính bi vy nên ông cho  
rng tiêu chí cho thloi du kí phi là tsự phi hư cấu ngôi thnhất”, nghĩa là ông  
nhn mạnh đến sghi chép chân thc các tri nghim ca chính tác gi- người kể  
chuyện”, còn những hư cấu chlà cht phhoạ làm tăng thêm sự hp dẫn cho du kí. Nghĩa  
là ông yêu cầu nhà văn viết du kí va phải đảm bo tính chân thc li va tạo được hng  
thú cho người đọc. Nhưng làm sao để dung hòa hai phm cht y trong mt tác phm du  
kí? Câu hi không dễ tìm được câu trli. Hiểu được “nỗi khổ” ấy ca những người cm  
bút, Carl Thompson bày tsự đồng cm:  
Đối với tất cả các nhà văn viết du kí đều thấy mình phải thương lượng hai vai trò khác nhau  
một cách tế nhị và có khả năng xung đột: vai phóng viên khi họ tìm cách chuyển tiếp chính  
xác thông tin thu được qua chuyến du lịch và vai người kể chuyện khi họ tìm cách duy trì sự  
quan tâm của người đọc trong thông tin đó, và trình bày nó một cách thú vị, hoặc ít nhất là dễ  
tiêu hóa. Và sự thương lượng cần thiết của hai vai trò này đảm bảo rằng sự phân biệt giữa  
‘hư cấu’ và ‘phi hư cấu’ trong viết du kí không quá rõ ràng như người ta vẫn nghĩ ban đầu”.  
(Carl, 2011, p.29).  
1353  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 18, Số 7 (2021): 1347-1358  
Do thừa nhận hư cấu như là thuộc tính tất yếu của du kí, nên các nhà nghiên cứu trên  
cho rằng cái nhãn “phi hư cấu”, khi được áp dụng cho du kí, ít nhất, có phần đơn giản. Vì lí  
do này, Paul Fussell hiểu thể loại này như là một sự hòa giải “sáng tạo giữa thực tế và hư  
cấu” (Paul, 1980, p.214). Còn Patrick Holland và Graham Huggan thì đề xuất rằng các câu  
chuyện du lịch nên được coi là “hư cấu của biểu tượng thực tế” (Patrick & Graham, 1998,  
p.10). Carl Thompson cũng nhắn nhủ rằng, sự hiện diện của hư cấu không làm “mất uy tín  
thông tin mà chuyến du lịch cung cấp về thế giới rộng lớn”. Và nếu độc giả thừa nhận tác  
phẩm du kí được các nhà văn “hư cấu ở một mức độ nào đó”, thì ông khuyên người đọc  
“không bao giờ nên đọc một cách ngây thơ như một khung cửa kính trong suốt trên thế  
giới” (Carl, 2011, p.30). Tóm lại, khi thừa nhận tính hư cấu, nghĩa là các nhà nghiên cứu  
muốn nhấn mạnh đến phong cách và hiệu quả thẩm mĩ hơn là tính thông tin trong du kí.  
Ta hiểu được những khó khăn của nhà văn viết du kí khi buộc phải lựa chọn cách  
viết mới lạ để thu hút độc giả. Chính vì thế, một số nhà văn chấp nhận thêm thắt những chi  
tiết, những sự kiện, những con người không có thật vào tác phẩm của mình nhằm tăng tính  
hấp dẫn. Tuy nhiên, Hulman rất kiên quyết khi cho rằng “du kí chắc chắn là văn học nhưng  
nó chưa bao giờ là thể loại giả tưởng” (như trích dẫn ở Tim, 2018, p.5). Hoàng Phủ Ngọc  
Tường nhấn mạnh đến tính chân thực của kí nói chung và du kí nói riêng bằng cách ví von:  
Cùng với cảm xúc văn học, bút kí còn chứa đựng cái cõi thực vốn là bản gốc của tác phẩm.  
Sức nặng ấy được di chuyển đi, không giống như một cảm giác mĩ học, mà là một quả  
táo Newton rơi xuống tâm hồn người đọc. (Hoang, 1983).  
Sách       v       cũng yêu cầu người viết kí phải tôn trọng tính khách quan của  
thể loại này, bởi tính khách quan chính là sinh mệnh của kí:  
Kí sự chủ yếu ghi lại những diễn biến khách quan của cuộc sống và con người thông qua  
những sự kiện. Trong kí sự phải tôn trọng tiếng nói khách quan của sự kiện. Người viết kí có  
quyền bình luận, phân tích nhưng chủ yếu vẫn là tiếng nói của bản thân sự sống đang vận  
động, phát triển. (Ha, 1997, p.228).  
Tầm Dương cũng không ngần ngại khi khẳng định “Tác phẩm đã có hai đặc trưng:  
người thật việc thật và có nhân vật “tôi”, thì tác phẩm phải thuộc phạm vi thể “kí” (Tam  
Duong, 1967, p.22). Claire Linsay cũng nói rõ: “Bất kì câu chuyện nào chi phối bởi các  
đặc trưng: tính phi hư cấu, có nội dung liên quan đến một chuyến đi, một cuộc hành trình  
diễn ra trong thực tế, trong đó tác giả, người kể chuyện và nhân vật chính là một hoặc  
giống hệt nhau” thì đó là du kí (Claire, 2009, p.144). Hơn thế nữa, Hoàng Tuấn Phổ cho  
rằng việc “Theo sát người thật việc thật đã trở thành lẽ sống của kí” (Hoang, 1966, p.55-  
58). Sự thật là sinh mệnh của kí, nếu không hiểu được điều đó, kí sẽ bị triệt tiêu và không  
còn bản dạng của mình nữa.  
Đến đây có thể khẳng định rằng bản chất của kí nói chung và du kí nói riêng là ghi  
chép sự việc, nên đối tượng mà kí hướng tới nhất thiết phải là người thật việc thật. Muốn  
vậy, tác giả phải là người tham gia trực tiếp vào câu chuyện và chịu trách nhiệm trước độc  
giả về tính chân thật của những câu chuyện ấy. Để đảm bảo tính chân thật, “người viết kí  
1354  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Võ Thị Thanh Tùng  
không nên đem những cái do mình tưởng tượng rất hay thế cho sự thật cuộc sống” (Hoang,  
1966, p.57). Để làm được điều đó, người viết kí bắt buộc “phải đã đi đến những nơi mà họ mô  
tả. Vì “điều kiện thiết yếu của một cuốn du kí là trải nghiệm sống của tác giả giữa những người  
xa lạ khi xa nhà” (Jonathan, 1982, p.257) nên tác phẩm kí có giá trị như những pho tư liệu lịch  
sử quý giá, giúp cho thế hệ sau có được cái nhìn chuẩn xác về những sự việc và con người của  
thế hệ trước. Do vậy, nói “sách du kí là một loại nhân chứng” (Carl, 2011, p.15) cũng không có  
gì quá đáng. Điều này đồng nghĩa với việc kí không cho phép người viết thêm thắt hay bịa đặt  
vì nó khiến cho độc giả cảm thấy “nếu không phải bị lừa thì cũng là một cái gì gần như là một  
sự phụ lòng tin cậy, một cảm giác gần như bị lỡm” (Tran, 1966, p.23). Và hậu quả là, như  
Hulme phát biểu, “tác phẩm của các tác giả ấy bị mất uy tín và không được gọi là du kí mà  
phải chuyển sang một thể loại khác như là một chuyến du hành bằng tưởng tượng” (Tim, 2018,  
p.4). Thật vậy, “Tuyệt đối không hư cấu là đặc “trưng thể loại cơ bản” của kí, vi phạm đặc  
trưng này, nhà văn nhất định sẽ phá hoại tính chân thực lịch sử và cả tính chân thực nghệ thuật  
của tác phẩm” (Tam Duong, 1967, p.22). Chính đặc điểm không hư cấu, không tưởng tượng sẽ  
“tạo nên niềm tin cậy và gần như là một định lệ giao ước giữa người viết và người đọc”, và  
ngược lại “sự bịa đặt, thêm thắt sẽ tác hại đến lòng tin và cảm xúc thẩm mĩ của người đọc”  
(Ha, 1997, p.218).  
Do vậy, những tác phẩm như G    ve      ve  của Xuýp-tơ hay Robinson Crusoe  
của Daniel Defoe, Dế  è            kí ca Tô Hoài, Th n khúc ca Dante, Tây du kí ca  
Ngô Tha Ân hay Hai v n d  d         n ca J. Verne không thể nằm trong địa hạt  
của du kí, vì chúng hoàn toàn là sản phẩm của hư cấu và có thể được gợi cảm hứng từ  
những hành trình nổi tiếng. Tất cả đều không hthc hin chuyến đi nào nhưng vẫn tưởng  
tượng là có đi và viết như thật, nên cái thật mà các tiểu thuyết gia cố tình tạo ra thực sự chỉ  
là “tựa như thật” mà thôi. Để thuyết phục độc giả tin vào những điều mình viết, các nhà  
văn đã “sử dụng một số phương pháp của du kí để thiết lập và duy trì sự giả vờ rằng những  
nhân vật chính trong truyện đã thực sự trải qua các cuộc hành trình” (Tim, 2018, p.4). Nếu  
có thể gọi tên thì nên gọi các tác phẩm kiểu này là tiểu thuyết giả du kí hoặc nhại du kí thì  
sẽ thuyết phục hơn. Còn trường hợp         ế     của Nguyễn Tuân hay     â  ca Nht  
Linh cũng giống như tác phẩm Heart of Darkness (1899) của Joseph Conrad và gần đây là  
         ô     v     ca Huyền Chip. Cả bốn tác giả trên đều dựa vào chuyến đi có thực  
của mình nhưng lại thêm thắt vào những chi tiết hư cấu và thậm chí là những hành trình hư  
cấu để gia tăng tính thuyết phục cho tác phẩm, vậy chúng có phải là du kí? Đúng hơn nên  
gọi các tác phẩm kiểu này là tiểu thuyết hành trình. Và mặc dù chúng được coi là một  
“phương thức phn ánh thế gii mang tính nghthuật mà trong đó, cuộc hành trình chlà  
điểm tựa để nhà văn đưa vào những câu chuyn, stích bên cnh câu chuyện hành trình”  
(Nguyen, 2018, p.41). Tuy nhiên, khi đã thừa nhận tính hư cấu trong các tác phẩm du hành,  
nghĩa là chúng không còn nằm trong địa hạt của du kí nữa. Và như vậy, các tác phẩm dạng  
1355  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 18, Số 7 (2021): 1347-1358  
này đã không thỏa mãn được những kì vọng vào đặc trưng “người thật việc thật” mà một  
tác phẩm kí có thể mang lại.  
Nhưng vì “Kí là sự can dự trực tiếp của nghệ thuật vào đời sống xã hội. Nghệ thuật là  
hoạt động nhằm thỏa mãn những tình cảm thẩm mĩ của con người” (Tran, 2011, p.360) nên  
ghi chép sự thật không đồng nghĩa với việc ghi chép một cách cơ học, máy móc, mà sự thật  
ấy phải được sàng lọc và sáng tạo lại để tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mang tính tiêu  
biểu, điển hình, giúp kí đạt đến chỗ có giá trị văn học. Nghĩa là:  
Tác phẩm nghệ thuật phải miêu tả cuộc sống một cách chắt lọc và tập trung. Hiện thực cuộc  
sống trong tác phẩm phải phong phú hơn, điển hình hơn hiện thực tự nhiên của cuộc sống.  
Đó là nguyên tắc chung của mọi hoạt động sáng tạo nghệ thuật, và của quy luật điển hình  
hóa nghệ thuật. Tác phẩm kí cũng không vượt ra ngoài quy luật trên” (Ha, 1997, p.220-221).  
Mặc dù kí gần với báo chí, nhưng không có nghĩa là thể loại này “bất cập” những  
phẩm giá của văn học. Để kí có được những phẩm giá này thì nhà văn viết kí phải biết “tìm  
tòi và chọn lọc những điển hình trong vô số con người, sự kiện có thật xảy ra trong cuộc  
sống và biểu hiện những điển hình xã hội ấy sao cho thật sinh động và hấp dẫn” (Thanh,  
1965, p.23-28). Nói rõ hơn thì “người viết cũng cần cải biên, sắp xếp, đảo lộn trình tự của  
các sự việc, tô đậm những nét chính hay xóa mờ những nét phụ của những con người,  
những cảnh vật đưa vào trong bài” (Pham, 1962, p.24). Geoffrey Moorhouse cũng cho  
rằng việc làm cho phép của anh ta khi viết các phẩm du kí của mình là “chỉnh sửa một số  
đoạn hội thoại mà nếu nó lặp đi lặp lại nguyên văn sẽ khiến tôi chán nản. Ngoài ra, tôi sẽ  
không thể cảm thấy thoải mái khi viết sai sự thật” (Geoffrey, 1999, p.20). Do vậy phẩm giá  
văn học giúp du kí mê hoặc người đọc, giúp họ có cơ hội được đắm mình vào những câu  
chuyện phiêu lưu có thật, độc đáo về các vùng đất và con người xa lạ.  
3.  
Kết luận  
Ở Việt Nam, vấn đề thuật ngữ, khái niệm cũng như những đặc trưng của du kí không  
gây quá nhiều tranh cãi, bởi hầu hết các tác giả cũng như giới học giả đều thống nhất quan  
niệm rằng, du kí là thể loại không hư cấu. Đây là điểm khác biệt lớn nhất với quan niệm  
của các tác giả phương Tây. Bản chất của du kí là hư cấu hay phi hư cấu? Câu hỏi này đã  
gây nên nhiều tranh cãi giữa các học giả phương Tây, và có vẻ những cuộc tranh cãi này,  
đến nay, vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Tuy nhiên, chúng ta cũng không phủ nhận một  
thực tế rằng, chính những tranh cãi ấy đã làm cho đời sống của du kí trở nên sôi động và  
nhiều màu sắc hơn. Chứng tỏ, du kí đã là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh  
thần của nhiều thế hệ độc giả, những người đam mê khám phá và ưa vượt thoát trong suốt  
nhiều thế kỉ qua. Bài viết này không tham vọng giải quyết rốt ráo những tranh cãi xoay  
quanh thể loại du kí, tuy nhiên, cũng đưa ra một vài quan điểm riêng. Hi vọng những kiến  
giải này sẽ góp phần bổ khuyết một mảng màu cho bức tranh du kí ngày càng sinh động.  
Hiện nay, nhiều vấn đề liên quan đến du kí còn rất ngổn ngang. Để lấp đầy những khoảng  
trống này, cần có nhiều hơn nữa những công trình nghiên cứu công phu và nghiêm túc.  
1356  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Võ Thị Thanh Tùng  
Tuyên bvquyn li: Tác gixác nhn hoàn toàn không có xung đột vquyn li.  
TÀI  I U THA  KH   
Bui, D. T. (2004). Luoc khao lich su van hoc Viet Nam tu khoi thuy den cuoi the ki XX [A brief of  
Vietnamese literary history from the beginning to the end of the twentieth century].  
Hochiminh City: Literature and Arts Publishing House.  
Carl, T. (2011). Travel Writing. Publisher: Routledge, London and New York.  
Charles, F. (2009). “French Representation of Niagara: From Hennepin to Butor”, in Susan Castillo  
and David Seed, eds. American Travel and Empire. Liverpool: University Press.  
Claire, L. (2009). Contemporary Travel Writing of Latin America. New York London: Routledge.  
Dao, D. A. (2005).      e  H    e  [Chinese -Vietnamese dictionary]. Hanoi: Information Culture  
Publishing House.  
Dea, B., & Sara, W. (1998). ‘Introduction’. in Dea Birkett và Sara Wheeler, eds. Amazonian: The  
Pe      Book of Wo e    ew    ve  W      . London: Penguin.  
Doan, T. T. V. (2011). Hai trinh chi luoc va su chuyen minh cua nhung quan niem van hoa noi  
nguoi tri thuc Viet Nam nua dau the ki XIX [Brief record of the voyage at sea and the  
transformation of cultural concepts among Vietnamese intellectuals in the first half of the  
nineteenth century]. K   e  Ho     o k o      Q o   e    e       Giao luu van hoa tu  
tuong phuong Dong [Book of International Scientific Conference: Vietnam - Cultural  
exchange of ideas of the East]. Hochiminh City: National University Publishing House.  
Geoffrey, M. (1999). “The Inward Journey, the Outward Passage: A Literary Balancing act”.  
Studies in Travel writing 3, (19), 17-25.  
Hoang, P. (Ed) (2002). Tu dien Tieng Viet [Vietnamese Dictionary]. Da Nang: Da Nang Publishing  
House.  
Hoang, T. P. (1966). Ki khong can hu cau [Literature writing does not need fictions]. Literary  
magazine, (11), 55-58.  
Hoang, P. N. T. (1983). Mot vai suy nghi ve the ki [Some thoughts on the literature writing]. Song  
Huong  
Magazine,  
(1).  
Retrieved  
September  
25th,  
2019  
from:  
Jan, B. (2004). Defining Travel: On the Travel Book, Travel Writing and Terminology, in Glenn  
Hooper and Tim youngs (eds). Perspectives on Travel Writing. Aldershot: Ashgate, 13-26.  
Jonathan, R. (1982). The Journey and the Book, in For Love and Money: Writing, Reading,  
Traveling, 1969-1987. London: Collins Harvill, 253-260.  
Khong, T. (2002). Spring and Autumn three stories [Xuan Thu tam truyen]. Episode 2. Translated  
by Hoang Khoi. Hochiminh City: Publishing House.  
Le, B. H., Tran, D. S., & Nguyen, K. P. (2006). Tu dien thuat ngu van hoc [Dictionary of Literary  
Terms]. Hanoi: Education Publishing House.  
1357  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 18, Số 7 (2021): 1347-1358  
Nguyen, H. L. (2018). Dac diem lich su cua the loai du ki [Historical features of the travel writing  
genre]. Ho Chi Minh City University of Education Journal of Science, 15(2), 39-51.  
Nguyen, T. M. Q. (2016). So luoc quan niem ve van hoc du ki Viet NamNhat Ban [Outline of  
concepts about Vietnamese-Japanese travel literature]. Retrieved September 22th, 2019 from:  
Pham, H. (1962). Ve but ki [About the memoir genre]. Literary magazine, (63), 36-38.  
Pham, V. A. (1929). Sang Tay [To the West]. Women's new literature, (9).  
Paul, F. (1980). Abroad british literary travelling between the wars. Oxford: University Press.  
Tam Duong (1967). Ve the ki [About the literature writing genre]. Literary magazine, (2), 22.  
Thieu, C. (2004). Han Viet tu dien [Chinese-Vietnamese dictionary]. Hochiminh City: Youth  
Publishing House.  
Thanh Duy (1965). May suy nghi ve the ki [Some thoughts about the literature writing]. Literary  
magazine, (7), 23-28.  
Tran, D. S. (Ed) (2011). Li luan van hoc [Literary theory]. Hanoi: University education Publishing  
House.  
Tim, Y. (2018), The Cambridge Introduction to Travel Writing. Publisher: Cambridge University  
Press.  
Tran, T. K. A, & Hoang, H. C. (2010). Cac the van chu Han Viet Nam [Types of Chinese literature  
of Vietnam]. Hanoi: Social Science Publishing House.  
Tran, C. (1966). Ki co can hu cau nhu truyen khong? [Is it necessary to have literature writing  
fiction like a story?]. Literary magazine, (8), 23.  
TRAVEL WRITING AND DEBATES  
Vo Thi Thanh Tung  
Thu Dau Mot University, Vietnam  
Corresponding author: Vo Thi Thanh Tung  Email: tungvtt@tdmu.edu.vn  
Received: May 14, 2021; Revised: July 01, 2021; Accepted: July 21, 2021  
ABSTRACT  
Travel writing today has become a global cultural phenomenon. Along with the public's  
interest in this genre, there is an increase in the academic studies of the topic. In these studies, it  
can be seen that there are still many conflicting views about the issues of travel writing such as  
terminology, concept, genre boundaries, and fictional nature of the genre. This article explores two  
controversial issues of the travel writing genre: terminology and concept and fiction. The paper  
also discusses a different definition of the concept of travel writing and explains the fictional  
nature of travel writing. This article will provide a more comprehensive view of documents  
associated with great discovery journeys of human beings which is not yet extensively researched.  
Keywords: conflicting views; non-fiction; travel writing; terminology concept  
1358  
pdf 12 trang baolam 13/05/2022 3560
Bạn đang xem tài liệu "Du kí và những vấn đề còn gây tranh cãi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdu_ki_va_nhung_van_de_con_gay_tranh_cai.pdf