Vai trò của báo chí - Truyền thông trong việc tạo lập và định hướng dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay

Đỗ Hải Hoàn / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 5(48) (2021) 155-163  
155  
5(48) (2021) 155-163  
Vai trò của báo chí - truyền thông trong việc tạo lập và định hướng  
dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay  
The role of the press - media in creating and orienting public opinion in Vietnam  
Đỗ Hải Hoàn*  
Do Hai Hoan*  
Khoa Đa phương tiện, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, Việt Nam  
(Ngày nhận bài: 05/10/2021, ngày phản biện xong: 08/10/2021, ngày chấp nhận đăng: 22/10/2021)  
Tóm tắt  
Truyền thông và dư luận xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Truyền thông phản ánh và lan  
truyền dư luận xã hội, ngược lại dư luận xã hội vừa là đối tượng, vừa là đối tác của truyền thông. Bài viết này phân tích  
vai trò của báo chí - truyền thông đối với dư luận xã hội và thông qua các trường hợp thực tiễn hiện nay để làm rõ mối  
quan hệ đó.  
Từ khoá: báo chí; truyền thông; dư luận xã hội; công chúng.  
Abstract  
Media and public opinion have a dialectical relationship, interacting with each other. The media reflects and spreads  
public opinion, whereas public opinion is both an object and a partner of the media. This article analyzes the role of the  
press - media in public opinion and through current practical cases to clarify that relationship.  
1. Đặt vấn đề  
trong đời sống xã hội. Do vậy, với sự tiếp sức  
của báo chí, truyền thông, dư luận xã hội có sức  
ảnh hưởng rất lớn đối với nhận thức, hành vi  
của công chúng. Một xã hội được điều chỉnh và  
thay đổi theo chiều hướng tích cực dựa trên nền  
tảng dư luận xã hội chính là biểu hiện của một  
xã hội dân chủ, tiến bộ.  
Dư luận xã hội (DLXH) được hiểu là tổng  
hợp các quan điểm, thái độ và niềm tin của một  
nhóm người hay cộng đồng xã hội về một vấn  
đề hay sự việc cụ thể thu hút sự quan tâm của  
nhiều người. Trong xã hội hiện đại, dư luận xã  
hội là một hiện tượng phổ biến trong mọi lĩnh  
vực, mọi góc độ của đời sống. Thông qua các  
phương tiện truyền thông, dư luận xã hội được  
phản ánh và lan truyền với tốc độ nhanh, tần  
suất liên tục, cường độ mạnh khiến dư luận  
giống như “vết dầu loang” ngày càng lan rộng  
2. Phần nội dung  
2.1. Khái niệm về dư luận xã hội  
Cho đến nay, trên thế giới có hàng trăm khái  
niệm khác nhau và rất khó để đi đến sự thống  
*Corresponding Author: Do Hai Hoan; Faculty of Multimedia, Posts and Telecommunications Institute of Technology,  
Hanoi, Vietnam.  
156  
Đỗ Hải Hoàn / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 5(48) (2021) 155-163  
nhất một khái niệm về dư luận xã hội. Tuy  
nhiên, nhiều học giả về dư luận xã hội đồng  
tình rằng, để một hiện tượng được coi là dư  
luận xã hội, ít nhất phải thỏa mãn bốn điều  
kiện: (1) phải có vấn đề, (2) phải có một số  
lượng đáng kể các cá nhân bày tỏ ý kiến về vấn  
đề này, (3) ít nhất một số ý kiến trong số này  
phải phản ánh sự đồng thuận nào đó, và (4) sự  
đồng thuận này phải trực tiếp hoặc gián tiếp  
gây ảnh hưởng (W. Phillips Davison, 1958).  
DLXH có tác động mạnh mẽ đến kinh tế,  
chính trị, xã hội, đạo đức, pháp luật.  
Thời gian gần đây dư luận xã hội xôn xao và  
dấy lên nghi vấn về việc có phải một số nghệ sĩ  
danh tiếng “ém nhẹm” hàng chục tỷ đồng tiền  
đóng góp làm từ thiện của các mạnh thường  
quân hay không? Trong lĩnh vực giáo dục, dư  
luận xã hội phàn nàn về những bất cập trong  
việc dạy và học online. Trong lĩnh vực kinh tế,  
dư luận liên tục lên tiếng về những khó khăn,  
cản trở về các thủ tục hành chính, giấy tờ phiền  
phức và những nhiễu nhương của cán bộ quản  
lý đối với doanh nghiệp. Trong lĩnh vực giao  
thông, xây dựng, dư luận xã hội bức xúc trước  
hàng loạt dự án giao thông bị chậm trễ, không  
đảm bảo chất lượng gây ảnh hưởng đến cuộc  
sống người dân hay việc lạm dụng quyền lực  
của cán bộ công chức Nhà nước để chiếm dụng  
đất công. Dư luận xã hội đã đi sâu vào mọi lĩnh  
vực và tham gia vào quá trình biến đổi, phát  
triển đất nước.  
Theo V.X. Kôrôbâynhicốp, dư luận xã hội  
“là sự thể hiện nhận thức của xã hội (dưới dạng  
nhận định, thái độ, hành vi) trong đó phản ánh  
sự đánh giá của các nhóm XH về hiện tượng  
thời sự của thực tại và trở thành mối quan tâm  
lớn của xx hội” (Nguyễn Văn Dững, 2011).  
Đây là một khái niệm có tính khái quát cao và  
gần gũi với thực tiễn ở Việt Nam.  
Tác giả Lương Khắc Hiếu (2014) định  
nghĩa: Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái  
độ có tính chất phán xét đánh giá của các nhóm  
XH trước những vấn đề mang tính thời sự, có  
liên quan tới lợi ích chung, thu hút sự quan tâm  
của nhiều người và được thể hiện trong các  
nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.  
Theo Ban Tư tưởng Văn hoá TW: “DLXH là  
tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn  
đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự”.  
DLXH là căn cứ quan trọng để các nhà  
hoạch định chính sách vào cuộc xem xét, điều  
tra vấn đề, căn cứ trên những bàn luận, phân  
tích, đóng góp ý kiến của công chúng để điều  
chỉnh, bổ sung các chủ trương chính sách pháp  
luật và xây dựng các quy định, chuẩn mực  
trong xã hội. Ở các quốc gia phát triển, kết quả  
điều tra DLXH luôn được chú ý và coi trọng  
đối với các tổ chức chính trị, các nhà quản lý và  
lãnh đạo.  
Mỗi khái niệm đều có những quan điểm và  
góc nhìn riêng, có thể theo nghĩa rộng hoặc  
nghĩa hẹp, tuỳ biểu hiện ở mỗi cộng đồng, quốc  
gia. Tuy nhiên, có thể rút ra một số đặc điểm  
chung nhất của DLXH như sau:  
2.2. Tác động của dư luận xã hội đối với đời  
sống xã hội  
Đề cập đến các vấn đề thời sự;  
Dư luận xã hội là tập hợp những trạng thái ý  
thức của xã hội liên quan đến mọi mặt của đời  
sống xã hội như: thẩm mỹ, đạo đức, văn hoá,  
chính trị, pháp luật, kinh tế,…Có thể nói, dư  
luận xã hội len sâu vào mọi ngóc ngách, mọi  
lĩnh vực và tạo tác động không hề nhỏ với  
những đối tượng liên quan. Có thể khái quát tác  
động của dư luận xã hội trong một số lĩnh vực  
nổi bật như sau:  
DLXH được thể hiện dưới dạng: biểu cảm,  
phân tích, đánh giá, kiến nghị;  
Các luồng quan điểm có thể nhiều chiều,  
nhiều mặt;  
Vấn đề có liên quan đến lợi ích của các  
nhóm xã hội, cộng đồng xã hội.  
Vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều  
người/nhóm lớn trong xã hội.  
Đỗ Hải Hoàn / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 5(48) (2021) 155-163  
157  
2.2.1. Trong lĩnh vực chính trị  
Kinh tế là một lĩnh vực “nóng” và hết sức  
nhạy cảm bởi nó liên quan đến “túi tiền” của rất  
nhiều người, ảnh hưởng đến lợi ích nhóm và  
quyền lực của một bộ phận trong xã hội. Dư  
luận xã hội như “tai mắt” khắp nơi, đóng vai trò  
giám sát và phản biện các hoạt động kinh tế của  
các cá nhân, tổ chức cũng như việc ban hành  
các chính sách kinh tế.  
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quần  
chúng nhân dân có vai trò to lớn trong việc giải  
quyết các vấn đề xã hội. Bác nhấn mạnh một  
quốc gia độc lập dân chủ cần phải có được sức  
mạnh tổng lực của nhân dân để cải biến xã hội.  
Vì vậy, nhân dân có vai trò quyết định vận  
mệnh lịch sử và tiến trình phát triển của một  
quốc gia.  
2.2.3. Trong lĩnh vực đạo đức, văn hoá  
Chính trị là một lĩnh vực bao trùm tất cả mọi  
vấn đề của đời sống xã hội. Các vấn đề chính trị  
liên quan đến những chính sách, khung pháp lý  
nhằm tạo thuận lợi cho các lĩnh vực hoạt động  
hiệu quả, giải quyết các mối quan hệ giữa các  
giai tầng trong xã hội, điều hoà lợi ích giữa các  
vùng miền trong quốc gia. Nếu các chính sách  
này được nhân dân ủng hộ và làm theo, Nhà  
nước sẽ huy động được nguồn lực tối đa của  
nhân dân cả về vật chất và tinh thần trong quá  
trình phát triển đất nước hướng tới mục tiêu vì  
sự công bằng, dân chủ, văn minh.  
Văn hoá, giáo dục là nền tảng tư tưởng, đạo  
đức, lối sống của một quốc gia và nó được hình  
thành, phát triển trong suốt chiều dài lịch sử  
của quốc gia đó. Đời sống xã hội của con người  
có được cải thiện và ngày càng hạnh phúc,  
thành công hơn hay không phụ thuộc rất lớn  
vào quá trình cải biến đạo đức, lối sống, văn  
hoá sao cho phù hợp với sự phát triển và văn  
minh của nhân loại. Trong quá trình cải biến  
đó, dư luận xã hội có vai trò quyết định đối với  
sự tồn tại, lưu truyền, lan toả hay kìm chế, ngăn  
cản và xoá bỏ một biểu hiện hành vi hay đặc  
tính nào đó của xã hội.  
Sự tham gia mạnh mẽ của nhân dân được thể  
hiện thông qua nhiều hình thức từ hệ tư tưởng,  
nhận thức, thái độ, cảm xúc, hành động, phản  
ứng của họ. Sự đồng tình, phản đối hay những  
phân tích, đánh giá đến từ dư luận xã hội đóng  
góp những tiếng nói quan trọng và có giá trị  
giúp Nhà nước lựa chọn được những quyết sách  
đúng đắn. Một xã hội càng phát triển, vai trò  
đánh giá, kiểm tra, giám sát, tư vấn của dư luận  
xã hội đối với các hoạt động của Nhà nước  
càng được đề cao và phát huy hiệu quả.  
Trước một việc, hiện tượng cụ thể, dư luận  
xã hội sẽ phản ánh, đánh giá, bình luận thông  
qua việc khen – chê, yêu – ghét, vui mừng –  
phẫn nộ, đồng tình – phản đối,… Những cách  
phản ứng này nhằm tạo áp lực đối với xã hội,  
các nhà quản lý, lãnh đạo khiến họ phải đưa ra  
các giải pháp giải toả tâm trạng bất ổn của xã  
hội và đưa sự việc trở lại sự ổn định, đáp ứng  
nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân  
dân. Có thể nói, dư luận xã hội như một cơ chế  
vận động tự nhiên giúp mỗi cá nhân và các  
nhóm xã hội soi vào đó để biết mình đúng – sai,  
hay – dở, tốt – xấu ở chỗ nào, từ đó có thể điều  
chỉnh lại cho phù hợp với chuẩn mực văn hoá,  
đạo đức của cộng đồng đó đề ra. Dư luận xã hội  
có sức mạnh đấu tranh để gìn giữ những điều  
nhân văn, tốt đẹp và loại trừ những thói hư tất  
xấu, các biểu hiện trái với văn hoá và đạo đức.  
2.2.2. Trong lĩnh vực kinh tế  
Việt Nam chuyển đổi từ một đất nước theo  
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền  
kinh tế thị trường với sự đổi mới năng động  
nhằm đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện  
đại hoá đất nước. Để đạt được mục tiêu này, dư  
luận xã hội được xem là phương thức quan  
trọng trong việc thiết lập và duy trì xã hội đồng  
thời nâng cao hiệu quả trong việc đưa ra các  
quyết định trong quản lý kinh tế.  
158  
Đỗ Hải Hoàn / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 5(48) (2021) 155-163  
2.3. Vai trò của truyền thông đối với dư luận  
xã hội  
Việc khơi nguồn dư luận xã hội có ý nghĩa rất  
lớn là khơi dậy sự quan tâm, suy nghĩ của công  
chúng, khơi dậy sự đóng góp nguồn lực của  
công chúng về tình cảm, trí tuệ, công sức, vật  
chất trong quá trình xây dựng, quản lý và phát  
triển đất nước. “Dư luận xã hội không chỉ là yếu  
tố ảnh hưởng đến chính sách mà cũng là đòn bẩy  
thúc đẩy quá trình lan toả của chính sách”  
(Julianna Pacheco & Elizabeth Maltby, 2017).  
Vai trò được hiểu là tập hợp các chuẩn mực  
hành vi của một cá nhân, tổ chức cần phải đảm  
nhiệm khi ở một vị trí cụ thể. Vai trò của truyền  
thông đối với dư luận xã hội được biểu hiện  
như sau:  
2.3.1. Truyền thông là nơi khơi nguồn dư  
luận xã hội  
Rất nhiều sự việc đã được truyền thông khơi  
nguồn dư luận mang lại đổi thay hiệu quả hay  
những tác động tích cực trong đời sống nhân  
dân và đối với việc quản lý xã hội. Điển hình  
như thời gian chống dịch Covid vừa qua tại  
Việt Nam. Từ cuối năm 2019, virus SARS-  
COV 2 xuất hiện và lây lan ở Trung Quốc  
khiến nước này chịu tổn thất nặng nề về người  
và ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, xã hội.  
Việt Nam sớm nhận thức được sự nghiêm trọng  
của vấn đề nên đã cảnh báo người dân thực  
hiện nghiêm các biện pháp và cùng chung tay  
bảo vệ bản thân, gia đình và xã hội. Trên các  
phương tiện truyền thông liên tục xuất hiện các  
hình ảnh 5K (Khẩu trang, Khử khuẩn, Khoảng  
cách, Không tập trung, Khai báo y tế) nhằm  
tuyên truyền cho toàn dân nắm rõ và triệt để  
thực hiện. Nhiều cơ quan báo chí tổ chức riêng  
chuyên mục để khơi dậy phong trào ở nhà chống  
dịch, ai ở đâu ở yên đó, dấy lên tinh thần nghiêm  
túc thận trọng chống dịch,… Bên cạnh đó, báo  
chí truyền thông cũng khơi nguồn các hoạt động  
đóng góp, ủng hộ, từ thiện về tiền bạc và vật  
chất từ phía nhân dân cho các Quỹ hỗ trợ người  
khó khăn, tiếp tế cho các đơn vị làm nhiệm vụ  
chống dịch hay Quỹ vaccin Việt Nam,…  
“Khơi nguồn không phải là tạo dựng từ con  
số không hay nặn ra dư luận xã hội theo kiểu vo  
tròn bóp méo, có bé xé ra to, có ít xuýt ra  
nhiều” (Nguyễn Văn Dững, 2011). Truyền  
thông khơi nguồn dư luận xã hội được hiểu là  
các phương tiện truyền thông là nơi đề cập đến,  
gợi ra, nêu lên vấn đề mà công chúng đang âm  
ỉ, ngấm ngầm lan truyền, từ đó châm ngòi và  
thổi bùng lên thành vấn đề chung của xã hội.  
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của  
internet khiến dư luận xã hội càng dễ dàng và  
nhanh chóng được hình thành và lan truyền, tạo  
tác động rất lớn đối với công chúng và xã hội.  
Các kênh truyền thông hình thành nên dư luận  
trong công chúng bắt đầu từ việc đưa tin về một  
sự việc, sự kiện, vấn đề hay một nghi vấn nào  
đó đang nhen nhóm và lan truyền trong các  
nhóm nhỏ. Từ việc đưa tin, truyền thông có thể  
làm dấy lên những luồng ý kiến, nhận định,  
phân tích, đánh giá của nhiều nhóm công chúng  
khác nhau trong xã hội.  
Những vấn đề, sự việc được truyền thông  
lựa chọn đăng tin phải có khả năng gây chú ý,  
sự quan tâm của nhiều người, liên quan đến  
quyền lợi của một nhóm công chúng cụ thể hay  
gắn với lợi ích quốc gia. Các kênh truyền thông  
cũng có thể dẫn dắt dư luận khi tạo ra những  
thông tin có tính hướng dẫn, định hướng công  
chúng. Như vậy, từ thông tin ban đầu xuất hiện  
trong một bộ phận công chúng, trên mạng xã  
hội hay trên báo chí đều có thể được khơi  
nguồn thành vấn đề lớn tầm cỡ khu vực, quốc  
gia, thậm chí của thế giới.  
Một sự kiện nổi bật như một cơn địa chấn  
trong ngành giáo dục nước ta là việc gian lận  
điểm thi trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2018.  
Vào tháng 7/2018, sau khi công bố điểm thi  
của kỳ thi THPT quốc gia 2018, dư luận đã đặt  
ra nhiều nghi vấn về điểm thi cao bất thường ở  
Hòa Bình, Hà Giang, Sơn La. Những người đầu  
tiên lên tiếng về sự bất thường này là ba thầy  
Đỗ Hải Hoàn / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 5(48) (2021) 155-163  
159  
giáo: Thầy Vũ Khắc Ngọc và thầy Nguyễn  
Thanh Tùng (Trung tâm Học mãi), thầy  
Mạnh Tùng (Trường THCS&THPT Lương Thế  
Vinh, Hà Nội). Trong khi đó, tại Hòa Bình, việc  
gian lận điểm thi được phát hiện thông qua lá  
thư nặc danh tố một số học sinh kém nhưng  
điểm thi lại cao.  
2.3.2. Truyền thông phản ánh và lan truyền  
dư luận xã hội  
Như nội dung trên đã đề cập về vai trò khơi  
nguồn dư luận của truyền thông, có thể diễn  
giải quy trình xuất hiện dư luận xã hội như sau:  
Tmt svic, skin cthể được truyn  
thông đưa tin to nên nhng ý kiến, quan  
điểm ca các cá nhân;  
Một loạt các cơ quan báo chí chính thống như  
VTV, VTC, Vietnamnet, VnExpress, Lao động,  
Tuổi trẻ, Thanh niên,… đã đưa tin về sự việc  
này. Những thông tin làm rúng động dư luận xã  
hội buộc các cơ quan chức năng phải khẩn  
trương vào cuộc điều tra để làm rõ sự việc.  
Các ý kiến này được phn ánh và lan  
truyền, trao đổi, chia svi nhau và thành  
lp nên nhng lung ý kiến ln ca các  
nhóm khác nhau;  
Các lung ý kiến ln này tiếp tục đưc phn  
ánh và lan truyn trên báo chí và các din  
đàn, các phương tiện truyn thông vi tn  
sut cao và trên quy mô rng to ra nhng  
làn sóng dư luận liên tc, mnh mgây sc  
ép đối vi xã hi.  
“Vấn đề khơi nguồn dư luận xã hội liên  
quan đến phong cách chủ động và dành thế chủ  
động trong thông tin báo chí để có thể chiếm  
lĩnh trận địa thông tin, tư tưởng ngay từ đầu”  
(Nguyễn Văn Dững, 2011). Vì vậy mà người  
làm truyền thông báo chí liên quan đến định  
hướng tư tưởng được coi như “lính gác biên  
phòng” không được phép “ngủ gật” hay lơ là để  
cho nguồn thông tin vượt ngoài tầm kiểm soát  
của mình. Nếu để những thông tin xấu độc xâm  
chiếm vào đời sống xã hội, gây hoang mang sợ  
hãi hoặc gây ảnh hưởng xấu đến nhận thức, tư  
tưởng của nhân dân thì sẽ rất khó khăn để lấy  
lại sự yên ổn, trật tự và an toàn trong xã hội.  
Như vậy có thể thấy truyền thông có vai trò  
vô cùng quan trọng trong việc phản ánh, lan  
truyền thông tin và hình thành dư luận xã hội.  
Sự ra đời của các phương tiện truyền thông làm  
thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của công  
chúng đối với những thông tin liên quan đến  
cuộc sống của họ, liên quan đến các cộng đồng  
trong xã hội có sự gắn bó mật thiết với họ.  
Đồng thời, trình độ dân trí càng cao, người dân  
càng yêu cầu được biết về tình hình thời sự,  
những sự kiện và vấn đề của đất nước đang xảy  
ra. Bên cạnh đó, họ muốn tham gia, đóng góp  
vào quá trình thay đổi và phát triển đất nước.  
Vì vậy, việc phản ánh và lan truyền dư luận xã  
hội một cách chân thực, đầy đủ, minh bạch, kịp  
thời vừa là nhiệm vụ của báo chí, truyền thông  
vừa là nguồn động lực to lớn thúc đẩy xã hội  
công bằng, dân chủ, tiến bộ.  
Việc khơi nguồn thông tin đòi hỏi người làm  
truyền thông cần phát huy các yếu tố như khả  
năng phát hiện thông tin, “xã hội hoá” sự kiện,  
tốc độ và tần suất xuất hiện thông tin, lựa chọn  
góc độ thông tin và thời điểm đưa tin sao cho  
công chúng quan tâm nhiều nhất và tác động  
đến lợi ích của họ lớn nhất. Thông thường, mọi  
người sẽ quan tâm đến những vấn đề “sát sườn”  
với họ, ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Vì  
vậy, nếu nguồn tin luôn định hướng tôn trọng  
sự thật, tôn trọng khán giả và bảo vệ quyền lợi  
của nhân dân thì dễ tạo được niềm tin và ủng  
hộ từ phía công chúng.  
Trường hợp Công ty Vedan xả thải như một  
sự bức tử đối với sông Thị Vải ở Đồng Nai  
trong suốt 14 năm và sẽ không có hồi kết nếu  
không có sự lên tiếng của dư luận xã hội. Xuất  
phát từ những phản ánh của người dân địa  
160  
Đỗ Hải Hoàn / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 5(48) (2021) 155-163  
phương đối với các cơ quan báo chí truyền  
thông và các cơ quan chức năng, sau một thời  
gian theo dõi, ngày 10/9/2008 đoàn kiểm tra đã  
bắt quả tang công ty Vedan lén lút xả thải ra  
sông Thị Vải mà không qua xử lý. Tuy nhiên,  
việc xử lý công ty Vedan diễn ra trong sự trù  
trừ, chậm trễ, lúng túng của các cơ quan chức  
năng. Việc “đẩy bóng” qua lại giữa Bộ Tài  
nguyên-Môi trường, Bộ Tư pháp và UBND tỉnh  
Đồng Nai gây xôn xao dư luận khiến họ đặt dấu  
chấm hỏi liệu có uẩn khúc gì mà một sự vệc rõ  
ràng như vậy lại không thể xử lý nhanh chóng,  
kịp thời. Báo chí truyền thông đã phản ảnh và  
thông tin đầy đủ về tâm trạng bất an, bức xúc  
và những nghi vấn của xã hội xung quanh sự  
việc. Tiếng nói của người dân, ý kiến bàn luận  
của các chuyên gia, quan điểm của các nhóm xã  
hội liên tiếp xuất hiện trên các phương tiện  
truyền thông tạo áp lực đối với các cơ quan chức  
năng khiến Thủ tướng Chính phủ phải có ý kiến  
chỉ đạo xử lý khẩn trương, kiên quyết vụ việc.  
tới “tập trung giải quyết các vấn đề kinh tế-xã  
hội lớn đang đặt ra, mang lại lợi ích cho cộng  
đồng và cho mỗi người” (Nguyễn Văn Dững,  
2011). Truyền thông chỉ trở nên quan trọng khi  
công chúng được tiếp nhận mức độ thông tin  
đáng kể với một định hướng đánh giá nhất quán  
(Hubert I M Claes & Hajo G. Boomgaarden,  
2006). Vậy sự định hướng có “bóp nghẹt” ý chí  
riêng của mỗi cá nhân hay nhóm nào đó? Bất  
cứ ai cũng có những sở thích, quan điểm cá  
nhân và mong muốn được tôn trọng và chấp  
nhận. Giữa các cá nhân, các nhóm, các cộng  
đồng luôn tồn tại sự khác biệt và bất đồng. Tuy  
nhiên, quá trình vận động và phát triển của xã  
hội suy cho cùng cũng là quá trình thúc đẩy sự  
tương đồng và thu hẹp, làm giảm hoặc xoá bỏ  
dần sự bất đồng. Bên cạnh đó, mỗi người vẫn  
có thể giữ lại sự khác biệt của mình và chấp  
nhận sự khác biệt của người khác. Làm tốt việc  
này sẽ giúp duy trì ổn định và trật tự xã hội mà  
không triệt tiêu sự khác biệt. Đây là nhu cầu  
của các cá nhân cũng như các nhà quản lý, lãnh  
đạo bởi điều đó không gây tổn thương các bên  
mà vẫn bảo tồn lợi ích chung.  
2.3.3. Truyền thông định hướng dư luận xã  
hội  
Định hướng là xác định phương hướng nhận  
thức và hành động nhằm tập trung nguồn lực  
tối đa để đạt được mục tiêu nhất định. Trong  
một thế giới rộng lớn, sự hiểu biết là vô tận,  
nguồn thông tin không ngừng tuôn chảy, sự đa  
dạng và phức tạp trong xã hội khiến mỗi người  
đều có nhu cầu được định hướng nhận thức và  
hành động nhằm đạt được những mong muốn  
của bản thân. Mặt khác, đặc điểm của con  
người là luôn sinh hoạt theo nhóm, tập thể hay  
cộng đồng xã hội, vì vậy họ luôn mong muốn  
tìm kiếm và đạt được sự đồng thuận trong thái  
độ, thống nhất về ý chí, từ đó tập hợp sức mạnh  
tổng lực để xây dựng cuộc sống, giải quyết các  
vấn đề lớn và đáp ứng các nhu cầu về vật chất  
và tinh thần.  
Báo chí truyền thông là phương tiện không  
thể thiếu trong quá trình tập hợp và quy tụ lòng  
dân, khơi nguồn sức mạnh ý chí quốc gia, từ đó  
huy động tối đa nguồn lực về niềm tin, về trí  
tuệ để đóng góp cho công cuộc phát triển đất  
nước và đảm bảo cuộc sống ngày càng tốt đẹp  
cho nhân dân.  
Thực tế cho thấy, trong giai đoạn phòng  
chống dịch Covid vừa qua ở Việt Nam, để động  
viên tinh thần của nhân dân thực hiện đúng các  
chỉ thị và quy định phòng chống dịch, báo chí  
truyền thông đã đưa tin và lan truyền nhiều  
thông điệp có ý nghĩa định hướng hành vi đối  
với người dân như: “ở nhà là yêu nước”, “yêu  
nước, hãy ở nhà”, “mỗi người dân là một chiến  
sĩ”, và tiếp tục lan toả những hành động nhân  
văn tốt đẹp như: “tương thân tương ái” “lá lành  
đùm lá rách”, “trái tim nhân ái”,… Những  
Định hướng dư luận xã hội là quá trình “bắt  
mạch” tâm lý nguyện vọng của nhân dân để từ  
đó định hướng nhận thức và hành động hướng  
Đỗ Hải Hoàn / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 5(48) (2021) 155-163  
161  
thông điệp đó cũng được triển khai thành  
những hoạt động thực tiễn có ý nghĩa càng tăng  
thêm sức mạnh về tinh thần đồng thời làm dấy  
lên phong trào thiện nguyện và hỗ trợ mùa dịch  
trên khắp cả nước.  
phân tích, giải thích rõ ràng; những nguyên  
nhân và kết quả có thể xảy ra, … Nguồn thông  
tin này mang đến các góc nhìn đa chiều giúp  
mọi người nhìn nhận bao quát vấn đề, định  
hướng lại quan điểm cá nhân. Từ đó, một cách  
vô hình chung, truyền thông đã phần nào làm  
thoả mãn nhu cầu thông tin, giải đáp những  
thắc mắc của công chúng và đi đến sự thống  
nhất tư tưởng, hành động giữa các nhóm cộng  
đồng xã hội.  
Tương tự như vậy, với nghi vấn về hiệu quả  
của loại vaccin Sinopharm khiến, một số người  
không muốn và không sẵn sàng tiêm loại  
vaccin này, các cơ quan chức năng và báo chí  
truyền thông đã truyền thông tương đối hiệu  
quả để giải đáp những nghi ngờ, thắc mắc của  
người dân. Trên các website của Bộ Y tế và các  
báo điện tử chính thống có cung cấp thông tin  
đầy đủ về các loại vaccin phòng chống Covid-19  
được Bộ Y tế cấp phép sử dụng tại Việt Nam sau  
quá trình kiểm định chất lượng, trong đó có  
vaccin Sinofarm. Bên cạnh đó, vaccin này cũng  
nằm trong hệ thống COVAX Facility và được  
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thẩm định.  
Như vậy việc định hướng không giống như  
sự ép buộc, áp đặt nhân dân hiểu theo, làm theo  
những gì mà người/tổ chức làm truyền thông  
mong muốn. Việc định hướng này xuất phát từ  
nhu cầu của các bên liên quan. Khi có sự định  
hướng, các bên dễ tìm được tiếng nói chung,  
thống nhất về mục đích và ý chí, do vậy tất cả  
các bên đều nhận được những lợi ích cho mình.  
Vậy báo chí truyền thông có thể định hướng  
DLXH như thế nào? Có hai gợi ý sau đây:  
Báo chí truyền thông cũng đã phản ánh  
nhiều ý kiến xung quanh việc chậm trễ cung  
cấp vaccin cho người dân hay những bàn luận  
có nên tiêm dịch vụ vaccin Covid 19 để giảm  
tải cho Nhà nước hay không. Bên cạnh đó, báo  
chí truyền thông đã tiến hành đăng tải những  
bài phỏng vấn các lãnh đạo để thông tin cho  
công chúng biết. Nguyên nhân chậm trễ trong  
việc tiêm vaccin là do lượng cung không đủ  
cầu, Việt Nam đã đặt mua vaccin tại các công  
ty có uy tín trên thế giới nhưng họ không sản  
xuất kịp. Những tham vấn từ các chuyên gia  
hàng đầu trong nước và quốc tế cũng được  
phản ảnh để công chúng hiểu rõ hơn về bối  
cảnh và điều kiện thực tế. Kể cả các doanh  
nhân và người dân cũng vào cuộc để tham gia  
đóng góp ý kiến trên các phương tiện truyền  
thông nhằm đề xuất, tìm kiếm giải pháp phù  
hợp và hiệu quả nhất trong giai đoạn hiện nay.  
Hàng loạt các báo lớn như Vnexpress,  
Vietnamnet, Tuổi trẻ, Thanh niên, Lao động, …  
đều có bài viết phản ánh các ý kiến phản biện  
với những thông tin thực tiễn có giá trị; những  
Thứ nhất là, những thông tin cần định hướng  
DLXH phải được chọn lọc theo một số tiêu chí  
như: mang lại giá trị cho công chúng, lấy lợi  
ích của công chúng lên hàng đầu, có tính thời  
sự quan trọng liên quan đến quốc gia – xã tắc.  
Thứ hai là, trong quá trình đưa thông tin, cần  
phải đan xen nội dung phân tích, giải thích,  
bình luận, đánh giá nhằm cung cấp các góc  
nhìn đa chiều, sâu sắc. Báo chí truyền thông  
không chỉ đưa lên hàng loạt những tin tức đó  
đây trong các lĩnh vực, góc cạnh của đời sống  
rồi để mặc đó cho công chúng tự cảm nhận, tự  
đánh giá mà quan trọng hơn là cần phải thể hiện  
tính phản biện khách quan với những lập luận  
lô-gic, luận điểm, luận cứ rõ ràng. Nội dung  
phản ánh mang đến hàm lượng trí tuệ cao và  
đảm bảo tính nhân văn, “vị nhân sinh” sẽ có tác  
dụng kích thích cảm xúc và suy nghĩ, hướng  
dẫn tư tưởng, nhận thức của công chúng.  
Truyền thông, báo chí thể hiện đúng vai trò  
“quyền lực thứ tư” khi nó luôn ý thức, trách  
nhiệm về tính chiến đấu và cách mạng của  
162  
Đỗ Hải Hoàn / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 5(48) (2021) 155-163  
mình. Trước cái hay, cái đẹp, cái thiện, cần biết  
khen ngợi, khích lệ và lan toả nhằm huy động  
sự hưởng ứng, ủng hộ bằng tinh thần và vật  
chất từ các lực lượng trong xã hội. Đối diện với  
điều xấu, ác, tiêu cực trong xã hội, cần lên tiếng  
phê phán, chỉ trích, tạo làn sóng áp lực mạnh  
mẽ để nhân dân và các cơ quan chức năng cùng  
vào cuộc xử lý, loại bỏ khỏi xã hội.  
đã đổ ra các đường phố dồn về phía trung tâm.  
Ngoài những hành động ăn mừng văn minh,  
lịch sự, nhiều người lợi dụng bối cảnh đó để thể  
hiện những hành vi quá khích như đua xe  
xuyên đêm, rú ga, lạng lách, đánh võng, đốt  
pháo sáng,… gây nguy hại đến sự an toàn của  
bản thân và người khác. Báo chí truyền thông  
phản ánh sự việc khiến dư luận phẫn nộ, chỉ  
trích đồng thời kịch liệt phản đối, loại bỏ những  
hành vi xấu, thiếu chuẩn mực, gây rối trật tự xã  
hội. Điều này vừa có tác dụng chấn chỉnh đối  
với những người có ý định “bắt chước” làm  
theo những hành vi thiếu văn hoá, bài trừ  
những hành vi quá khích đã gây ra đồng thời  
vừa có tác dụng nhắc nhở mỗi người cần biết  
điều hoà tâm trạng của bản thân sao cho phù  
hợp, không nên vì vui quá hay buồn quá mà có  
những biểu hiện tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến  
người xung quanh.  
Để làm được như vậy, chúng ta phải nhìn  
thẳng vào sự thật, phản ánh, lan truyền chúng.  
Người làm truyền thông báo chí cần trang bị  
những kỹ năng như: lắng nghe và bao quát vấn  
đề một cách đa chiều; phân tích, lập luận lô gic;  
xác định được các mối quan hệ tiềm ẩn, phán  
đoán mức độ ảnh hưởng hay nguy cơ có thể xảy  
ra để điều hướng dư luận. Trên cơ sở đó có thể  
thống nhất tư tưởng và ý chí, huy động sức  
mạnh nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của nhân dân  
mới mong đạt được sự thay đổi tích cực. Đây là  
trách nhiệm cao cả của báo chí, truyền thông.  
Ngoài ra, rất nhiều sự việc, sự kiện diễn ra  
trong đời sống xã hội gây hoang mang, lo sợ  
hay bức xúc, phẫn nộ của người dân nhưng với  
sự đồng hành của báo chí truyền thông khiến  
cho sự việc được làm sáng tỏ tạo niềm tin cho  
công chúng dẫn đến những tác động tích cực  
đối với tâm trạng xã hội. Một loạt các vụ việc  
nghiêm trọng như sự cố Formosa ở Vũng Áng,  
Hà Tĩnh; dự án cải tạo thay thế 6700 cây xanh  
ở Hà Nội, vụ tiêu cực PMU 18,… đều có sự  
tham gia quyết liệt và mạnh mẽ của nhân dân.  
Và báo chí truyền thông chính là nơi châm ngòi  
nổ cho những cuộc phản biện lớn, tranh luận, ý  
kiến nảy lửa của đông đảo các tầng lớp trong xã  
hội. Đó là tiền đề vừa tạo áp lực cho các cơ  
quan chức năng sớm xử lý vụ việc, vừa là cơ sở  
lý luận và thực tiễn hỗ trợ cho quá trình điều  
tra. Ai có tội thì phải bị trừng phạt, ai có công  
thì được khen thưởng. Mọi việc trở nên công  
khai, minh bạch, rõ ràng. Mọi người đều được  
nói lên tiếng nói của mình. Điều này giúp giải  
toả căng thẳng trong xã hội, điều hoà dư luận  
và phần nào thoả mãn nhu cầu của công chúng.  
Nhà nghiên cứu xã hội học Habermas cho rằng  
2.3.4. Truyền thông điều hoà dư luận xã hi  
Điều hoà là làm giảm sự căng thẳng, khó  
chịu, bức bối; làm tăng sự chấp nhận, thoả mãn,  
hài lòng và giữ bầu không khí yên lành, ổn  
định, an toàn. Vì vậy, có thể hiểu điều hoà dư  
luận xã hội là quá trình gây ảnh hưởng tới cảm  
xúc và hành động của công chúng khiến họ đạt  
được trạng thái bình ổn, lắng dịu sau khi chứng  
kiến sự việc/sự kiện gây tác động tiêu cực đối  
với họ. Ở tầm vĩ mô, điều hoà dư luận xã hội  
thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của các  
Chính Phủ. Báo chí truyền thông như một cánh  
tay nối dài của Chính Phủ để có thể đi sâu vào  
từng “ngõ ngách” trong suy nghĩ của quần  
chúng để hiểu được họ và hợp tác cùng họ, hỗ  
trợ họ điều hoà tâm trạng, hành vi. “Truyền  
thông là nơi cung cấp những thông tin mang lại  
trạng thái cân bằng” (Matthew A. Baum &  
Philip B.K. Potter (2008).  
Đêm ngày 6/12/2018, khi Đội tuyển bóng đá  
Việt Nam chiến thắng trước Philippines giành  
quyền vào chung kết, rất đông người hâm mộ  
Đỗ Hải Hoàn / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 5(48) (2021) 155-163  
163  
đáp ứng nhu cầu của công chúng là nền tảng của  
hoạt động quản trị dân chủ và tiến bộ (Matthew  
A. Baum & Philip B.K. Potter, 2008).  
đối tượng và cũng là đối tác của truyền thông.  
Ngược lại, truyền thông khơi nguồn, phản ánh  
và lan truyền dư luận xã hội đồng thời định  
hướng và điều hoà dư luận xã hội. Báo chí  
truyền thông hoàn thành vai trò của mình chính  
là thể hiện năng lực, sức mạnh và tạo nên điểm  
cuốn hút, hấp dẫn khiến công chúng “không thể  
chối từ”.  
Hiểu được tâm trạng và nắm bắt được phản  
ứng của xã hội là rất cần thiết đối với các nhà  
quản lý, lãnh đạo để từ đó họ có thể kịp thời  
đưa ra các biện pháp giải quyết vấn đề. Và  
trong mọi trường hợp, truyền thông, báo chí là  
công cụ không thể thiếu trong quá trình điều  
hoà dư luận bằng các công việc như: thu thập  
thông tin, dữ liệu từ thực tiễn; xác minh sự  
việc; phản ánh sự việc đầy đủ, rõ ràng, trung  
thực, phản ánh các ý kiến và có thể đưa ra  
những phân tích, nhận định khách quan, đảm  
bảo tính lô-gic, khoa học. Ở một xã hội hiện  
đại, điều hoà dư luận là nhu cầu tất yếu đến từ  
phía nhân dân và các nhà quản lý, lãnh đạo bởi  
ai cũng mong muốn một xã hội công bằng,  
minh bạch, tiến bộ và phát triển chứ không phải  
bị mắc kẹt mãi trong những vấn đề gây ảnh  
hưởng tiêu cực. Như vậy, báo chí truyền thông  
đóng vai trò cầu nối trung gian hoà giải giữa  
nhân dân và các cơ quan quản lý Nhà nước.  
Tài liệu tham khảo  
[1] N.V. Dững. (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb  
Lao động.  
[2] L.K. Hiếu. (2014), Nghiên cứu và định hướng dư  
luận xã hội, Nxb Lý luận chính trị.  
[3] N.Q. Thanh. (2011), Xã hội học về dư luận xã hội,  
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.  
[4] H.I.M. Claes, H.G. Boomgaarden. (2006). Media  
Effects on Public Opinion About the Enlargement of  
the European Union, JCMS Journal of Common  
[5] J. Pacheco, E. Maltby. (2017). The Role of Public  
OpinionDoes It Influence the Diffusion of ACA  
Decisions?, J Health Polit Policy Law (2017) 42 (2):  
309340,  
[6] M.A. Baum, P.B.K. Potter. (2008). The Relationship  
Between Mass Media, Public Opinion, and Foreign  
Policy: Toward a Theoretical Synthesis, Annual  
3. Kết luận  
Truyền thông và dư luận xã hội có mối quan  
hệ tuần hoàn, tương hỗ lẫn nhau như một dòng  
chảy tự nhiên không ngừng vận động để bồi  
đắp cho cuộc sống ngày càng tiến bộ, phát triển  
hơn. Dư luận xã hội là chất liệu, là sản phẩm, là  
[7] W.P. Davison. (1958). The Public Opinion Process,  
Public Opinion Quarterly, Volume 22, Issue 2,  
SUMMER  
1958,  
Pages  
91106,  
pdf 9 trang baolam 16/05/2022 2960
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của báo chí - Truyền thông trong việc tạo lập và định hướng dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_bao_chi_truyen_thong_trong_viec_tao_lap_va_dinh.pdf